Bài 14
Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh Hóa
T |
heo Thánh Kinh, thần linh không
những là ánh sáng chiếu soi bằng việc làm cho hiểu
biết và gợi nói tiên tri, mà còn là một quyền năng
thánh hóa nữa. Thần linh của Thiên Chúa thông truyền sự
thánh thiện, vì chính Ngài là “một thần linh thánh thiện”,
là “thánh linh”. Tước hiệu này được gán cho thần
linh ở chương 63 Sách Tiên Tri Isaia, ở đoạn mà
sau một bài thơ hay bài thánh vịnh dài viết lên chúc tụng
những phúc lợi Giavê ban phát và phiền trách những
hoang đàng trong giòng lịch sử của dân Yến Duyên,
tác giả sách thánh viết rằng: “họ đã nổi loạn
và làm phiền muộn thánh linh của Ngài” (Is.63:10). Thế
nhưng, tác giả còn thêm, sau khi bị Thiên Chúa trừng phạt,
“họ đã nhớ lại những ngày xưa kia và nhớ
lại Moisen tôi tớ của Ngài”, và họ tự nghĩ:
“Đấng đặt thánh thần của Ngài giữa họ
nay ở đâu?” (Is.63:11).
Danh
xưng này cũng làm âm dội Thánh Vịnh 53, nơi mà tác
giả, trong khi cầu xin Chúa thứ tha và xót thương (Miserere mei Deus, secundum, miserecordiam
tuam), đã van nài: “Xin đừng hất hủi tôi khỏi
thiên nhan Ngài cũng đừng lấy mất thánh thần
của Ngài nơi tôi” (Ps.51:13). Câu Thánh Vịnh này nói lên nguyên
lý thiện hảo sâu xa tác hành bên trong dẫn con người
đến sự thánh thiện (“thần linh thánh thiện”).
Sách
Khôn Ngoan xác nhận Thánh Thần không tương xứng với
tất cả những gì là thiếu chân thành và công chính: “Thánh
linh của kỷ cương tránh lánh xảo quyệt và rút
lui khỏi dẫn dụ vô nghĩa; và hổ thẹn khi xẩy
ra bất chính” (Wis.1:5). Điều này nói lên mối liên hệ
rất chặt chẽ giữa khôn ngoan và thần linh. Theo
khôn ngoan, tác giả hứng khởi viết: “có một thần
linh tinh thông và thánh hảo” (7:22), một thần linh do đó
phải là một thần linh “không tì vết” và “yêu chuộng
sự thiện”. Thần linh này là chính thần linh của
Thiên Chúa, vì Ngài “toàn năng và toàn kiến” (
Sự
khẩn thiết của thánh thiện trong Cựu Ước
được gắn liền với chiều kích văn hóa
và tư tế của cuộc sống dân Yến Duyên. Việc
thờ phượng phải được cử hành ở
một nơi “thánh”, nơi Thiên Chúa ba lần thánh ngự
(x.Is.6:1-4). Mây là dấu hiệu Chúa hiện diện
(x.Ex.40:34-35; 1Kgs.8:10-11). Mọi sự ở trong lều tạm,
trong Đền Thờ, trên bàn thờ và trên mình các vị tư
tế, bắt đầu từ Aaron, vị tư tế tiên
khởi được hiến thánh (x.Ex.29:1ff), đều
phải xứng đáng với những điều kiện
“thánh hảo”. Sự thánh hảo giống như một hào
quang tôn kính vàsùng mộ bao trùm những con người, những
lễ nghi, những địa điểm được ân
huệ có liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa.
