Bài 25
Thần Linh: Cư Ngụ
Nơi Từng Người
T |
rong bài giáo lý lần trước,
Tôi đã loan báo là chúng ta sẽ trở lại đề tài
về việc hiện diện và hoạt động của
Chúa Thánh Thần nơi linh hồn. Căn cứ vào thần
học và kho tàng tu đức, những đề tài này có một
sức hấp dẫn nào đó, nói được là, gây nên
một khoái thú tự nhiên cho những ai thích sống nội
tâm. Những đề tài này thu hút những
ai dễ dạy và chú tâm đến tiếng của Đấng
ở bên trong họ như trong một đền thờ, và
cũng là Đấng sáng soi họ trong lòng và bảo trì họ
trên những nẻo đường hợp với Phúc Aâm.
Vị tiền nhiệm của Tôi là Đức Lêô XIII đã
nghĩ đến những người này khi viết Thông Điệp
Divinum Illud về Chúa Thánh Thần
(ngày 9-5-1897), cũng như sau đó khi viết bức thư
Ad Fovendum về lòng tôn sùng của
Kitô hữu đối với Ngôi Vị Thiên Chúa của Thần
Linh (ngày 18-4-1902), để thiết lập việc làm tuần
chín ngày kính Ngài, nhất là nhắm đến việc để
xin ơn lành cho sự hiệp nhất Kitô giáo (ad maturamdum Christianae unitatis bunum).
Vị giáo hoàng của Thông Điệp Rerum Novarum cũng là vị giáo hoàng của lòng sùng
kính Chúa Thánh Thần. Ngài cũng biết cần phải lấy
nghị lực từ nguồn mạch nào để có thể
mang lại sự thiện hảo chân thật cho lãnh vực
xã hội nữa. Tôi cũng kêu gọi Kitô hữu của ngày
hôm nay đây chú ý đến nguồn mạch này trong Thông Điệp
Dominum et
Vivificantem (ngày
Kinh
nghiệm Kitô hữu sống nội tâm, nguyện cầu và
hiệp nhất với Thiên Chúa đã cho thấy một thực
tại - như tất cả khoa thần học và giáo lý về
thánh linh - một thực tại được bắt nguồn
từ các bản văn Thánh Kinh, nhất là từ những
lời của Chúa Kitô và của các tông đồ: đó là
thực tại về việc Chúa Thánh Thần cư ngụ
trong linh hồn các kẻ lành như một vị khách thần
linh.
Thánh
Tông Đồ Phaolô, trong Thư Thứ Nhất gửi giáo đoàn
Côrintô (
Còn
thánh Tông Đồ Phêrô, trong bài diễn từ của mình vào
Ngày Lễ Hiện Xuống, sau khi thôi thúc thính giả ăn
năn trở lại và lãnh nhận phép rửa, đã thêm lời
hứa: “Anh em sẽ lãnh nhận tặng ân Thánh Thần”
(Acts 2:38). Ở đây chúng ta thấy rằng lời hứa
này liên quan riêng đến từng người ăn năn trở lại và lãnh nhận phép rửa
bấy giờ. Thánh Phêrô đã nói rõ là “mỗi một người”
trong thành phần hiện diện (x.2:38). Sau này, phù thủy
Simon xin các tông đồ ban cho mình quyền năng có tính cách
bí nhiệm này: “Hãy ban cho tôi quyền năng ấy để
tôi đặt tay trên ai thì người đó được
nhận lãnh Thánh Thần” (
Về việc Chúa Thánh Thần hiện diện nơi
con người như thế, chúng ta cần phải nhớ
lại những cách thế tiếp nối nhau làm cho chúng ta
thấy được nơi chúng việc hiện diện
thần linh trong lịch sử cứu độ. Thời
cựu ước, Thiên Chúa hiện diện và tỏ hiện
sự có mặt của mình đầu tiên ở trong “lều”
giữa sa mạc, rồi sau đó
ở nơi “Cực Thánh” trong Đền Thờ Gialiêm. Thời tân ước, việc hiện diện của
Ngài được hoàn trọn nơi và đồng nhất
với biến cố Nhập Thể của Ngôi Lời.
