Bài 20
Thánh Thần Hiện
Xuống:
Khai Mào cho Sứ Vụ
của Giáo Hội
T |
rong Sắc Lệnh Ad Gentes của
Công Đồng Chung Vaticanô II về việc Truyền Giáo của
Giáo Hội thì biến cố Hiện Xuống và việc
khai mào lịch sử của Giáo Hội được liên
kết chặt chẽ với nhau: “Vào Ngày Lễ Ngũ Tuần
(Chúa Thánh Thần) đã hiện xuống trên các môn đệ...
Bởi thế kể từ Ngày Lễ Hiện
Xuống này các ‘Tông Đồ Công Vụ’ đã được
bắt đầu” (đoạn 4). Do đó, nếu từ
giây phút hạ sinh của mình, qua việc vào đời trong
ngày Lễ Hiện Xuống, Giáo Hội tỏ ra mình là “truyền
giáo”, thì việc vào đời này là việc của Chúa Thánh
Thần. Chúng ta còn có thể nói rằng Giáo Hội luôn luôn là
như thế: Giáo Hội vẫn “ở trong tình trạng
truyền giáo” (in statu missionis).
Đặc tính truyền giáo thuộc về chính
yếu tính của Giáo Hội. Nó là một tính chất
làm nên Giáo Hội Chúa Kitô, vì Thánh Thần đã làm cho Giáo Hội
nên truyền giáo ngay từ ban đầu.
Phân
tách bản văn của sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại
biến cố Hiện Xuống (Acts 2:1-13) cho chúng ta thấy
được chủ trương của công đồng
trên đây là đúng, hợp với truyền thống của
các vị giáo phụ Hội Thánh.
Chúng
ta biết rằng các tông đồ và các môn đệ cùng với
Mẹ Maria tụ họp tại nhà tiệc ly đã nghe thấy
“một tiếng như gió thổi mạnh”, và các vị thấy
xuất hiện “những lưỡi lửa tản ra đậu
trên từng người” (x.Acts 2:2-3). Theo truyền thống
Do Thái, lửa là dấu hiệu tỏ hiện đặc
biệt của Thiên Chúa, Đấng phán truyền để
chỉ dạy, hướng dẫn và cứu độ dân
của Ngài. Hình ảnh cuộc tỏ hiện huyền diệu
ở núi Sinai vẫn còn tồn tại trong tâm hồn dân Yến
Duyên và giúp cho họ hiểu được ý nghĩa của
những thể thức thông đạt mới được
hàm chứa nơi biểu hiệu đó, như cũng được
chứng thực trong Jerusalem Talmud (xem Hag.2,77b,32;
cũng xem Midrash Rabbah 5,9 về Exodus 4:27). (Phụ chú của
người dịch: Jerusalem Talmud là cuốn sách ghi lại
những giáo huấn của các bậc thày ở Palestina, khác
với cuốn Babylonian Talmud). Cũng truyền thống Do
Thái này đã dọn đường cho các tông đồ hiểu
được rằng “các lưỡi” ám chỉ sứ vụ
loan báo, chứng nhân và giảng dạy mà chính Chúa Giêsu đã
ủy thác cho các vị. “Lửa” chẳng những liên hệ
với lề luật Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã xác nhận và
hoàn tất, nó còn liên hệ với
chính Người nữa, với bản thân của Người,
cũng như với đời sống, cái chết và phục
sinh của Người, vì Người là một tân Huấn
Dụ Thư cần phải được loan báo cho thế
giới. Theo tác động của Chúa Thánh Thần, “những
lưỡi lửa” đã trở nên ngôn từ phát ra từ
môi miệng các vị tông đồ: “Họ được
tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu nói tiếng
lạ như Thần Linh làm cho họ nói” (Acts 2:4).
Trong
lịch sử Cựu Ước cũng đã có những tỏ
hiện tương tự như thế khi thần linh Chúa
được ban cho để tuyên phán sấm ngôn
(x.Mic.3:8; Is.61:1; Zech.7:12; Neh.9:30). Tiên tri Isaia đã cho chúng ta
biết rằng một trong những thần Seraphim bay đến
với tiên tri, “cầm trong tay một cục than hồng mà
ngài đã gắp trên bàn thờ”. Thiên thần đã chạm
cục than này vào môi tiên tri để thanh luyện tiên tri khỏi
mọi lầm lỗi, trước khi Chúa ủy thác cho tiên
tri sứ vụ nói với dân của Ngài (x.Is.6:6-9ff). Các vị
tông đồ đã nhận thức được biểu
hiệu truyền thống này, và vì thế đã thấu hiểu
được ý nghĩa của điều đang xẩy
đến cho các vị trong ngày Lễ Ngũ Tuần hôm ấy,
như thánh Phêrô đã chứng thực trong bài diễn từ
đầu tiên của thánh nhân, khi thánh nhân nối kết tặng
ân nói tiếng lạ với lời tiên tri Joel liên quan đến
việc sau này Thần Linh Thiên Chúa được tuôn tràn xuống
để làm cho các môn đệ tuyên phán sấm ngôn (Acts
2:17ff; Joel 3:1-5).
