Bài 12
Thần Linh là Tình Yêu
Xuất Thân
H |
ôm nay chúng ta bắt đầu
buổi giáo lý bằng việc lập lại câu phát biểu
trước đây chúng ta đã tuyên xưng khi nói đến
đề tài Một Thiên Chúa duy nhất là Đấng đức
tin Kitô giáo dạy chúng ta phải nhận biết và tôn thờ
như Thiên Chúa Ba Ngôi. “Tình yêu hỗ tương giữa Chúa
Cha và Chúa Con đã làm xuất thân nơi các Ngài và từ các
Ngài một Ngôi Vị: Chúa Cha và Chúa Con ‘nhiệm xuất‘
(spirate) Thần Linh Yêu Thương cùng bản thể với
các Ngài”. Từ ban đầu Giáo Hội đã xác tín rằng
Chúa Thánh Thần như Tình Yêu xuất thân từ Chúa Cha và Chúa
Con.
Nền
tảng được lưu truyền từ các Giáo Phụ
và Tiến Sĩ Hội Thánh được căn cứ vào
Tân Ước, nhất là vào những lời của Thánh
Gioan trong bức thư thứ nhất của thánh nhân: “Thiên
Chúa là Tình Yêu” (1Jn.4:8).
Những
lời này có ý nói đến chính yếu tính của Thiên Chúa,
với yếu tính này Ba Ngôi chỉ có một bản thể
duy nhất và tất cả ba đều là Tình Yêu, tức là
đều muốn tốt cho nhau, một tác lực nội
tại hướng về đối tượng được
yêu, ở bên trong cũng như bên ngoài sự sống của
Ba Ngôi.
Thế nhưng, cùng với Thánh Tôma chúng ta phải
nhận định rằng ngôn ngữ của chúng ta nghèo nàn
chữ nghĩa để có thể nói lên tác động của
lòng muốn là tác động kéo chủ thể yêu đến
với đối tượng yêu. Tác động này là
do bản chất nội tại của tình yêu. Bởi nó xuất
phát từ lòng muốn hay con tim, do đó,
nó không rõ ràng và tự thức như một tư tưởng
xuất phát từ lý trí. Trong lãnh vực tâm thức, chúng ta
có những chữ khác nhau để diễn đạt, cả
về mối liên hệ giữa chủ thể biết với
đối tượng biết (biết, hiểu), lẫn
về việc phát hiện tư tưởng từ trí khôn theo tác động biết (phát ngôn hay verbum, lời
nói tiến hành từ trí khôn). Trường hợp thuộc
lãnh vực lòng muốn và con tim thì lại
khác. Đúng thế, “giả sử người ta yêu một
vật gì đó thì sẽ có một ấn tượng lưu
lại nơi người đó, nơi cảm tình của
anh ta hay chị ta, một ấn tượng về vật
được yêu, vì vật được yêu ở trong
con người yêu cũng như đối tượng biết
ở trong con người biết nó.
“Vậy nếu một người biết mình và
yêu mình thì người ấy ở trong chính mình, không phải
chỉ vì người đó đồng nhất với chính
mình, mà vì người ấy còn là đối tượng nhận
biết cũng như yêu thương của chính họ”.
Tuy thế, theo ngôn ngữ loài người, “có những từ
ngữ khác chưa được tạo ra để diễn
đạt mối liên hệ hiện hữu giữa tình cảm,
hay ấn tượng của đối tượng yêu cũng
thế, với nguyên lý (nội tại) làm cho cảm tình này
phát hiện, hoặc ngược lại. Bởi thế, vì
từ vựng nghèo nàn (propter
vocabulorum inopiam), mà những
mối liên hệ kia cũng được
diễn tả bằng những từ ngữ yêu thương và hoan lạc. Như người
ta đã gọi Ngôi Lời là nhận thức được
cưu mang hay khôn ngoan được hạ sinh”.
Thế
rồi từ đó thánh Tiến Sĩ Thiên Thần kết
luận: “Nếu trong những chữ tình yêu và yêu thương (diligere) người ta chỉ muốn nói đến
mối liên hệ giữa người yêu và vật được
yêu, thì những chữ này (nơi Ba Ngôi), như chữ biết
và chữ hiểu, cũng ám chỉ yếu tính của Thiên
Chúa. Ngoài ra, nếu chúng ta cũng sử dụng những chữ
này để nói đến mối liên hệ vốn có giữa
cái phát xuất bởi hay tiến hành từ tác động
cùng đối tượng yêu thương, với nguyên lý
tương hệ, nhờ đó Tình
Yêu được coi như là
Tình Yêu xuất thân, và Yêu Thương
được coi như là nhiệm
xuất tình yêu xuất thân,
thì Tình Yêu là danh xưng của một ngôi vị...” và là tên
gọi của chính Chúa Thánh Thần (Summa Theol., I,q.37,a.1).
