Bài 26
Thần Linh: Nguồn
Mạch Sự Sống Mới
C |
húa Thánh Thần, vị khách của
linh hồn, là nguồn mạch sự sống mới bên
trong đã được Chúa Giêsu thông chia với những
ai tin vào Người. Đó là sự sống theo “lề luật
của Thần Linh”, tức là một sự sống bằng
quyền lực của sự phục sinh đã chế ngự
quyền lực tội lỗi và sự chết vẫn hoành
hành nơi con người từ cuộc sa phạm nguyên thủy.
Chính thánh Phaolô đã nhận mình bị một nỗi giằng
co xâu xé giữa cảm nhận nội tâm về điều
thiện với sức lôi cuốn của sự dữ, giữa
khuynh hướng của “tâm trí” muốn giữ lề luật
Thiên Chúa với sức lấn át của “xác thịt” bị
lụy thuộc tội lỗi (x.Rm.7:14-23). Thánh nhân than lên:
“Tôi là một con người khốn khổ là chứng nào!
Ai sẽ cứu tôi khỏi thân xác chết chóc này?” (Rm.7:24).
Bởi
thế đã phát sinh một cảm nghiệm nội tâm mới
liên quan đến thực tại về tác động cứu
rỗi của ân sủng: “Vì vậy, giờ đây những
ai ở trong Chúa Giêsu Kitô thì không bị luận phạt. Vì lề
luật của Thần Linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô đã
giải thoát anh em khỏi lề luật của tội lỗi
và sự chết” (Rm.8:1-2). Đó là một tình trạng mới
của sự sống được bắt đầu
trong lòng chúng ta “nhờ Thánh Thần là Đấng đã được
ban cho chúng ta” (Rm.5:5).
Tất
cả cuộc sống Kitô hữu là sống trong đức
tin và đức ái, cũng như trong việc thực hành mọi
nhân đức, theo tác động bên trong của Thần
Linh canh tân này, Đấng ban ơn công chính, linh hoạt và
thánh hóa. Nhờ ơn này đã phát sinh tất cả những
nhân đức mới tạo nên nề nếp cho cuộc sống
siêu nhiên. Cuộc sống này được tăng trưởng
không phải chỉ bởi những tài năng tự nhiên của
con người - trí khôn, lòng muốn và cảm quan - mà còn bởi
cả những năng lực mới được phú ban
cùng với ơn ấy, như Thánh Tôma Aquina dẫn giải
(Summa Theol., I-II,q.62,aa.1,3). Những
năng lực mới này ban cho trí khôn khả năng gắn
bó trong đức tin với Thiên-Chúa-Chân-Lý; cho tâm can khả
năng yêu thương trong đức ái, một đức
ái nơi con người như là “một việc tham dự
vào chính Tình Yêu thần linh là Chúa Thánh Thần”
(II-II,q.23,a.3,ad3). Những năng lực mới này cũng
ban cho tất cả mọi năng lực của linh hồn,
cũng như bằng một cách nào đó cho cả thân xác
nữa, được tham dự vào sự sống mới
bằng những hành động xứng với một con
người đã được nâng lên thông phần với
bản tính và sự sống của Thiên Chúa trong ân sủng:
consortes devinae narures, như
Thánh Phêrô viết (2Pet.1:4).
Tình
trạng này giống như một cơ cấu nội tâm
mới để lề luật của ân sủng được
tỏ hiện: một lề luật được viết
trong lòng hơn là trên các phiến đá hay nơi các văn bản.
Thánh Phaolô đã gọi lề luật này, như chúng ta thấy,
là “lề luật của Thần Linh sự sống trong Chúa
Giêsu Kitô” (Rm.8:2; x. Thánh Augustinô, De
Spiritu et Littera, c.24; PL 44:225; Thánh Tôma, Summa Theol., I-II,q.106,a.1).
Trong
loạt bài giáo lý trước đây về ảnh hưởng
của Chúa Thánh Thần nơi đời sống Giáo Hội,
chúng ta đã nhấn mạnh đến một số tặng
ân khác nhau mà Ngài ban phát để làm cho cả cộng đồng
phát triển. Các tặng ân khác nhau này cũng được
thể hiện rõ ràng nơi cuộc sống riêng tư của
Kitô hữu: mọi người đều nhận được
những tặng ân của Chúa Thánh Thần qua những trường
hợp sống cụ thể mà họ là nam nhân hay nữ giới
trải qua, tùy theo mức độ yêu thương của
Thiên Chúa đã làm nên ơn gọi, cuộc hành trình và lịch
sử thiêng liêng của mỗi người.
Chúng
ta đọc nơi đoạn về Ngày Lễ Hiện Xuống
thấy Chúa Thánh Thần chẳng những tràn đầy toàn
thể cộng đồng mà còn từng người có mặt
bấy giờ nữa. Nếu gió, biểu hiệu cho Thần
Linh, được tả là “đầy
cả nhà nơi các vị đang ở” (Acts 2:2), thì cũng
đúng với những lưỡi lửa, một biểu
hiệu khác của Thần Linh, “đến đậu trên
từng người trong các vị” (2:3); thế là, “tất
cả mọi người họ được đầy
Thánh Thần” (2:4). Mức độ trọn đầy này được
ban cho mỗi một người; mức độ trọn
đầy này hàm chứa một số những tặng ân
khác nhau đối với hết mọi lãnh vực đời
sống cá nhân của con người.
