Bài 30
Thần Linh: Nguồn
Tình Yêu Mới Ban Sự Sống
N |
ơi linh hồn Kitô hữu có
một thứ tình yêu mới mẻ làm cho họ thông phần
với tình yêu của Thiên Chúa: “Tình yêu của Thiên Chúa”, thánh
Phaolô nói, “đã được tuôn đổ vào lòng chúng ta
nhờ Thánh Thần là Đấng đã được ban
cho chúng ta” (Rm.5:5). Tình yêu này tự bản chất là thần
linh, nên nó cao hơn những khả năng theo tự nhiên nơi
linh hồn con người. Theo ngôn từ thần học, nó
được gọi là đức ái. Tình yêu siêu nhiên này đóng
một vai trò trọng yếu nơi đời sống Kitô
hữu, như Thánh Tôma cho thấy khi thánh nhân nhấn mạnh
một cách tỏ tường rằng đức ái không phải
chỉ là một “nhân đức cao qúi nhất trong mọi
nhân đức” (excellentissima
omnium virtutum), mà còn là “mô thức của mọi nhân đức,
vì nhờ đức ái mà hành động của họ mới
qui hướng về cùng đích chân thực và tối thượng
của chúng” (Summa Theol.,
II-II, q.23 aa.6 và 8).
Bởi
thế, đức ái chiếm được một địa
vị then chốt nơi con người mới “được
dựng nên theo đường lối của Thiên Chúa trong
chính trực và thánh thiện phát xuất từ chân lý” (Eph
Trong
việc thông truyền sinh lực này cho linh hồn, Chúa Thánh
Thần đã làm cho nó có khả năng, nhờ đức ái
siêu nhiên, nhờ việc tuân giữ giới răn yêu thương
lưỡng đôi do Chúa Giêsu ban truyền: yêu mến Thiên
Chúa và yêu thương tha nhân.
“Các
ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa các ngươi
hết lòng mình...” (Mk.12:30; x.Dt 6:4-5). Chúa Thánh Thần làm cho
linh hồn thông dự vào tình yêu con cái đối với Chúa
Cha nơi Chúa Giêsu, để, như Thánh Phaolô viết: “Những
ai được Thần Linh hướng dẫn đều
là con cái của Thiên Chúa” (Rm.8:14). Ngài làm cho Chúa Cha được
yêu mến như chính Chúa Con vẫn yêu mến Ngài, chẳng
hạn như, bằng một tình yêu con cái được
tỏ ra trong tiếng kêu “Lạy Cha” (x.Gal 4:6; Rm 8:15), thế
nhưng tình yêu này chan hòa toàn thể hoạt động của
những ai là con cái Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần. Dưới
ảnh hưởng của Thần Linh, cả đời sống
của họ trở nên một của lễ đầy trân
trọng và thảo hiếu dâng lên cho Chúa Cha.
Khả
năng để tuân giữ giới răn kia, là yêu thương
anh em mình, cũng bởi Chúa Thánh Thần nữa. “Các con hãy
yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con”,
Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ và tất cả
những ai theo Người như thế. Những lời
“như Thày đã yêu thương các con” đã làm phát hiện
một giá trị mới của tình yêu siêu nhiên, đó là được
thông dự vào tình yêu của Chúa Kitô đối với loài
người, và vì thế, cũng được tham phần
vào đức ái đời đời là chính cội nguồn
của nhân đức bác ái. Như Thánh Tôma viết: “Yếu
tính thần linh tự mình là tình yêu, như yếu tính thần
linh này là khôn ngoan và thiện hảo. Thế nên, như người
ta có thể nói rằng chúng ta tốt lành bởi sự thiện
hảo là Thiên Chúa, và khôn ngoan bởi sự khôn ngoan là Thiên
Chúa, vì sự thiện hảo làm chúng ta thực sự tốt
lành là sự thiện hảo của Thiên Chúa và sự khôn
ngoan làm cho chúng ta thực sự khôn ngoan là khôn ngoan được
tham dự vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa; cũng thế,
đức ái làm cho chúng ta thực sự yêu thương anh
em mình là đức ái được thông dự vào đức
ái thần linh” (Summa Theol.,
II-II,q.23,a.2,ad 1). Việc tham phần này được tác động
bởi Chúa Thánh Thần, Đấng dùng việc chúng ta tham
dự này làm cho chúng ta có thể chẳng những yếu mến
Thiên Chúa mà con yêu thương tha nhân mình nữa, như Chúa
Giêsu Kitô đã yêu thương họ. Phải, chúng ta có thể
yêu thương cả tha nhân của mình vì, nếu tình yêu của
Thiên Chúa đã được đổ tràn vào lòng chúng ta,
nhờ tình yêu này, chúng ta có thể yêu thương người
khác và, bằng một cách nào đó, yêu thương cả
những tạo vật vô tri nữa (x.Summa Theol., II-II, q.25,a.3) như Thiên Chúa đã yêu thương
chúng.