Việc
Thánh Tôma phân tách ngữ học rất hữu dụng để
có một ý niệm tương đối rõ ràng về Chúa
Thánh Thần như Ngôi-Vị-Tình-Yêu trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi,
tất cả Ba đều “là Tình Yêu”. Thế nhưng, phải
nói rằng, việc gán ghép tình yêu cho Chúa Thánh Thần, như
danh xưng xứng hợp của Thần Linh, được
thánh Tiến Sĩ Thiên Thần rút từ giáo huấn của
các Giáo Phụ Giáo Hội. Phần các Giáo Phụ, các vị
là những vị loan truyền mạc khải của Chúa
Giêsu và giáo huấn của các tông đồ, những gì chúng ta cũng đã biết
qua những bản văn Tân Ước. Thế nên, trong lời
cầu linh mục dâng lên Chúa Cha tại Bữa Tiệc Ly,
Chúa Giêsu nguyện rằng: “Con đã tỏ danh Cha cho họ,
và Con còn tỏ ra nữa, để tình yêu Cha yêu Con cũng ở
trong họ và Con cũng ở trong họ” (Jn.17:26). Ở đây chúng ta đối diện
với tình yêu Cha yêu Con “trước khi thế gian được
tạo dựng” (Jn.17:24). Theo một số nhà chú giải thánh
kinh, những lời Chúa Giêsu ấy, một cách gián tiếp,
chỉ về Chúa Thánh Thần, Tình Yêu Chúa Cha đời đời
yêu Chúa Con, Đấng đời đời được
Chúa Cha yêu. Trước đó, Thánh Tôma đã cẩn thận
nghiên cứu một bản văn của Thánh Augustinô về
tình yêu hỗ tương này của Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa
Thánh Thần (x.De Trinitate,
VI,5; XIV,7, PL 43,928,1065). Bản văn này cũng được
các học giả khác bàn luận đến vì nó đã đi
vào nền thần học thời trung cổ: “Utrum Pater et Filius diligant se Spiritu
Sancto”; thánh nhân đã kết luận việc phân tách văn
tự và giáo thuyết bằng một giải thích tuyệt
vời như sau: “Cũng thế, chúng ta nói cây cối nở
hoa thế nào thì chúng ta cũng nói được rằng Chúa
Cha nói với chính mình và nói với tạo vật trong Lời
là Con Ngài, và Chúa Cha với Chúa Con yêu nhau và yêu chúng ta trong Chúa
Thánh Thần, đó là trong Tình Yêu nhiệm xuất” (Summa Theol., I, q.37,a.2).
Trong
cùng bài từ biệt, Chúa Giêsu cũng loan báo rằng Chúa Cha
sẽ sai đến với các tông đồ và Giáo Hội
“Đấng An Uûi... Thần chân lý” (Jn.14:16-17), và Người
là Con cũng sẽ sai Ngài đến (x.Jn.16:7) “để ở
cùng các con luôn mãi” (Jn.14:16-17). Bởi thế, các tông đồ
sẽ lãnh nhận Chúa Thánh Thần như Tình Yêu hiệp nhất
Chúa Cha với Chúa Con. Nhờ quyền năng của Tình Yêu
này, Chúa Cha và Chúa Con “sẽ đến lập cư nơi họ”
(Jn.14:23).
Ý
nghĩa này còn được Chúa Giêsu nhắc đến
trong một đoạn khác của lời cầu linh mục
về việc hiệp nhất của các môn đệ Người:
“Để tất cả được nên một trong chúng
ta, cho thế gian biết rằng Cha đã sai Con” (Jn.17:21). Nếu
các môn đệ phải là “một trong chúng ta”, tức là,
trong Chúa Cha và Chúa Con, thì sự hiệp nhất này chỉ được
thực hiện bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Đấng
cũng được Chúa Kitô đồng thời loan báo là
sẽ đến và ở với các vị: Ngài “ở với
các con và ở trong các con” (Jn.14:17).
