Bài 27
Thần Linh: Nguồn
Mạch Sự Sống Nội Tâm
T |
rong bài giáo lý lần trước,
Thánh Phaolô đã nói với chúng ta về “lề luật của
Thần Linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô” (Rm.8:2). Chúng ta phải
sống theo lề luật này nếu chúng ta muốn “theo Thần
Linh” (Gal.5:25), hoàn thành những công việc của Thần
Linh chứ không phải là những công việc của “xác
thịt”.
Thánh
Tông Đồ nhấn mạnh đến sự tương
khắc giữa “xác thịt” và “Thần Linh”, cũng như
giữa hai loại việc làm, tư tưởng và đời
sống từ hai lãnh vực này mà ra: “Đối với những
ai sống theo xác thịt thì hứng theo xác thịt, còn những
người sống theo Thần Linh thì hứng theo Thần
Linh. Hứng theo xác thịt thì chết, còn hứng theo Thần
Linh thì sống và bình an” (Rm.8:5-6).
Thật
là nản khi thấy được “những việc làm của
xác thịt” cùng với những tình trạng thoái lui về
tâm linh cũng như về văn hóa nơi con người
thú tính (homo animalis). Thế
nhưng, cái nhìn này dầu sao cũng không được làm
cho chúng ta quên rằng thực tại của đời sống
“theo Thần Linh” rất khác nhau, một thực tại cũng
có mặt trong thế gian và chống lại với việc
lan tràn của sự dữ. Thánh Phaolô nói về điều
này trong Thư gửi giáo đoàn Galata, khi ngài liệt kê “hoa
trái của Thần Linh” phản lại với “những việc
làm của xác thịt” là việc làm khiến cho con người
bị loại trừ khỏi “vương quốc Thiên Chúa”,
những hoa trái đó là “yêu thương, hoan lạc, bình an,
nhẫn nại, từ tâm, quảng đại, trung thành, dịu
hiền và tự chủ” (x.5:19-22). Theo Thánh Phaolô, những
hoa trái này nơi các tín hữu phát xuất từ bên trong, từ
“luật của Thần Linh” (Rm.8:2), một thứ luật
ở bên trong người tín hữu và là luật hướng
dẫn đời sống nội tâm của họ
(x.Gal.5:18,25).
Vấn
đề được nói đến ở đây là nguyên
lý của đời sống thiêng liêng cũng như của
hành vi Kitô hữu, một nguyên lý vừa nội tại vừa
siêu việt, căn cứ vào lời của Chúa Giêsu nói với
các môn đệ: “Thần Chân Lý, Đấng thế gian không
thể tiếp nhận, vì thế gian không thấy cũng
chẳng biết Ngài... sẽ ở trong các con” (Jn.14:17). Chúa
Thánh Thần từ trên cao xuống nhưng thấu nhập
và ở trong chúng ta để làm cho đời sống nội
tâm của chúng ta linh động. Chúa Giêsu không chỉ nói:
“Ngài ở với các con”, nghĩa là sát với ý nghĩa của
một sự hiện diện, nhưng còn nhấn mạnh đó
là một sự hiện diện ở trong chúng ta (Jn.14:17) nữa.
Phần Thánh Phaolô ước mong các Kitô hữu giáo đoàn
Eâphêsô được Chúa Cha làm cho họ “tăng cường
bằng Thần Linh ở bên trong mình” (Eph.3:16). Đối với
con người, cái đáng kể không phải là sự sống
ngoại tại, thường nông nổi, mà là ý hướng
sống trong “thâm cung của Thiên Chúa”, nơi Chúa Thánh Thần
thấu suốt (1Cor.2:10).
Việc
Thánh Phaolô phân biệt giữa con người “tâm lý” (spychic)
với con người “tâm linh” (spiritual) giúp chúng ta hiểu được
sự khác nhau và cách biệt giữa sự trưởng thành
tự nhiên nơi những năng lực của linh hồn
con người với sự trưởng thành Kitô giáo đích
thực phát xuất từ sự tăng triển của cuộc
sống theo Thần Linh, một sự trưởng thành
trong đức tin, đức cậy và đức mến.
Kiến thức về Nguồn Mạch thần linh nơi
cuộc sống thiêng liêng này, một nguồn mạch bắt
nguồn từ trong linh hồn phát tỏa vào tất cả
mọi lãnh vực của cuộc sống, ngay cả những
lãnh vực bề ngoài và xã hội, là một phương diện
sâu xa và cao cả của nhân loại học Kitô giáo. Cốt
lõi của kiến thức này là chân lý đức tin khiến cho chúng ta
tin rằng Chúa Thánh Thần ngự trong tôi (x.1Cor.3:16), cầu
nguyện trong tôi (x.Rm.8:26; Gal.4:6), hướng dẫn tôi
(x.Rm.8:14) và làm cho Chúa Kitô sống trong tôi (x.Gal.2:20).
