Bài 21
Thánh Thần Hiện
Xuống: Vương Quốc Chúa Kitô
Hiện Diện nơi
Lịch Sử Loài Người
N |
hững suy niệm về thánh
linh học đã từ từ hé mở cho chúng ta thấy Chúa
Thánh Thần đã tỏ mình ra bằng quyền năng cứu
độ của Ngài trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Ngài đã
tỏ mình ra như là “một Đấng An Uûi khác”
(x.Jn.14:16), Đấng “nhiệm xuất từ Cha” (Jn.15:26),
Đấng “Cha nhân danh Con sai đến” (x.Jn.14:26). Ngài đã
tỏ mình ra như “Một Vị” khác biệt với Cha và
Con, mà lại đồng bản thể với Cha và Con. Ngài
đã tỏ mình ra qua Con cho dù Ngài vẫn vô hình. Ngài đã tỏ mình ra qua quyền năng và tác động
được gán cho Ngài, khác với quyền lực và tác động
của Con song lại là quyền lực và tác động liên
kết chặt chẽ với Ngài. Đó là Thánh Thần
Chúa Kitô đã nói đến vào trước ngày khổ nạn
của Người: “Ngài sẽ tôn vinh Thày vì Ngài sẽ lấy
những gì nơi Thày mà truyền đạt cho các con”
(Jn.16:14). “Ngài sẽ không tự mình mà nói, mà Ngài nói những
gì Ngài nghe thấy, và Ngài sẽ truyền đạt cho các
con những gì phải đến” (Jn.16:13).
Đấng An-Ủi-Dẫn-Dụ không đến
chiếm chỗ của Chúa Kitô. Ngài đến sau Chúa
Kitô là do hy tế cứu chuộc của Chúa Kitô. Ngài đến để Chúa Kitô có thể ở
trong Giáo Hội và hoạt động nơi Giáo Hội như
Đấng Cứu Chuộc và như Chúa.
Tôi
đã viết trong Thông Điệp Dominum et Vivificantem: “Như thế, trong công cuộc
cứu chuộc, giữa Chúa Thánh Thần và Chúa Kitô luôn luôn
hiện diện một mối liên hệ sâu sa mà nhờ đó
Thần Linh hoạt động nơi lịch sử loài người
như ‘một Đấng An Uûi khác’, để bảo đảm
mãi mãi cho việc truyền đạt và truyền bá Tin Mừng
do Chúa Giêsu Nazarét mạc khải. Bởi vậy, trong Chúa Thánh
Thần, nơi mầu nhiệm và hoạt động của
Giáo Hội, làm cho Đấng Cứu Thế cùng với công
cuộc cứu độ của Người liên tục hiện
diện theo lịch sử trên thế gian, cho vinh quang của
Chúa Kitô chiếu tỏa, như những lời sau đây chứng
thực: ‘Ngài (Thần Chân Lý) sẽ tôn vinh Thày, vì Ngài sẽ
lấy những gì của Thày mà truyền đạt cho các
con’” (đoạn 7).
Chân
lý được chứa đựng trong lời Chúa Giêsu hứa
này đã được sáng tỏ trong Ngày Lễ Hiện
Xuống: Chúa Thánh Thần “bày tỏ” trọn vẹn mầu
nhiệm Chúa Kitô, sứ vụ thiên sai cũng như cứu
chuộc của Người. Giáo Hội sơ
khai đã nhận thức được sự kiện này,
như bài giảng thứ nhất của thánh Phêrô cũng
như nhiều đoạn sau đó được sách Tông
Đồ Công Vụ ghi nhận nói lên điều đó.
