Bài 3
Ý Nghĩa “Thần Linh”
trong Cựu Ước
T |
rong những bài giáo lý của
chúng ta về ngôi vị và sứ vụ của Chúa Thánh Thần,
trước hết chúng ta tìm nghe lời loan báo và hứa của
Chúa Giêsu về Ngài, nhất là ở trong Bữa Tiệc Ly.
Chúng ta cũng đã ôn lại đoạn Ngài đến
được sách Tông Đồ Công Vụ trình thuật lại.
Chúng ta còn trở về với những đoạn Tân
Ước kể lại cho chúng ta biết việc rao giảng
của Giáo Hội ban đầu về Ngài và đức tin
của Giáo Hội nơi Ngài. Tuy nhiên, trong việc tìm hiểu
của mình, chúng ta cũng thường trở về với
Cựu Ước. Chính các vị tông đồ, trong việc
giảng dạy ban đầu ngay sau biến cố Hiện
Xuống, đã minh nhiên trình bày việc Chúa Thánh Thần
đến như một việc hoàn tất những lời
hứa và tiên báo xưa kia. Các vị coi cựu ước
và lịch sử dân Yến Duyên như là một thời
đoạn sửa soạn để lãnh nhận tràn đầy
chân lý và ân sủng được ban phát nơi Đấng
Thiên Sai.
Thánh
Thần Hiện Xuống qủa thật là một biến
cố nhắm đến tương lai. Bởi vì biến
cố này đánh dấu thời điểm Thánh Linh mở
màn, Đấng biện minh cho công cuộc cứu chuộc
cùng với Chúa Cha và Chúa Con, như chính Chúa Giêsu đã xác nhận,
một công cuộc khơi nguồn từ thập giá cần
phải được thấm nhập vào cả thế giới.
Tuy nhiên, muốn thấu hiểu tất cả mạc khải
về Chúa Thánh Thần một cách trọn vẹn hơn, cần
phải đi ngược lại thời gian, tức là
đi trở về với Cựu Ước, để
tìm thấy ở đó những dấu hiệu của một
cuộc sửa soạn trường kỳ cho mầu nhiệm
Phục Sinh và Hiện Xuống.
Bởi
thế, chúng ta, một lần nữa, cần phải chú ý
tới những dữ kiện thánh kinh liên quan đến
Chúa Thánh Thần cũng như đến tiến trình mạc
khải được dần dần hiện tỏ từ
những hình bóng của Cựu Ước đến những
xác thực tỏ tường nơi Tân Ước. Điều
này được thể hiện trước hết trong
cuộc sáng tạo, rồi sau đó trong công cuộc cứu
chuộc, cũng như nơi lịch sử và tiên tri của
dân Yến Duyên mới đến cuộc sống và sứ
vụ của Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai, từ lúc Nhập
Thể cho tới khi phục sinh.
Trong
số những dữ kiện cần phải được
tìm hiểu, dữ kiện thứ nhất là tên gọi ghép
cho Chúa Thánh Thần trong Cựu Ước cùng với những
ý nghĩa khác nhau được hàm ý nơi tên gọi này.
Chúng
ta biết rằng, theo tâm thức của người Do
Thái, tên gọi có một tầm quan trọng nổi bật
trong việc làm tiêu biểu cho con người. Ở đây
chúng ta nhớ lại tầm quan trọng nơi cách thức
xưng hô với Thiên Chúa trong sách Xuất Hành cũng như
trong cả truyền thống dân Yến Duyên. Moisen đã hỏi
Chúa là Thiên Chúa tên của Ngài là gì. Việc tỏ tên mình ra
được coi như là một việc tỏ hiện
chính bản thân mình vậy: thánh danh Thiên Chúa đã thiết
lập mối liên hệ giữa dân Do Thái với hữu thể
siêu việt mà lại hiện hữu của chính Thiên Chúa
(x.Ex.3:13-14).