Một
vài bản văn Thánh Kinh xác nhận việc Thiên Chúa hiện
diện trong lều tạm, trong sa mạc và trong Đền
Thờ Gialiêm (Ex.25:8,40:34-35; 1Kgs.8:10-13; Ez.43:4-5). Chưa hết,
trong đoạn cung hiến Đền Thờ Solomon, vua
Solomon đã nói lên vấn nạn Thiên Chúa hiện diện
qua lời nguyện như sau: “Có thể nào Thiên Chúa lại
thực sự ở giữa loài người trên mặt đất
này? Nếu các tầng trời và những tầng cao thẳm
còn không thể chứa nổi Ngài thì Đền Thờ mà tôi
xây cất đây lại càng không thể” (1Kgs.8:27). Trong sách
Tông Đồ Công Vụ, Thánh Stêphanô đã phát biểu cùng một
xác tín về Đền Thờ như thế: “Thế nhưng
Đấng Tối Cao không ở nơi những ngôi nhà do bàn
tay nhân loại làm nên” (Acts
Vì
lý do đó, Thiên Chúa đã hứa ban tặng ân Thần Linh
trong lòng, như lời tiên tri nổi tiếng của Ezekien
như sau: “Ta sẽ chứng tỏ sự thánh thiện vì đại
danh của Ta, một danh hiệu đã bị tục hóa giữa
các dân nước, nơi các ngươi đã làm cho danh Ta bị
tục hóa... Ta sẽ tẩy rửa các ngươi khỏi
mọi nhơ nhớp và khỏi mọi ngẫu tượng;
Ta sẽ ban cho các ngươi một thần trí mới
trong mình các ngươi... Ta sẽ đặt thần linh của
Ta trong các ngươi...” (Ez.36:23-27). Hoa trái của tặng ân
lạ lùng này là sự thánh thiện thực tiễn được
sống bằng một tấm lòng gắn bó chân tình với
thánh ý của Thiên Chúa. Nhờ sự hiện diện thân tình
của Chúa Thánh Thần, cuối cùng lòng con người sẽ
trở nên dễ dạy đối với Thiên Chúa và cuộc
đời của tín hữu sẽ hòa hợp với luật
Chúa.
Thiên
Chúa phán: “Ta sẽ đặt thần linh của Ta trong các
ngươi và Ta sẽ làm cho các ngươi sống theo các
chỉ dụ của Ta, sẽ làm cho các ngươi tuân giữ
các lề luật của Ta và thi hành lề luật của
Ta” (Ez.36:27). Như thế là Thần Linh thánh hóa toàn thể
cuộc sống của con người.
“Thần
dối trá” chống lại với thần linh Thiên Chúa
(x.1Kgs.22:21-23); “thần ô uế” chiếm cứ con người
và người ta, làm cho họ cúi đầu tôn thờ ngẫu
tượng. Trong Sách tiên tri Zacharia, khi nói về việc giải
thoát của Gialiêm, hướng về đấng thiên sai,
chính Chúa đã hứa làm cho dân biết cải hối, khi
khai trừ thần ô uế: “Vào ngày đó... Ta sẽ hủy
hoại tên tuổi của các ngẫu tượng khỏi đất
nước... Ta cũng sẽ loại trừ khỏi đất
nước những tiên tri và thần ô uế...” (Zech.13:1-2;
x.Jer.23:9f; Ex.13:2ff).
Chúa
Giêsu đã loại trừ “thần ô uế” (x.Lk.9:42,
Tất
cả những cá nhân hay con người chạy theo thần
trí phản lại với Thiên Chúa thì “làm phiền” thần
linh Thiên Chúa. Đó là điều tiên tri Isaia diễn tả
mà chúng ta đã có dịp trưng dẫn, ở đây lập
lại thiết tưởng rất thích hợp. Điều
này được đọc thấy trong phần suy niệm
gọi là Trito-Isaia về lịch sử dân Yến Duyên: “Chẳng
phải là một sứ giả hay là một thiên thần, mà
là chính (Thiên Chúa) đã cứu họ. Vì tình yêu và lòng thương
xót của Ngài, Ngài đã tự cứu họ, nâng họ lên
và mang lấy họ suốt cả một thời xưa.