Một
điều đáng chú ý là, để trả lời cho câu hỏi
“Chúng tôi phải làm gì đây?” của thành phần nghe mình
trong Ngày Lễ Hiện Xuống, thánh Phêrô đã kêu gọi họ:
“Mỗi người trong anh em hãy thống hối và lãnh nhận
phép rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô” (Acts 2:38). Để sai các tông
đồ đi khắp thế gian, Chúa Giêsu đã truyền
cho các vị ban phép rửa “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”
(Mt.28:19). Thánh Phêrô đã trung thực làm vang vọng lời
của Thày mình, và kết qủa là, vào dịp đó, đã
có “chừng ba ngàn người” (Acts
Trong
tất cả hoạt động của mình thực hiện
sau ngày Lễ Hiện Xuống dưới ảnh hưởng
của Chúa Thánh Thần, các tông đồ đều hướng
về Chúa Kitô như căn do, nguyên lý và
tác quyền của chúng. Thế nên, trong việc chữa người
què “gần cổng đền thờ gọi là Cửa Đẹp”
(Acts 3:2), thánh Phêrô nói với anh ta: “Tôi không có vàng bạc,
song tôi cho anh cái tôi có; nhân danh Chúa Giêsu Kitô Nazarét, anh hãy bước
đi!” (Acts 3:6). Phép lạ này đã lôi kéo
nhiều người đến trụ lang Solomon, và thánh Phêrô
đã nói với họ, như trong Ngày Lễ Ngũ Tuần,
về Chúa Kitô tử giá “Đấng Thiên Chúa làm cho sống
lại từ trong kẻ chết, và chúng tôi là những chứng
nhân cho sự việc này” (Acts 3:15). Chính đức tin nơi
Chúa Kitô đã chữa lành người què: “Đức tin nơi
danh Người đã làm cho người này mạnh khỏe
như anh em thấy và biết đấy; và đức tin
vào Chúa Giêsu đã làm cho người này hoàn toàn lành mạnh
trước mặt tất cả qúi vị đây” (Acts
Khi
các tông đồ lần đầu tiên được triệu
đến trước Hội Đồng Do Thái, “thánh Phêrô,
được đầy Thánh Thần”, trước mặt
“các vị lãnh đạo dân chúng và các kỳ lão” (Acts 4:8) lại
làm chứng cho Chúa Kitô tử giá và phục sinh. Thánh nhân đã
tóm tắt câu trả lời của mình cho Hội Đồng
Do Thái như sau: “Không có ơn cứu độ nơi một
ai khác, vì không có một danh hiệu nào dưới gầm trời
này được ban cho con người để nhờ đó
chúng ta được cứu độ” (Acts
Những
đoạn trình thuật này hay tương tự như thế
trong sách Tông Đồ Công Vụ đã cho thấy giáo huấn
của các tông đồ, dưới ảnh hưởng của
Chúa Thánh Thần, được bắt
nguồn từ và đặt nền tảng nơi Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần đã làm cho các tông đồ và các môn đệ
của các ngài đi sâu vào chân lý của Phúc Aâm do Chúa Kitô loan
báo, nhất là vào mầu nhiệm vượt qua của Người.
Ngài khêu lên nơi họ lòng mến Chúa Kitô đến
độ hy hiến mạng sống mình. Ngài đã bảo
đảm việc Giáo Hội, Ngay từ ban đầu, làm
cho vương quốc do Chúa Kitô hình thành trị đến.
Theo tác động của Chúa Thánh Thần cùng với việc
hợp tác của các tông đồ, các vị thừa kế
các ngài và toàn thể Giáo Hội, vương quốc này sẽ
phát triển trong lịch sử cho đến tận cùng thời
gian. Không có một dấu vết nào trong các Phúc Aâm, trong sách
Tông Đồ Công Vụ hay trong những bức thư của
các tông đồ nói về một thứ mộng tưởng
thánh linh chủ trương rằng vương quốc của
Cha (Cựu Ước) và của Chúa Kitô (Tân Ước) phải
được tiếp nối bởi vương quốc
của Thánh Thần, một vương quốc được
biểu hiệu bằng những chủ trương của
“các thành phần thần khí”, bất chấp mọi luật
lệ, kể cả lề luật phúc âm được Chúa
Giêsu rao giảng. Như Thánh Tôma Aquinô viết: “luật cũ
không phải chỉ bởi Chúa Cha, mà còn cả Chúa Con nữa,
vì luật cũ ám chỉ về Chúa Kitô... Cũng thế,
luật mới không phải chỉ bởi Chúa Kitô, mà còn cả
Chúa Thánh Thần nữa, theo lời của Thánh Phaolô: ‘Luật
thần linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô...’ (Rm.8:22). Vì thế,
chúng ta không được trông đợi một thứ luật
khác, một thứ luật Thánh Thần” (Summa Theol.I,II,q.106,a.4,ad3). Vào thời
Trung Cổ, có một số người, bị ảnh hưởng
bởi những dự đoán khải huyền của đan
sĩ Gioakim đạo hạnh thành Fiore người
Calabrian (d.1202), đã mơ tưởng và tiên đoán về
một “vương quốc thứ ba” sẽ được
hiện thực (x.Mt.14:4) để canh tân hoàn vũ trong việc
sửa soạn cho ngày tận thế đã được
Chúa Giêsu báo trước. Thế nhưng, Thánh Tôma đã nhấn
mạnh hơn nữa là “ngay từ ban đầu của việc
rao giảng Phúc Aâm, Chúa Giêsu đã phán: ‘Nước trời đã
gần đến’ (Mt.4:17). Bởi thế hết sức đần
độn mới nói Phúc Aâm của Chúa Giêsu không phải là
Phúc Aâm của nước trời” (Summa Theol., I,II,q.106,a.4,ad 4). Đây
là một trong vài trường hợp làm cho vị Tiến
Sĩ thánh thiện đã phải dùng đến những lời
nặng nề để luận xét một ý kiến sai lầm
như vậy, vì trong thế kỷ 13 cuộc tranh luận
này rất sôi nổi, một cuộc tranh luận được
bùng lên bởi những lời lẽ cuồng si của “các
thành phần thần khí”. Họ làm lệch lạc
đi giáo thuyết của Gioakim, và thánh nhân đã thấy được
sự nguy hiểm nơi những chủ trương biệt
lập và đổi mới dựa trên giả tưởng
được đặc sủng của họ. Họ đã tác hại đến nền tảng
của Phúc Aâm cũng như của vương quốc Thiên
Chúa chân thật. Do đó, họ đã phải trở
về với việc đòi hỏi cần có một “cuộc
rao giảng Phúc Aâm hoàn toàn thành đạt trên khắp thế
giới, tức là Giáo Hội phải được thành lập
nơi mọi dân nước. Và như thế thì... Phúc Aâm
chưa được rao giảng trên toàn thế giới;
tận thế sẽ không xẩy ra sau việc rao giảng
Phúc Aâm này” (Summa Theol., I,II,q.106,a.4 ad4).