Thiên Chúa hiện diện giữa loài người nơi Con
hằng hữu của Ngài, qua nhân tính được Con Ngài
mặc lấy, trong sự hiệp nhất của con người
với bản tính thần linh của Người. Nhờ
việc hiện diện hữu hình nơi Chúa Kitô này, Thiên
Chúa sửa soạn cho một hiện diện mới qua một
Đấng vô hình, một hiện diện sẽ được
nên trọn khi Thánh Thần hiện xuống. Thật vậy,
việc hiện diện của Chúa Kitô “ở giữa” người
ta đã mở ra con đường dẫn đến việc
hiện diện của Thánh Thần, một hiện diện
nội tại, một hiện diện trong tâm can con người.
Như thế là hoàn tất lời tiên tri Ezekien (36:26-27): “Ta
sẽ ban cho các ngươi một con tim mới và đặt
một thần trí mới trong các ngươi... Ta sẽ đặt
thần trí Ta trong các ngươi”.
Vào
ngay đêm trước khi bỏ thế gian mà ra đi về
cùng Cha, qua thập giá và lên trời của mình, chính Chúa Giêsu
đã loan báo việc Chúa Thánh Thần đến với các
tông đồ: “Thày sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các con một
Đấng Bầu Chữa khác là Thần Chân Lý để
luôn ở cùng các con... Ngài sẽ ở trong các con”
(Jn.14:16-17). Thế nhưng, chính Chúa Giêsu cũng phán rằng
việc Chúa Thánh Thần hiện diện này, một việc
hiện diện trong tâm can con người còn hàm ngụ cả
việc hiện hiện của Chúa Cha và Chúa Con, cần phải
có một điều kiện, đó là tình yêu: “Ai yêu mến
Thày thì sẽ giữ lời Thày, và Cha Thày sẽ yêu thương
người ấy, rồi chúng ta sẽ đến cùng người
ấy mà lấy họ làm nơi trú ngụ” (Jn.14:23).
Việc
đối chiếu với Chúa Cha và Chúa Con được
nói đến trong diễn từ của Chúa Giêsu bao gồm
cả Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô và truyền thống giáo
phụ cũng như thần học qui việc trú ngụ
ba ngôi cho Thần Linh vì Ngài là Ngôi-Vị-Tình-Yêu, ngoài ra, việc
hiện diện nội tâm này phải là một sự hiện
diện linh thiêng. Việc hiện diện của Chúa Cha và
Chúa Con bởi tình yêu mà có, thế nên, việc hiện diện
này cũng là việc hiện diện trong Thánh Thần. Chính
ở nơi Thánh Thần mà Thiên Chúa, trong mối hiệp nhất
ba ngôi của mình, truyền đạt chính mình cho tâm linh mỗi
người.
Thánh
Tôma Aquina nói rằng chỉ có nơi tâm linh con người
(và thiên thần) mà cách hiện diện thần linh này mới
khả thực (nhờ việc cư ngụ), vì chỉ có
loài thụ tạo biết suy nghĩ mới có khả năng
để được thông phần hiểu biết, ý thức
yêu thương và hoan hưởng Thiên Chúa như một vị
khách nội tại. Cách hiện diện thần linh này được
thực hiện là do Chúa Thánh Thần, Đấng mà chính vì
thế mới là tặng ân tối yếu đệ nhất
(Summa Theol.,I,q.38,a.1).