Nhờ
mạc khải nơi Tân Ước, chúng ta mới có thể
biết được thực tại của Ngài là một
ngôi vị thần linh, cùng bản thể với Chúa Cha và
Chúa Con, tuy nhiên, danh xưng được dùng để gọi
Chúa Thánh Thần trong Cựu Ước cũng sẽ giúp
chúng ta hiểu được những đặc tính của
Ngài. Thật là có lý khi nghĩ rằng từ ngữ
được các tác giả sách thánh chọn thì chính xác,
đúng hơn là chính Chúa Thánh Thần là Đấng đã
linh ứng cho các vị, hướng dẫn tiến trình
suy diễn và hành văn của các vị, ngay trong thời Cứu
Ước, để các vị tinh tường tìm một
diễn đạt xứng hợp biểu hiệu cho bản
thân của Ngài.
Trong
Thánh Kinh, từ ngữ Do Thái về Thần Linh là ruah. Ý nghĩa thứ nhất
của từ ngữ này, cũng như ý nghĩa chữ spiritus của bản dịch
La Tinh, là “hơi thở”. (Trong Anh ngữ, mối liên hệ
giữa thần linh và việc hô hấp vẫn rõ ràng từ
trước đến nay). Hơi thở là một thực
tại vô thể như chúng ta nhận thấy. Nó không thấy
được; nó không cụ thể; không thể nắm
được trong tay; dường như không là gì mà lại
không thể thiếu được. Con người không hô
hấp không thể nào sống được. Sự khác
nhau giữa một người sống và một người
chết là ở chỗ người sống còn hơi thở
và người chết hết thở. Sự sống từ
Thiên Chúa mà có. Bởi thế, hơi thở cũng từ
Ngài mà có, và Ngài có thể rút nó lại (x.Ps.104:29-30). Nhận
định về hơi thở như thế mới thấy
rằng sự sống cần phải lệ thuộc vào một
nguyên lý linh thiêng, nguyên lý mà tiếng Do Thái gọi cùng một
tên là ruah. Hơi thở của
con người liên hệ với gió là một hơi thở
thiên nhiên mạnh hơn hơi thở của con người
rất nhiều.
Tiếng
Do Thái ruah, giống như tiếng
Latinh spiritus, còn biểu hiệu
cho tác động thổi của gió nữa. Không ai thấy
được gió ngoại trừ những dấu hiệu
tỏ tường của nó. Nó lùa may bay, rung cây động
lá. Khi lên cơn phong vũ, nó có thể làm biển cả nổi
sóng khiến chìm đắm tầu bè (x.Ps.107:25-27). Đối
với người xưa, gió được coi như là một
quyền lực huyền nhiệm Thượng Đế tỏ
ra (x.Ps.104:3-4). Nó có thể được gọi là “hơi
Thượng Đế thở”.
Trong
sách Xuất Hành, một đoạn văn xuôi thuật lại
rằng: “Giavê đã dùng một cơn gió đông thổi mạnh
cả đêm để dồn biển lại, làm biển
thành đất khô. Các giòng nước dựng đứng
lên và con cái Yến Duyên đi trên đất khô ngay giữa
lòng biển...” (Ex.14:21-22). Ở đoạn sau đó, cũng
trong biến cố này, được diễn tả bằng
văn vần, cơn gió đông thổi này được
gọi là “một luồng thổi mạnh từ mũi” Thiên Chúa. Thân thưa cùng Thiên Chúa,
nhà thơ viết: “Một luồng thổi mạnh từ
mũi Ngài làm cho các giòng nước dựng đứng lên
cao... Ngài thổi một hơi thở của Ngài thì biển
cả đổ xuống trên họ (quân Ai Cập)”
(Ex.15:8-10). Điều ấy nói lên niềm xác tín rất
đáng lưu ý ở chỗ gió là dụng cụ Chúa dùng
trong trường hợp này.