Trong
số những tặng ân này, chúng ta muốn nhắc lại
và nhấn mạnh ngắn gọn đến những tặng
ân được giáo lý và lưu truyền thần học đặc
biệt gọi là các tặng ân của Chúa Thánh Thần. Đúng
thế, mọi sự đều là tặng ân, nơi cả
cấp trật ân sủng cũng như tự nhiên, nói chung
hơn nữa, nơi toàn thể tạo vật. Tuy nhiên, theo
ngôn ngữ thần học và giáo lý, danh xưng các tặng ân
của Chúa Thánh Thần được dành cho những năng
lực thần linh chuyên biệt mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ
vào linh hồn để kiện toàn những nhân đức
siêu nhiên, nhờ đó, tâm linh con người nhận được
khả năng tác hành (theo thể thức thần linh) in modo
divino (x.Summa Theol.,
I-II,q.68,aa 1,6).
Cần
phải nói rằng các tặng ân này đầu tiên được
nhắc đến và liệt kê trong Cựu Ước, đúng
hơn, trong sách Isaia, vị tiên tri đã ghép cho đức
vua thiên sai “thần linh khôn ngoan và thâm hiểu, thần linh dẫn
dụ và dũng mãnh, thần linh minh luận và kính sợ Chúa”.
Thế rồi vị tiên tri gọi tên của tặng ân thứ
sáu một lần nữa mà rằng “niềm hân hoan của đức
vua là lòng kính sợ Chúa” (Is.11:2-3).
Bản
dịch Bảy Mươi tiếng Hy Lạp cũng như
bản dịch Vulgata tiếng Latinh của Thánh Giêrônimô đều
tránh việc lập lại này. “Lòng hiếu thảo” được
liệt kê như tặng ân thứ sáu thay thế cho tặng
ân “kính sợ Chúa”, do đó mà lời tiên tri thành như sau:
“thần linh minh luận và thảo hiếu, và ngài được
đầy thần linh kính sợ Chúa” (các câu 2-3). Thế nhưng,
người ta có thể nói rằng việc lập lại
thần linh kính sợ và hiếu thảo này cũng không tách
khỏi truyền thống thánh kinh liên quan đến những
nhân đức của các đại nhân vật trong Cựu
Ước. Theo truyền thống thần học, phụng
vụ và giáo lý Kitô giáo, việc lập lại này làm cho lời
tiên tri có ý nghĩa hơn khi áp dụng lời tiên tri ấy
cho Đấng Thiên Sai cũng như để làm phong phú ý
nghĩa từ chương của lời tiên tri. Tại hội
đường Nazarét, chính Chúa Giêsu đã áp dụng cho mình
một đoạn sách của tiên tri Isaia về đấng
thiên sai (x.61:1): “Thần Linh Chúa ngự trên tôi...” (Lk.4:8). Lời
Chúa Giêsu áp dụng về mình này tương đương
với đoạn đầu của lời tiên tri vừa
được trích dẫn, với lời lẽ như
sau: “Thần Linh Chúa sẽ ở trên ngài” (Is.11:2). Theo truyền
thống được Thánh Tôma sử dụng thì những
tặng ân của Chúa Thánh Thần “được Sách Thánh đặt
tên như những tặng ân này hiện diện nơi Chúa
Kitô, theo như bản văn của tiên tri Isaia”, nhưng những
tặng ân phát xuất từ Chúa Kitô này lại gặp nhau một
lần nữa nơi linh hồn Kitô hữu (x.Summa Theol., I-II,q.68,a.1).
Những
đoạn thánh kinh vừa trích dẫn đã được
so sánh với những cấu tạo căn bản nơi
linh hồn con người, liên quan đến việc linh hồn
con người được nâng lên tầm mức siêu nhiên
và được phú bẩm cho chính các nhân đức. Thế
là khoa thần học trung cổ về bảy tặng ân này
đã phát triển, cho dù nó chưa hoàn toàn có tính cách tín điều,
cũng như chưa xác nhận hẳn con số các tặng
ân này và chưa xác nhận cả những phân cấp rõ ràng
trong việc phân phối các tặng ân ấy, song đã và vẫn
hữu dụng để chẳng
những hiểu được tính cách đa loại của
các tặng ân nơi Chúa Kitô cùng các thánh, mà còn tạo nên được
một kiến trúc đẹp đẽ cho đời sống
tu đức nữa.