Kinh
nghiệm lịch sử đã cho chúng ta thấy việc thực
hành cụ thể các huấn thị này khó khăn biết
bao. Tuy nhiên, nó lại nằm ngay tâm điểm của đạo
đức học Kitô giáo, như một tặng ân do Thần
Linh ban phát mà chúng ta cần phải xin với Ngài. Thánh Phaolô
xác nhận điều này trong Thư gửi giáo đoàn
Galata với lời khuyên dụ họ sống trong tự
do mà họ đã lãnh nhận bằng một thứ lề
luật yêu thương mới: “Thế nhưng anh em đứng
sử dụng tự do này để thỏa mãn xác thịt;
trái lại, hãy lấy tình yêu mà phục vụ lẫn nhau”
(Gal 5:13). “Vì trọn lề luật được gói gọn
trong lời này, đó là ‘Anh em phải yêu thương tha nhân
như chính bản thân mình’” (Gal
Trong
Thư Thứ Nhất gửi giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô như
có ý kéo dài hơn bản liệt kê và diễn tả những
đặc tính của đức ái đối với tha nhân.
Thật vậy, sau khi đề nghị người ta mong
được “những tặng ân thiêng liêng cao cả nhất”
(1Cor 12:31), thánh nhân đã ca tụng đức ái như là một
sự thiện hảo cao hơn mọi tặng ân phi thường
có thể được Chúa Thánh Thần ban cho, và như là
một điều thiết yếu hơn những tặng
ân ấy đối với đời sống Kitô hữu.
Bài ca ngợi đức ái xuất phát từ lời thánh nhân
và linh hồn thánh nhân, có thể được coi như một
bài ca được Chúa Thánh Thần tác dụng nơi hành
vi con người. Theo ý nghĩa này, đức ái có một
chiều kích đạo đức học thực dụng:
“Yêu thương thì kiên nhẫn, yêu thương thì từ ái.
Yêu thương chẳng ghen tị hay huyênh hoang, yêu thương
chẳng lên mặt, yêu thương chẳng hung bạo, yêu
thương chẳng tìm mình, yêu thương chẳng dễ
cáu kỉnh, yêu thương chẳng chấp nhất tổn
thương, yêu thương chẳng mừng vì gian ác nhưng
vui với lẽ phải. Yêu thương thì chấp nhận
mọi sự, tin tưởng mọi sự, hy vọng mọi
sự, chịu đựng mọi sự” (1Cor.13:4-7).
Trong
danh sách “các hoa trái của Thần Linh” (Gal 5:22), có thể nói
rằng Thánh Phaolô, đi đôi với bài ca của đức
ái trên đây, muốn đề cập đến một vài
thái độ chính yếu thuộc về đức ái.
Trong đó có những thái độ sau đây:
1)
Nhẫn nại, trước hết: “Yêu thương thì nhẫn
nại” (1Cor 13:4). Người ta có thể thấy rằng
chính Thần Linh làm gương nhẫn nại đối với
các tội nhân cũng như với việc làm sai quấy của
họ, như chúng ta đọc thấy trong các Phúc Aâm về
Chúa Giêsu, Đấng được gọi là “bạn bè của
phường thu thuế và bọn tội nhân” (Mt.11:19;
x.Lk.7:34). Đức nhẫn nại này là phản ảnh chính
tình yêu Thiên Chúa, Thánh Tôma nhận định, “Đấng tỏ
lòng thương bằng tình yêu, vì Ngài yêu thương chúng
ta như những gì thuộc về Ngài” (Summa Theol., II-II,q.30,a.2,ad 1).