Đó
cũng là truyền thống tư tưởng của Giáo Hội
ngay từ ban đầu, căn cứ vào bài giảng của
thánh Phêrô cũng như của các tông đồ khác. Trong những
bài giảng này, người ta không thấy một u mờ
biệt phân nào giữa Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần. Trái lại,
lời các ngài giảng dạy xác nhận điều Chúa Giêsu
đã nói về Đấng An Uûi trong Bữa Tiệc Ly: “Ngài
sẽ không tự mình mà nói, nhưng Ngài nói những gì Ngài
nghe thấy, và Ngài sẽ truyền đạt cho các con những
gì phải xẩy đến. Ngài sẽ tôn vinh Thày, vì Ngài sẽ
lấy những gì nơi Thày mà truyền đạt cho các
con” (Jn.16:13-14).
Tới
đây, chúng ta không thể nào không vui mừng khi thấy thần
học Chính Thống Đông Phương có một số
suy tưởng về mối liên hệ giữa Chúa Kitô và
Chúa Thánh Thần. Mối liên hệ này đã được
thể hiện sâu xa nhất nơi Chúa-Kitô-Thần-Khí sau biến
cố phục sinh và Hiện Xuống, hợp với những
lời của Thánh Phaolô: “tân Adong đã trở nên một thần
linh ban sự sống” (1Cor.15:45). Đây là một
lãnh vực mở ra để học hỏi và chiêm ngắm
mầu nhiệm về cả Kitô học và Ba Ngôi học.
Thông Điệp Dominum et
Vivificantem viết: “Việc Thiên Chúa tự mạc khải
hết mình ra cách trọn vẹn được hoàn thành nơi
Chúa Kitô và được minh chứng bởi lời các tông
đồ rao giảng, vẫn còn tiếp tục được
tỏ hiện nơi Giáo Hội qua sứ vụ của vị
An Uûi vô hình là Thần chân lý. Sứ vụ của Ngài và sứ
vụ của Chúa Kitô gắn bó với nhau biết bao, một
sứ vụ hoàn toàn xuất phát từ sứ vụ của
Chúa Kitô, bằng cách liên kết và bao bọc những hoa trái
cứu độ trong giòng lịch sử, một sứ vụ
được diễn tả bằng động từ ‘lấy’:
‘Ngài sẽ lấy những gì nơi Thày mà truyền đạt
cho các con’. Như để cắt nghĩa những lời
‘Ngài sẽ lấy’ bằng cách diễn tả rõ ràng nguồn
mạch sự hiệp nhất thần linh ba ngôi, Chúa Giêsu đã
thêm: “Tất cả những gì Cha có là của Thày; bởi thế
Thày mới nói là Ngài sẽ lấy những gì nơi Thày mà
truyền đạt cho các con’. Bằng chính việc
‘lấy’ những gì “nơi Thày’ này mà Ngài cũng sẽ rút
ra ‘những gì là của Cha’” (đoạn 7).
Chúng
ta hãy ý thức rõ ràng như thế này: mầu nhiệm Ba Ngôi
Thiên Chúa hiện diện nơi nhân loại trong vương
quốc của Chúa Kitô và của Chúa Thánh Thần là một
chân lý tuyệt đẹp và mừng vui nhất Giáo Hội
có thể trao ban cho thế giới.
(Bài
Giáo Lý 22 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ ngày
Thứ Tư,
trong loạt 80 bài về chủ đề
Chúa Thánh Thần)