Thế nhưng họ đã phản loạn và làm phiền
lòng thánh linh của Ngài” (Is.63:9-10). Vị tiên tri đã đối
chiếu giữa lòng quảng đại của tình yêu cứu
rỗi Thiên Chúa dành cho dân Ngài với lòng vô ơn bội nghĩa
của họ. Trong cách vị tiên tri diễn tả theo đường
lối nhân loại, thì việc gán cho thần linh Thiên Chúa nỗi
phiền muộn vì bị dân ruồng bỏ am hợp với
tâm lý nhân loại. Thế nhưng, theo ngôn ngữ của vị
tiên tri, người ta có thể nói rằng tội lỗi của
dân làm buồn phiền thần linh Thiên Chúa nhất là vì thần
linh này thánh hảo: tội lỗi phạm đến sự
thánh thiện thần linh. Sự xúc phạm trầm trọng
hơn vì thánh thần Thiên Chúa chẳng những đã được
Thiên Chúa đặt để nơi Moisen là tôi tớ của
Ngài (x.Is.63:11), mà còn được Ngài ban cho dân Ngài như một
vị hướng đạo trong cuộc Xuất Ai Cập
của họ, như một dấu hiệu và lời đoan
nguyền cho việc cứu độ sau này: “và họ đã
nổi loạn...” (Is.63:10).
Thánh
Phaolô cũng thế, như một người thừa hưởng
ý niệm và từ vựng này, đã khuyên răn Kitô hữu
giáo đoàn Eâphêsô: “Đừng làm phiền lòng Thánh Thần
Thiên Chúa mà anh em đã được ghi ấn tín cho ngày cứu
độ” (Eâph.4:30,1:13-14).
Cách
diễn tả “làm buồn phiền Thánh Thần” chứng tỏ
rõ ràng dân Cựu Ước đã dần dần tiến từ
ý niệm thánh thiện linh thiêng, một sự thánh thiện
ngoại tại, đến ước muốn thánh thiện
sâu xa bên trong dưới ảnh hưởng của Thần
Linh Thiên Chúa.
Việc
thường dùng danh hiệu “Thánh Thần” nói lên sự tiến
hóa này. Không có mặt trong hầu hết các sách cổ thời
của Thánh Kinh, danh hiệu này từ từ xuất hiện
chính là vì nó muốn nói lên vai trò của Thần Linh trong việc
thánh hóa tín hữu. Những bản thánh ca Qumran, (chẳng hạn
như những bản thánh ca trong The First Cave of Qumran,
16:12,17:26), ở một số đoạn tạ ơn Thiên
Chúa về việc thanh tẩy nội tâm mà Ngài đã thực
hiện nhờ Thánh Thần của Ngài.
Ước
muốn thiết tha của người tín hữu không còn
mong chỉ được giải thoát khỏi những kẻ
bức hiếp mình, như trong thời các quan án, mà trên hết
mọi sự, họ mong sao cho mình có thể phụng sự
Chúa “trong thánh thiện và công chính trước nhan Ngài mọi
ngày trong đời sống chúng ta” (Lk.1:75). Vì thế mới
cần đến ơn thánh hóa của Chúa Thánh Thần.
Sứ
điệp Phúc Aâm đã đáp ứng lòng mong đợi này.
Có một điều đáng chú ý là, trong cả 4 Phúc Aâm, chữ
“thánh” lần đầu tiên xuất hiện liên quan đến
Thần Linh, trong cả đoạn nói về việc hạ
sinh của Gioan Tẩy Giả và của Chúa Giêsu (Mt.1:18-20;
Lk.1:15,35), cũng như trong đoạn loan báo phép rửa
trong Thánh Thần (Mk.1:8; Jn.1:33). Trong đoạn truyền
tin, Trinh Nữ Maria nghe thấy những lời của thiên
thần Gabiên: “Thánh Thần sẽ đến trên trinh nữ...
vì Đấng hạ sinh sẽ là thánh và được gọi
là Con Thiên Chúa” (Lk.1:35). Thế là hoạt động thánh hóa
hệ trọng của Thánh Thần nhắm đến tất
cả mọi dân nước đã được bắt đầu.
(Bài
Giáo Lý thứ 31 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ
ngày Thứ Tư, 21-2-1990,
trong
loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)