Từ
những nhận xét về gió vô hình và mãnh lực như thế,
người ta có một ý niệm về sự hiện hữu
của “thần trí Thiên Chúa”. Trong những bản văn của
Cựu Ước, người ta dễ dàng đi từ
nghĩa này đến nghĩa khác, và ngay trong Tân Ước,
chúng ta cũng thấy có hai ý nghĩa. Để giúp cho
Nicôđêmô hiểu được cách thức tác động
của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu đã so sánh với gió, và
Người đã sử dụng cùng một từ ngữ
cho cả hai trường hợp: “Gió thổi đâu thì thổi...
Tất cả những ai sinh bởi Gió (như bởi Thánh
Thần) đều giống như thế” (Jn.3:8).
Bởi
thế, ý niệm sâu xa được diễn tả
nơi danh xưng mà thánh kinh đặt cho Thần Linh không
phải là danh xưng về một quyền năng thuộc
lãnh vực tâm lý, cho bằng là danh xưng của một
thúc đẩy sinh động, tương tự như quyền
lực của gió. Theo Thánh Kinh, phận sự chính của
thần trí không phải là soi hiểu hơn là tác động;
không phải chiếu soi hơn là thúc động.
Tuy
nhiên, phương diện về Thần Linh này vẫn
chưa phải là tất cả. Những phương diện
khác cũng đã được diễn tả để dọn
đường cho mạc khải sau này. Trước hết
và trên hết là phương diện nội tâm. Thật vậy,
hơi thở nhập vào con người. Theo từ ngữ
thánh kinh, điều này có thể được diễn tả
khi nói rằng Thiên Chúa đặt thần trí trong tâm can con
người (x.Ez.36:26; Rm.5:5). Vì không khí rất nhẹ, nó thẩm
thấu chẳng những thân xác chúng ta, mà còn tất cả
mọi nơi, mọi kẽ hở. Sự kiện này cho
chúng ta hiểu được rằng, như Sách Khôn Ngoan
viết, “thần trí của Chúa tràn lan khắp hoàn vũ”
(Wis.1:7) và thần trí của Ngài đặc biệt thấu
nhập vào “tất cả mọi tâm linh tinh anh, tinh tuyền
và tinh tế nhất” (7:23).
Liên
quan đến phương diện nội tâm là
phương diện kiến thức. Thánh Phaolô đặt
vấn nạn: “Ai có thể thấu hiểu được
thâm cung con người, nếu không phải là tâm linh của
họ?” (1Cor.2:11). Chỉ có tâm linh của chúng ta mới biết
được những phản ứng và tư tưởng
sâu xa chưa được truyền đạt ra cho
người khác của chúng ta thôi. Tương tự như
thế, và còn hơn thế, Thần Linh Chúa hiện diện
trong tất cả mọi hữu thể nơi vũ trụ
biết hết mọi sự ngay từ bên trong (Wis.1:7). Thật
vậy, “Thần Linh dò thấu thẳm cung mọi sự,
ngay cả thâm cung Thiên Chúa... Thâm cung Thiên Chúa chỉ có thể
biết được bởi Thần Linh Thiên Chúa mà thôi”
(1Cor.2:10-11).
Về
vấn đề hiểu biết và truyền thông với
nhau, hơi thở có một liên hệ tự nhiên với
ngôn từ. Để phát biểu, chúng ta phải sử dụng
hơi thở của mình. Những âm thanh làm cho hơi thở
rung động, nhờ đó, hơi thở rung động
này mới có thể chuyền sang cho những thanh âm của
ngôn từ. Cảm hứng bởi sự kiện này, Thánh
Kinh đã rút ra được một so sánh giữa ngôn từ
và hơi thở (x.Is.11:4), hay giữa ngôn từ và tâm linh. Nhờ
hơi thở của chúng ta mà ngôn từ được
truyền đạt; bởi hơi thở của chúng ta,
ngôn từ mới có sức phát động. Thánh Vịnh 33
đã sử dụng lối so sánh này vào biến cố tạo
dựng thuở nguyên khai mà rằng: “Nhờ lời của
Giavê mà các tầng trời được tạo thành, toàn
thể cơ cấu của chúng cũng bởi hơi thở
miệng Ngài...” (câu 6).