Nhận
lãnh “những lưỡi lửa” (Acts 2:3), mỗi một vị
tông đồ đã lãnh nhận một tặng ân đa dạng
của Thần Linh, như những người đầy
tớ trong một dụ ngôn Phúc Aâm đều lãnh nhận
một số tài năng để sinh hoa kết trái
(x.Mt.25:14ff). “Lưỡi” ấy là dấu hiệu
nhận thức nơi các tông đồ và các vị giữ
lấy nhận thức này để thực hiện việc
truyền giáo như các vị được kêu gọi và dấn
thân làm. Vừa khi các vị được
“tràn đầy Thánh Thần, các vị liền bắt đầu
nói tiếng lạ, như Thần Linh ban cho các vị nói”.
Quyền năng của các vị do Thần Linh mà có, và các vị
thực hiện công việc được ủy nhiệm
cho các vị theo sự thôi thúc nội tâm
từ trời.
Sự
kiện này xẩy ra ở nhà tiệc ly, thế nhưng, chẳng
bao lâu thì việc công bố truyền giáo và việc nói tiếng
lạ hay tặng ân nói tiếng lạ đã
vượt ra khỏi nơi các vị trú ngụ. Hai biến cố phi thường đã diễn
ra, và cả hai đã được sách Tông Đồ Công Vụ
diễn thuật. Trước hết sách Tông Đồ
Công Vụ diễn thuật tặng ân nói
tiếng lạ làm cho các vị nói lên những lời liên
quan đến hiện tượng đa ngôn ngữ, và các
vị cũng thường dùng tặng ân này để chúc
tụng Thiên Chúa (x.Acts
Biến cố của ngày hôm ấy quả là một
mầu nhiệm mang đầy những ý nghĩa. Chúng ta có thể nhận thấy nơi ngày này dấu
hiệu phổ quát của Kitô giáo cũng như dấu hiệu
nói lên đặc tính truyền giáo của Giáo Hội. Tác giả sách thánh tỏ cho chúng ta thấy điều
này, để nhận thấy rằng sứ điệp cần
phải được rao giảng cho hết mọi dân nước.
Chính Chúa Thánh Thần là Đấng nhúng tay
vào việc bảo đảm làm cho mỗi người phải
hiểu ít là một chút gì đó theo ngôn ngữ của mình:
“Mỗi người trong chúng ta nghe bằng ngôn ngữ bản
xứ của mình” (Acts 2:8). Ngày nay, chúng ta muốn nói đến
một sự thích ứng vào tình trạng ngôn ngữ và văn
hóa của mỗi người. Thế nên, người ta có
thể thấy trong toàn bộ biến cố này một hình
thức căn bản về việc hội nhập văn
hóa được Chúa Thánh Thần làm cho thành đạt.
Một
sự kiện phi thường khác là lòng can đảm đã
làm cho thánh Phêrô cùng với 11 vị “đứng lên” và bắt
đầu giải thích ý nghĩa liên quan đến kitô vụ
và thánh linh vụ điều đang xẩy ra trước
mắt đám đông ngỡ ngàng đó (Acts 2:14ff). Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này
khi tới lúc của nó. Ở đây chúng ta suy niệm
đúc kết về mối tương khắc (một thứ
so sánh đảo nghịch) giữa những gì xẩy ra
trong ngày Lễ Hiện Xuống với những gì chúng ta đọc
thấy trong sách Khởi Nguyên về vấn đề Tháp
Babel (x.Gen.11:1-9). Nơi đoạn sách Khởi
Nguyên này, chúng ta thấy sự kiện phân tán ngôn ngữ, và
do đó, phân tán con người là thành phần không hiểu
nhau khi nói các ngôn ngữ khác nhau. Ngược lại, vào
ngày Lễ Ngũ Tuần, theo tác động
của Thần Linh là “Thần Chân Lý” (x.Jn.15:26), cái khác biệt
ngôn ngữ đã không còn ngăn trở việc hiểu biết
những gì được công bố nhân danh Thiên Chúa để
chúc tụng Thiên Chúa nữa. Nhờ đó, mối
liên hệ trong niềm hiệp nhất loài người với
nhau đã vượt ra ngoài biên giới ngôn ngữ và văn
hóa, một niềm hiệp nhất được Chúa Thánh
Thần mang lại cho thế giới.
Thế
là hoàn tất ngay từ đầu những lời Chúa Kitô
nói với các tông đồ trước khi Người lên
cùng Cha: “Các con sẽ nhận được quyền lực
khi Thánh Thần xuống trên các con; và các con sẽ là những
chứng nhân của Thày ở Gialiêm, khắp Giuđa và Galilêa,
cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8).
Công
Đồng Chung Vaticanô II nhận định: “Giáo Hội được
Thần Linh hướng dẫn vào tất cả sự thật
và được Ngài liên kết trong mối hiệp thông cũng
như bằng những tác vụ, thì Ngài cũng trang bị
cũng như điều khiển bằng những tặng
ân phẩm trật và đặc sủng” (Hiến Chế
Lumen Gentium, đoạn 4), “để ban sự sống làm hồn
sống cho các cơ cấu của hội thánh, và để
từ từ làm nẩy sinh trong lòng tín hữu cũng một
tinh thần truyền giáo đã thôi thúc chính Chúa Kitô” (Sắc
Lệnh Ad Gentes, đoạn 4). Từ Chúa Kitô, đến các
tông đồ, sang Giáo Hội, tới toàn thế giới: theo tác động của Chúa Thánh Thần mà
tiến trình liên kết phổ quát trong chân lý và yêu thương
có thể và phải được khai mở.
(Bài
Giáo Lý 17 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ ngày
Thứ Tư,
trong loạt 80 bài về chủ đề
Chúa Thánh Thần)