2)
Từ ái là hoa trái của Thần Linh: “Yêu thương thì từ
ái” (1Cor.13:4). Từ ái cũng là phản ảnh của lòng từ
ái thần linh đối với người khác, bằng
việc chấp nhận cũng như đối xử một
cách thiện cảm và thông cảm.
3)
Thiện hảo nữa: “Yêu thương chẳng tìm tư
lợi” (1Cor 13:5). Tình yêu này sẵn sàng cho đi quảng đại,
khi tình yêu của Chúa Thánh Thần tăng thêm những tặng
ân của Ngài và thông ban tình yêu của Ngôi Cha cho các tín hữu.
4)
Sau hết là hiền dịu: “Yêu thương chẳng dễ
cáu kỉnh” (1Cor 13:5). Chúa Thánh Thần giúp Kitô hữu làm tái
sinh nơi mình “sự hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”
của Chúa Kitô và thực hành mối phúc hiền lành mà Người
đã rao giảng (x.Mt.5:5).
Trong
việc kể ra “những việc làm của xác thịt”
(x.Gal 5:19-21), Thánh Phaolô làm sáng tỏ những đòi hỏi
của đức ái, làm nên những phận sự cụ
thể, như đối nghịch với những xu hướng
của con người thú tính (homo
animalis) là nạn nhân cho đam mê của mình. Hơn nữa,
điều này có nghĩa là tránh lánh những ghen tương
và tranh chấp, mong cho anh em mình được điều
tốt lành, tránh hiềm thù, bất mãn, chia rẽ, cải cọ
và đề cao những gì mang lại hiệp nhất. Ở
đây chúng ta đừng hiểu lầm một câu trong ca
khúc yêu thương của Thánh Phaolô nói rằng đức ái
“chẳng chấp nhất tổn thương” (1Cor 13:5). Chúa
Thánh Thần thúc giục quảng đại thứ tha về
những tổn thương phải hứng và những mất
mát phải chịu; là Thần Linh soi sáng và yêu thương,
Ngài cho phép tín hữu làm điều này khi Ngài tỏ cho họ
thấy những đòi hỏi vô hạn của đức
ái.
Lịch
sử cũng xác nhận sự thật về điều
chúng ta vừa dẫn giải. Đức ái chiếu tỏa
nơi đời sống các vị thánh và nơi Giáo Hội,
từ ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống cho đến
nay. Tất cả các thánh và mọi thời sử của Giáo
Hội đều mang dấu vết đức ái và Chúa Thánh
Thần. Có thể nói được rằng, vào một số
thời đoạn lịch sử, theo sự soi động
và hướng dẫn của Thần Linh, đức ái đã
mặc những thể thức có tính cách đặc biệt
hoạt động trong việc tổ chức trợ giúp
và nâng đỡ những người chịu đói khổ,
bệnh hoạn và dịch tễ cả cũ lẫn mới.
Thế nên mới có nhiều “vị thánh bác ái”, như các ngài
đặc biệt được gọi trong thế kỷ
18 và trong thế kỷ của chúng ta đây. Các ngài là những
vị giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và Kitô hữu
giáo dân. Tất cả các ngài là “những tôi tớ” đức
ái. Nhiều vị đã được Giáo Hội tôn phong,
và các vị khác được các tiểu sử gia và sử
gia là những người đã có thể chứng kiến
tận mắt, hay đã nhận ra từ những văn liệu
của các vị, sự cao cả chân thực nơi những
môn đồ của Chúa Kitô cũng như những người
tôi tớ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, đa số vẫn còn vô
danh ẩn tính trong đức ái, một đức ái vẫn
tiếp tục làm thế giới tràn đầy thiện hảo
một cách tốt đẹp. Vinh danh những vị chiến
sĩ vô danh này, những chứng nhân đức ái âm thầm
ấy! Thiên Chúa biết đến các vị; Thiên Chúa mới
thực sự tôn vinh các vị! Chúng ta phải biết ơn
các vị vì các vị là chứng cớ lịch sử về
“tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ vào lòng chúng ta” nhờ
Chúa Thánh Thần, chuyên viên thủ công lành nghề đầu
tiên và là nguyên lý sống còn của tình yêu Kitô giáo.
(Bài
Giáo Lý thứ 76 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ
ngày Thứ Tư, 22-5-1991,
trong
loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)