Thánh
Tôma (x.I-II,q.68,aa.4,7) và các nhà thần học cũng như
chuyên viên giáo lý đã tìm thấy nơi những câu nói của
tiên tri Isaia trên đây một bản chỉ nam để có
thể sắp xếp các tặng ân theo mối liên hệ của
những tặng ân này với đời sống tu đức,
bằng một cắt nghĩa có thể được tổng
tắt như sau:
1)
Trước hết là tặng
ân khôn ngoan mà Chúa Thánh Thần dùng để soi sáng lý trí. Ngài
làm cho lý trí biết được “những lý do sâu xa nhất”
của mạc khải cũng như của đời sống
tu đức, nhờ đó lý trí có được những
phán đoán lành mạnh và chính đáng liên quan đến đức
tin và cuộc sống Kitô hữu, chẳng hạn như liên
quan đến con người “thiêng liêng” hay ngay cả đến
con người “nhục thể” (x.1Cor.2:14-15; Rm.7:14).
2)
Đến tặng ân thâm
hiểu, một sự sâu sắc đặc biệt do Thần
Linh ban cho để hiểu ngay được Lời Chúa
một cách thấu đáo.
3)
Tặng ân minh luận là một
khả năng siêu nhiên để thấy và xác định
một cách đích đáng nội dung của mạc khải,
cũng như để phân biệt được những
sự thuộc về Thiên Chúa nơi kiến thức về
vũ trụ của con người.
4)
Với tặng ân dẫn
dụ, Chúa Thánh Thần ban khả năng siêu nhiên để
điều hành cuộc sống cá nhân của con người
liên quan đến những việc khó khăn cần phải
hoàn thành và đến những chọn lựa khó khăn cần
phải quyết định, cũng như để điều
khiển và hướng dẫn người khác.
5) Với tặng ân dũng mãnh,
Chúa Thánh Thần nâng đỡ lòng muốn và khiến nó phản
ứng nhanh nhẹn, chủ động và kiên trì đương
đầu với những khó khăn thử thách, dù có phải
khổ đau đến đâu đi nữa. Điều này
đặc biệt xẩy ra nơi việc tử đạo:
việc tử đạo bằng máu, kể cả việc
tử đạo trong lòng và tử đạo chịu yếu
bệnh, yếu đuối và yếu đau.
6) Với tặng ân hiếu thảo,
Chúa Thánh Thần điểu khiển con tim con người
hướng về Thiên Chúa với những cảm xúc, cảm
tình, tâm tưởng và nguyện cầu nói lên tình con cái đối
với Cha là Đấng được Chúa Kitô mạc khải
cho biết. Tặng ân hiếu thảo này khiến cho chúng
ta thấu nhập và biến hóa trong mầu nhiệm “Thiên
Chúa ở cùng chúng ta”, nhất là trong niềm hiệp nhất
với Chúa Kitô, Lời nhập thể, trong mối liên hệ
con cái với Đức Trinh Nữ Maria cùng với các thần
thánh trên trời, trong mối hiệp thông với Giáo Hội.
7) Với tặng ân kính sợ
Chúa, Chúa Thánh Linh đặt vào linh hồn Kitô hữu một
niềm tôn kính sâu xa đối với lề luật của
Thiên Chúa cũng như đối với những đòi hỏi
của đời sống Kitô hữu. Tặng ân này giải
thoát linh hồn khỏi những chước cám dỗ “sợ
hãi của một người tôi tớ”, thay vào đó, thăng
tiến linh hồn bằng một “niềm kính sợ của
một người con cái” bắt nguồn từ lòng mến
yêu.
Giáo
huấn về các tặng ân của Chúa Thánh Thần tiếp
tục là một giáo huấn hữu dụng của đời
sống tu đức. Giáo huấn này giúp chúng ta hướng
dẫn chính mình cũng như huấn luyện người
khác, thành phần chúng ta có trách nhiệm đào tạo, bằng
một cuộc liên tục đối thoại với Chúa
Thánh Thần và bằng một lòng tín thác yêu thương cho
sự dẫn dắt của Ngài. Giáo huấn này được
nối kết với và luôn luôn qui chiếu về đoạn
sách tiên tri Isaia nói về Đấng Thiên Sai. Khi áp dụng vào
Chúa Giêsu, giáo huấn này nói đến sự cao cả nơi
tầm mức thiện toàn của Người. Khi áp dụng
cho linh hồn Kitô hữu, giáo huấn này dạy cho chúng ta
biết những giây phút quan trọng nơi sinh hoạt của
đời sống nội tâm: để hiểu biết
(khôn ngoan, thâm hiểu và minh luận); để quyết định
(dẫn dụ và dũng mạnh); để ở lại và
tăng tiến trong mối liên hệ riêng tư với Thiên
Chúa, trong đời sống cầu nguyện và trong đời
sống ngay thẳng theo Phúc Aâm (hiếu thảo và kính sợ
Chúa).
Như
thế, thật là quan trọng trong việc cần phải
sống hòa hợp với Thần-Linh-Tặng-Ân vĩnh cửu
là Đấng phải được nhận biết theo
như mạc khải từ Cựu Ước cũng như
Tân Ước. Ngài là Tình Yêu chuyên nhất bất tận được
ban cho chúng ta bằng muôn vàn hình thức tỏ hiện và tặng
ân khác nhau, hợp với chương trình tạo dựng
bao quát.
(Bài
Giáo Lý thứ 71 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ
ngày Thứ Tư, 3-4-1991,
trong
loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)