Bài 33
Thần Linh:
Bảo Chứng của
Niềm Hy Vọng Cánh Chung
H |
y vọng là một trong số
những tặng ân tồn tại cao cả nhất (tin, cậy,
mến), như Thánh Phaolô nói với Kitô hữu giáo đoàn Côrintô
(x.1Cor.13:13). Nó đóng một vai trò nền tảng trong đời
sống Kitô hữu, cũng như đức tin và đức
ái, mặc dầu “cao trọng nhất trong ba là yêu mến”
(x.1Cor.13:13). Dĩ nhiên hy vọng không được hiểu
theo ý nghĩa hạn hẹp của nó như là một tặng
ân chuyên biệt, ngoại lệ được ban cho một
số người để mưu ích chung cộng đồng,
mà là một tặng ân Chúa Thánh Thần ban cho từng người
đang tìm kiếm Chúa Kitô trong đức tin. Tặng ân này phải được chú trọng đặc
biệt, nhất là trong thời của chúng ta đây. Ngày
nay nhiều người, bao gồm một con số khá đông,
đang chới với trong ảo tưởng và hoang đường
về khả năng bất tận trong việc tự cứu
rỗi mình và tự hoàn thiện mình, cũng như trong chước
cám dỗ bi quan khi thấy mình thường bị thất
vọng và thua bại.
Mặc dầu bao gồm cả niềm phấn chấn
về tâm lý nơi tâm hồn trong việc nỗ lực hướng
về sự thiện khó đạt hơn, niềm hy vọng
Kitô giáo vẫn được xây trên tầm mức siêu nhiên
của các nhân đức. Nó phát xuất từ ân sủng (x.Summa Theol., III, q.7,a.2), như một tặng ân Thiên
Chúa ban cho tín hữu trong cấp trật của sự sống
đời đời. Nó là một nhân đức, một
thứ nhân đức của homo
viator, tức của con người đang lữ hành,
thành phần mà, mặc dầu nhờ đức tin nhận
biết Thiên Chúa và ơn gọi đời đời của
Ngài, vẫn chưa đạt tới tình trạng hưởng
kiến Thiên Chúa. Theo một nghiã nào đó, niềm hy vọng
làm cho con người tiến “vào bên trong, vượt bức
màn chắn”, như được đề cập đến
trong Thư gửi giáo đoàn Do Thái (x.Heb.6:19).
Tuy
nhiên, chiều kích cánh chung mới là chiều
kích chính yếu cho nhân đức này. Vào Ngày Lễ Ngũ Tuần,
Chúa Thánh Thần đã
đến để hoàn tất những lời hứa được
gói ghém trong việc công bố ơn cứu độ, như
chúng ta đọc thấy trong Sách Tông Đồ Công Vụ:
“Được tôn vinh bên hữu Thiên Chúa, (Chúa Giêsu) đã lãnh
nhận lời Chúa Cha hứa ban Chúa Thánh Thần và đã tuôn
đổ Chúa Thánh Thần xuống” (Acts 2:33). Thế nhưng, việc hoàn tất lời hứa
này được dự phóng trên toàn bộ lịch sử,
cho đến ngày cùng tháng tận. Đối với
thành phần tin vào lời của Thiên Chúa được
vang dội nơi Đức Kitô và được các tông đồ
rao giảng, thì việc cánh chung đã bắt đầu thực
hiện, hay chúng ta có thể nói, đúng hơn nó đã được
thực hiện ở một phương diện sâu xa: đó
là ở việc hiện diện của Chúa Thánh Thần nơi
lịch sử con người, một lịch sử mà kể
từ biến cố Hiện Xuống, mang một ý nghĩa
và một sinh lực hướng về một mục đích thần linh dành cho mọi
người cũng như cho toàn thể nhân loại. Niềm
hy vọng của Cựu Ước, như nguồn gốc
của việc cánh chung, chứa đựng
lời hứa về sự hiện diện và quan phòng bền
bỉ của Thiên Chúa, một sự hiện diện và quan
phòng bền bỉ sẽ được biểu hiện nơi
Đấng Thiên Sai. Trong Tân Ước, niềm
hy vọng đã mang lại cho chúng ta sự ngưỡng vọng
đến vinh quang sau này, nhờ ơn Chúa Thánh Thần là
nguồn gốc của nó.