Ngay
cả sự so sánh mà Chúa Giêsu đã dùng trong cuộc nói chuyện
với người phụ nữ Samaritanô ở bờ giếng
Giacóp về nước hằng sống mà Người sẽ
ban cho những ai tin vào Người, thì nước “sẽ
trở nên nơi họ một mạch nước vọt
lên sự sống đời đời” (Jn.4:14), cũng có ý
nói đến mạch nước bên trong của đời
sống thiêng liêng. Chính Chúa Giêsu đã làm sáng tỏ điều
này vào dịp “lễ Lều Tạm” (Jn.7:2), khi Người
“đứng mà kêu lên: ‘Ai khát hãy đến cùng Tôi mà uống.
Ai tin vào tôi, như Sách Thánh nói (x.Is.55:1), các giòng sông nước
hằng sống sẽ từ bên trong lòng họ chảy
ra’”. Thánh Gioan chú giải rằng “Người nói điều
này ám chỉ Thần Linh mà những ai tin vào Người phải
được nhận lãnh” (Jn.7:37-39).
Nơi
người tín hữu, Chúa Thánh Thần khai triển toàn bộ
cơ động của ân sủng ban sự sống mới
cũng như toàn bộ cơ động của các nhân đức
làm cho sức sống này mang lại nhiều hoa trái thiện
hảo. Từ “bên trong” người tín hữu, Chúa Thánh Thần
cũng hoạt động như một ngọn lửa,
theo một so sánh khác Thánh Gioan Tẩy Giả đã ví liên
quan đến phép rửa: “Người sẽ rửa qúi vị
trong Thánh Thần và trong lửa” (Mt.3:11). Chính Chúa Giêsu cũng
sử dụng biểu hiệu lửa trong mối tương
quan với sứ vụ thiên sai của Người: “Thày đã
đến để đốt lửa trên thế gian”
(Lk.12:49). Bởi thế, Thần Linh làm cho đời sống
bừng lên lòng sốt sắng, như lời Thánh Phaolô khuyên
ở bức thư gửi giáo đoàn Rôma: “Hãy sốt sắng
trong Thần Linh” (
Dước
tác động của Chúa Thánh Thần nơi người tín
hữu sẽ tiến triển một sự thánh thiện
nguyên vẹn đến nỗi có khả năng tiếp thụ,
thăng hoa và hoàn hảo, chứ không hủy hoại, cá tính
nơi mỗi một người. Bởi thế mọi thánh
nhân đều có một bộ mặt riêng biệt. Với
Thánh Phaolô chúng ta có thể nói rằng: “Tinh tú tỏa sáng khác
nhau” (1Cor.15:41), chẳng những nơi “việc phục
sinh sau này”, như được Thánh Phaolô ám chỉ, mà còn
nơi tình trạng hiện tại của thành phần con
người không còn thuần tâm lý (theo sự sống tự
nhiên), song linh thiêng (theo Thánh Thần khơi động)
(x.1Cor.15:44ff).
Sự
thánh thiện hệ tại mức độ trọn hảo
của tình yêu. Tuy nhiên, sự thánh thiện này được
chia ra tùy theo các phương diện khác nhau được
tình yêu thể hiện qua một số hoàn cảnh của đời
sống cá nhân. Theo tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi
người dùng tình yêu để chế ngự bản năng
của cái tôi, và tăng phát những mãnh lực mạnh nhất
theo kiểu cách thế riêng trong việc hy hiến bản
thân mình. Khi mãnh lực bộc lộ và trải rộng này
trở thành mạnh mẽ đặc biệt thì Chúa Thánh Thần
sẽ khiến cho có những nhóm môn đệ và hậu duệ
qui tụ lại chung quanh những con người ấy
(cho dù có những lúc họ là những con người thầm
kín). Thế nên mới có những trào lưu sống thiêng liêng,
những trường phái tu đức học và những tổ
chức tu trì, với tính cách khác biệt nhau theo tác dụng
của ảnh hưởng thần linh. Chính Chúa Thánh Thần
là Đấng làm thực dụng những khả năng của
tất cả các thành phần này, nơi những nhân vật
và những nhóm hội, nơi những cộng đoàn và những
tổ chức, nơi các vị linh mục cũng như nơi
giáo dân.