Lời
loan báo này đã được Giáo Hội sơ
khai chấp nhận và thấu hiểu. Ngoại trừ Phúc
Aâm thánh Gioan, sự hiệp nhất này còn được trình
bày nơi bút tích của Thánh Phaolô về tình yêu Thiên Chúa “đã
được tuôn tràn vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Đấng
đã được ban cho chúng ta” (Rm.5:5). Những lời
Thánh Gioan trong thư thứ nhất của
thánh nhân cũng nói lên như thế: “Nếu chúng ta yêu nhau
thì Thiên Chúa sẽ ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài được
trọn hảo nơi chúng ta. Đây là cách chúng ta biết rằng
chúng ta ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta; đó là Ngài đã
ban cho chúng ta Thần Linh của Ngài” (1Jn.4:12-13).
Truyền
thống về Chúa Thánh Thần là Ngôi-Vị-Tình-Yêu đã được
khai triển từ những căn gốc này. Công cuộc của
ba ngôi trong việc thánh hóa cứu độ đã khiến
cho các Giáo Phụ và Tiến Sĩ Hội Thánh “phóng tầm mắt
thấu suốt” vào mầu nhiệm mật thiết của
Ba-Ngôi-Thiên-Chúa.
Thánh
Augustinô đã “phóng tầm mắt thấu suốt” này đặc
biệt nơi tác phẩm “De
Trinitate” của mình, bằng cách đóng góp quan trọng vào
việc thành hình và phổ biến giáo thuyết về Chúa
Thánh Thần ở Tây Phương. Tư tưởng của
thánh nhân đã khai triển ý niệm về Chúa Thánh Thần
là Tình Yêu hỗ tương và là mối hiệp nhất giữa
Chúa Cha và Chúa Con trong niềm thông hiệp của Ba Ngôi. Thánh
nhân viết: “Như chúng ta gọi cách xứng hợp một
mình Lời Thiên Chúa là ‘Khôn Ngoan’, mặc dù nói chung Thánh Thần
và chính Chúa Cha cũng là Khôn Ngoan, thì Thần Linh được
gọi bằng một danh xưng xứng hợp là Tình Yêu,
mặc dù Chúa Cha và Chúa Con theo nghĩa chung cũng là Tình Yêu”
(De Trinitate, XV,17,31;
CC 50,505).
Chúa
Thánh Thần có một cái gì đó chung với
Chúa Cha và Chúa Con... một hiệp thông cùng
bản thể và đồng vĩnh cửu... Các Ngài không qúa
ba vị; một vị yêu vị từ mình mà ra; một vị
yêu vị mà mình từ đó phát sinh; và vị chính là Tình Yêu”
(De Trinitate, VI,5,7;
CC 50,295,236).
Đông
Phương cũng chủ trương như vậy, nơi
mà các vị Giáo Phụ nói về Chúa Thánh Thần như Đấng
là hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con, và là mối giây
liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa. Các thánh Cyril of
Các
nhà thần học Đông Phương sau này cũng theo truyền thống ấy. Trong số này có
đan sĩ Gregory Palamas, Tổng Giám Mục ở
Thessalonika (thế kỷ 14), đã viết: “Thần Linh của
Lời cao cả giống như một thứ tình yêu mà Chúa
Cha dành cho Lời được nhiệm sinh; và chính tình yêu
này mà Lời cũng là Con chí ái của Chúa Cha đã yêu Đấng
đã nhiệm sinh ra Người” (Capita Physica, 36; PG 150,1144 D-1145 A).
Chính
giáo thuyết của cả Đông và Tây này đã được
Đức Lêô XIII từ lưu truyền tập trung lại
và tổng kết lại trong thông điệp của mình về
Chúa Thánh Thần, trong đó, chúng ta đọc thấy Chúa
Thánh Thần “là Sự Thiện thần linh và là Tình Yêu hỗ
tương giữa Chúa Cha và Chúa Con” (x.DS 3326). Tuy nhiên, để kết luận, chúng ta lại
trở về với Thánh Augustinô: “Tình Yêu có do Thiên Chúa và là
Thiên Chúa: thế nên, Thánh Thần đúng là Đấng mà nhờ
Ngài tình yêu Thiên Chúa tràn vào lòng chúng ta để làm cho Ba Ngôi
ngự trong chúng ta... Chúa Thánh Thần đáng được
gọi là Tặng Aân do Tình Yêu trao ban” (De Trinitate, XV,18,32; PL 42,1082-1083). Vì là Tình yêu, Chúa Thánh Thần là Tặng Aân. Đó là đề tài cho buổi giáo lý lần tới.
(Bài
Giáo Lý thứ 58 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ
ngày Thứ Tư,
trong loạt 80 bài về chủ đề
Chúa Thánh Thần)