Tuy
nhiên, qua việc cư ngụ này, người ta được
trở thành “đền thờ của Thiên Chúa” (của Thiên
Chúa Ba Ngôi), vì chính “Thần Linh của Thiên Chúa (là Đấng)
cư ngụ trong” họ, như thánh Tông Đồ nhắc
nhở Kitô hữu giáo đoàn Côrintô (1Cor.3:16). Thiên
Chúa là thánh và là Đấng thánh hóa. Thánh Phaolô sau đó
chút xíu đã viết rằng: “Anh em không biết rằng thân
xác của anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần
trong anh em, Đấng anh em lãnh nhận bởi Thiên Chúa hay
sao?” (1Cor.6:19). Bởi thế, việc Chúa Thánh Thần cư
ngụ bao hàm cả việc hiến thánh đặc biệt
toàn thể con người (cả phương diện thân xác
như được thánh Phaolô nhấn mạnh) giống
như một đền thờ. Sự hiến
thánh này là việc thánh hóa. Nó là chính yếu tính của ân sủng cứu độ mà con người
nhờ đó có thể thông phần vào sự sống ba ngôi
của Thiên Chúa. Như thế, một nguồn mạch nội
tại của sự thánh thiện mở ra nơi con người,
phát sinh ra cuộc sống “theo Thần Linh”, như thánh Phaolô
viết trong Thư gửi giáo đoàn Rôma (8:9): “Anh em không ở
trong xác thịt; trái lại, nếu duy có Thần Linh Thiên Chúa
ở trong anh em thì anh em ở trong Thần Linh”. Đây là căn
gốc của niềm hy vọng mong chờ việc thân xác
phục sinh, vì “nếu Thần Linh của Đấng đã
phục sinh Chúa Giêsu từ kẻ chết cư ngụ trong
anh em, thì Đấng đã phục sinh Chúa Kitô từ kẻ
chết cũng sẽ ban sự sống cho thân xác chết
chóc của anh em như vậy, nhờ Thần Linh của
Ngài là Đấng cư ngụ trong anh em” (Rm.8:11).
Chúng
ta phải lưu ý là việc cư ngụ của Chúa Thánh
Thần, Đấng thánh hóa toàn thể con người, thân
xác lẫn linh hồn, ban cho con người một phẩm
vị cao trọng hơn. Việc thánh hóa này ban cho những
mối tương giao của con người, cả những
mối tương giao thể lý nữa, một giá trị
mới, như Thánh Phaolô đề cập đến trong bản
văn của Bức Thư Thứ Nhất gửi giáo đoàn
Côrintô (6:9) chúng ta đã trích dẫn.
Thế
nên, nhờ việc Chúa Thánh Thần cư ngụ mà Kitô hữu
được tham dự vào một mối lên hệ đặc
biệt với Thiên Chúa, một mối liên hệ cũng
bao gồm tất cả những mối tương giao loài
người, trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Khi thánh Tông Đồ nói: “đứng làm phiền lòng Thánh
Thần” (Eph.4:30), là thánh nhân dựa vào nền tảng của
chân lý được mạc khải này: sự hiện diện
riêng tư của vị khách nội tại là Đấng có
thể “buồn phiền” vì tội lỗi - vì mọi tội
lỗi - bởi tội lỗi luôn luôn đối nghịch
lại với tình yêu. Chính Ngài, như Ngôi-Vị-Tình-Yêu cư
ngụ trong con người, tạo nên trong linh hồn một
đòi hỏi nội tâm phải sống trong tình yêu. Thánh
Phaolô nói lên điều này khi viết cho Kitô hữu giáo đoàn
Rôma rằng: “Tình yêu của Thiên Chúa” (tức là, mạch suối
mãnh lực của tình yêu từ Thiên Chúa mà đến) “được
tuôn tràn vào lòng chúng ta nhờ quyền năng Thánh Thần là
Đấng đã được ban cho chúng ta” (Rm.5:5).
(Bài
Giáo Lý thứ 70 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ
ngày Thứ Tư,
trong loạt 80 bài về chủ đề
Chúa Thánh Thần)