Giá
trị mới của tự do là đặc tính của đời
sống Kitô hữu bắt nguồn từ nguồn mạch
nội tâm này. Như Thánh Phaolô nói: “Ở đâu có Thần
Linh Chúa ở đấy có tự do” (2Cor.3:17). Thánh Tông Đồ
đang cố ý nói đến chính niềm tự do mà thành
phần theo Chúa Kitô có được so sánh với lề luật
Do Thái, hợp với giáo huấn và thái độ của chính
Chúa Giêsu. Thế nhưng, nguyên tắc thánh nhân nói đó có một
ý nghĩa tổng quát. Thánh nhân thường nói đến tự
do như ơn gọi của Kitô hữu: “Anh em ơi, anh em
đã được kêu gọi để sống tự
do” (Gal.5:13). Và thánh nhân đã cắt nghĩa rõ ràng những
gì ngài có ý nói. Theo Thánh Tông Đồ, ai “sống bởi Thần
Linh” (Gal.5:16) là sống trong tự do, vì người đó
không còn bị áp lực của gông cùm xác thịt nữa: “Hãy
theo Thần Linh mà sống thì anh em chắc chắn sẽ không
tìm thỏa mãn ước muốn của nhục thể”
(Gal.5:16). “Hứng theo xác thịt thì chết, còn hứng theo
Thần Linh thì sống và được bình an” (Rm.8:6).
“Những
việc làm của xác thịt”, mà thành phần Kitô hữu
trung thành với Thần Linh được giải thoát, là
những việc làm của cái tôi và đam mê nhục dục,
những việc làm cản trở con người tiến
vào vương quốc của Thiên Chúa. Những việc làm
của Thần Linh là những việc làm của tình yêu: “Không
có luật lệ đối với những điều như
vậy” (Gal.5:23).
Theo
Thánh Tông Đồ, những việc làm của Thần Linh
sẽ mang lại là “nếu anh em được Thần
Linh hướng dẫn, thì anh em không lệ thuộc lề
luật” (Gal.5:18). Viết cho Timôthêu, thánh nhân không ngần ngại
nói: “Lề luật không có nghĩa gì với một con người
chính trực” (1Tim.1:9). Và Thánh Tôma cắt nghĩa: “Lề luật
không có mộït mãnh lực áp đặt nào trên người
công chính như nơi kẻ gian ác” (Summa Theol., I-II,q.96,a.5 và 1), vì người công chính
không làm gì trái với lề luật cả. Trái lại, được
hướng dẫn bởi Thánh Thần, họ tự do làm
mọi sự như lề luật ấn định
(x.Rm.8:4; Gal.5:13-16).
Đó
là một hòa điệu tuyệt vời giữa tự do và
lề luật, kết qủa của tác động Thánh Thần
nơi người công chính. Tiên tri Giêrêmia và Ezekien đã nói
trước điều này, khi loan báo việc nội tâm hóa
lề luật của tân ước (x.Jer.31:31-34; Ez.36:26-27).
“Ta
sẽ đặt Thần Linh của Ta trong các ngươi”
(Ez.36:27). Lời tiên tri này đã được hiện thực
và tiếp tục hoạt động nơi tín hữu cũng
như trong cộng đồng Giáo Hội. Chính Thần Linh
là Đấng làm cho lời tiên tri này được thực
hiện, không phải thành một người thuần túy
giữ luật, mà là một người tự do, sốt sắng
và trung thành hoàn thành ý định của Thiên Chúa. Họ làm
theo tất cả những gì Thánh Tông Đồ nói: “Những
ai được Thần Linh dẫn dắt đều là
con cái của Thiên Chúa. Vì anh em không lãnh nhận một thần
trí nô lệ để lại sống trong lo âu sợ hãi,
song anh em lãnh nhận một thần trí thừa nhận để
chúng ta kêu lên: ‘Abba, Lạy Cha!’” (Rm.8:14-15). Chúa Giêsu đã công
bố niềm tự do của con cái là niềm tự do đích
thực (x.Jn.8:36). Nó là một niềm tự do sâu xa ở bên
trong, song cũng là một niềm tự do luôn luôn hướng
về tình yêu thương, một tình yêu thương có khả
năng và hầu như tự động (x.Eph.2:18) dẫn
con người đến cùng Chúa Cha trong một Thần
Linh duy nhất. Đó là một niềm tự do sáng suốt
tỏa ra nơi đời sống của các vị thánh.
(Bài
Giáo Lý thứ 72 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ
ngày Thứ Tư, 10-4-1991,
trong
loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)