Nơi
những bản văn cùng một loại này, chúng ta nhận
thấy có một cuộc sửa soạn xa xa cho mạc khải
Kitô giáo về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa Ngôi Cha là
nguồn gốc của tạo thành. Ngài đã hình thành nó bằng
Lời Ngài, đó là Ngôi Con, và bởi Hơi Thở của
Ngài là Ngôi Thánh Thần.
Từ
ngữ ruah theo tiếng Do
Thái được Thánh Kinh sử dụng để biểu
hiệu cho Thần Linh có nhiều ý nghĩa khác nhau như
thế có thể khơi lên một số lầm lẫn.
Đúng thế, trong nguyên một bản văn thôi, thường
không thể nào xác định được ý nghĩa
đích thực của từ ngữ này. Người ta có
thể lưỡng lự giữa gió và hơi thở, giữa
hơi thở và thần trí, hay giữa tâm linh thụ tạo
và Thần Linh Thiên Chúa.
Tuy
nhiên, tính cách đa diện này lại có một sự phong
phú riêng, vì nó làm cho việc truyền thông được hiệu
nghiệm hơn khi gặp phải biết bao nhiêu là những
trường hợp khác nhau như vậy. Thế nên, thà bỏ
qua việc đi vào phần tìm hiểu những lý luận
thuận hợp cho vấn đề này để đi
ngay vào những quan niệm quảng bá thì hơn. Khi chúng ta
nghĩ về Chúa Thánh Thần, chúng ta nên nhớ rằng
danh xưng theo thánh kinh của Ngài là “hơi thở”, và
hơi thở thì lại liên hệ với việc thổi
mạnh của gió cũng như với việc hô hấp
thầm lắng riêng của chúng ta. Thay vì dính chặt với
một quan niệm qúa trừu tượng và khô khan, chi bằng
chúng ta hãy lợi dụng tính cách phong phú về hình ảnh
và dữ kiện này. Tiếc thay, các bản dịch không thể
nào chuyên chở cho chúng ta tất cả những hình ảnh
và dữ kiện này một lúc, vì những bản dịch
đó bị bó buộc phải lựa chọn từ ngữ
nào thích hợp nhất. Để dịch chữ Ruah trong tiếng Do Thái, bản
dịch Bảy Mươi bằng tiếng Hy Lạp đã
phải dùng đến 24 từ khác nhau, và như thế,
đã không làm cho người ta thấy được tất
cả những liên đới giữa các bản văn
Thánh Kinh Do Thái.
Để
chấm dứt việc phân tích từ vựng của các bản
văn Cựu Ước liên quan đến chữ ruah này, chúng ta có thể nói rằng
hơi thở của Thiên Chúa, nơi các bản văn này,
được coi như là một quyền lực ban sự
sống cho các tạo vật. Nó tỏ hiện như một
thực tại sâu xa của Thiên Chúa tác hành trong con người.
Nó còn tỏ hiện như một cuộc biểu
dương sinh động của Thiên Chúa được
thông sang cho các tạo vật.
Mặc
dầu chưa hiểu được như là một Ngôi
Vị chuyên biệt trong liên hệ hữu thể thần
linh, “hơi thở” hay “Thần Linh” của Thiên Chúa, nơi
các bản văn Cựu Ước này, cũng được
phân biệt một cách nào đó với Thiên Chúa là Đấng
gửi “hơi thở” hay “Thần Linh” của Ngài đến
để điều hành nơi các tạo vật. Như
thế, ngay cả theo quan điểm văn tự, lý trí
con người cũng đã được dần dần
sửa soạn để lãnh nhận mạc khải về
Ngôi Vị của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ xuất
hiện như một diễn đạt sự sống nội
tại và quyền toàn năng của Thiên Chúa.
(Bài Giáo Lý thứ 27 của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 3-1-1990,
trong
loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)