Theo
quan điểm này, Thánh Phaolô xác định là tặng ân Thánh Thần giống như lời đoan
hứa cho hạnh phúc tương lai. Gửi cho Kitô hữu
Ephêsô, thánh nhân viết: “Anh em đã được niêm ấn
bằng Thánh Thần hứa ban, Đấng là đệ nhất
bảo chứng cho gia nghiệp hướng đến phần
rỗi của chúng ta như sở hữu của Thiên Chúa, để
chúc tụng vinh quang của Ngài” (Eph.1:13-14; x.4:30; 2Cor.1:22).
Chúng ta có thể nói rằng nơi cuộc sống
Kitô hữu trên trần gian, nó giống như một cuộc
khởi hành để tiến vào việc trọn vẹn thông
phần với vinh quang của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần
kiến tạo nên một sự bảo đảm trong việc
chiếm đạt được tầm mức viên trọn
của sự sống đời đời, nhờ tác dụng
của ơn cứu rỗi, tất cả mọi hậu qủa
của tội lỗi, như khổ đau và sự chết,
cũng sẽ được chế ngự. Như
thế, niềm hy vọng Kitô giáo không phải chỉ là một
bảo đảm, mà còn là một ngưỡng vọng về
thực tại mai hậu.
Niềm
hy vọng mà Chúa Thánh Thần khêu lên nơi Kitô hữu còn có
một chiều kích có thể gọi là vũ trụ, bao gồm
cả trời đất, là những gì có thể cảm
nghiệm thấy và cũng là những gì ngoài tầm với
của chúng ta, những gì được biết đến
cũng như không được biết đến. Thánh
Phaolô viết: “Chính tạo vật cũng đang thiết
tha mong chờ việc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa.
Tạo vật bị làm cho phải lụy thuộc sự
hư hoại, không phải tự nó muốn như thế,
mà vì Đấng đã bắt chúng phải lụy thuộc,
hy vọng rằng cả tạo vật cũng sẽ được
giải cứu cho khỏi tình trạng làm tôi cho sự suy
vong và được thông phần tự do vinh quang của
con cái Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng toàn thể tạo vật
quằn quại rên rỉ cho đến nay; chẳng những
tạo vật mà cả chúng ta nữa, những hoa trái đầu
mùa của Thần Linh, chúng ta cũng rên xiết nơi bản
thân chúng ta khi chúng ta trông đợi được thừa
nhận, trông đợi việc cứu độ thân xác của
chúng ta” (Rm.8:19-23). Nhận thức được ơn gọi
của con người và định mệnh của vũ
trụ, Kitô hữu hiểu được ý nghĩa việc
thai nghén này của hoàn vũ và biết được rằng
nó là một vấn đề của việc thừa nhận
thần linh dành cho tất cả mọi người, thành
phần được kêu gọi để tham dự vào
vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang được phản ảnh
qua toàn thể tạo vật. Kitô hữu biết rằng họ
đã chiếm hữu được những hoa trái đầu
mùa của việc thừa nhận này trong Chúa Thánh Thần,
và vì thế, với một niềm hy vọng trông mong, họ
tin tưởng vào định mệnh thế giới, ngay
cả giữa những cơn hoạn nạn của lịch
sử.
Được
đức tin soi sáng, Kitô hữu hiểu được ý
nghĩa và hầu như cảm được sự thật
nơi đoạn thư tiếp theo (đoạn trên đây)
trong Thư gửi giáo đoàn Rôma, đoạn Thánh Tông Đồ
bảo đảm với chúng ta rằng “Thần Linh đến
trợ giúp chúng ta trong nỗi yếu hèn của chúng ta; vì chúng
ta không biết phải cầu nguyện thế nào cho đúng
như chúng ta phải cầu, song chính Thần Linh chuyển
cầu bằng những lời than khôn tả. Đấng
dò xét tâm can biết được ý hướng của Thần
Linh, vì Ngài chuyển cầu cho các thánh theo
ý muốn của Thiên Chúa” (Rm.8:26-28).
Như anh chị em đã thấy, chính trong nơi
thâm cung của linh hồn mà Chúa Thánh Thần sống động,
nguyện cầu và làm việc. Ngài làm cho chúng ta càng ngày
càng tiến vào, một cách trọn vẹn hơn, quan điểm
về cùng đích tối thượng là Thiên Chúa, bằng cách
làm cho cả cuộc sống của chúng ta hợp với dự
án cứu rỗi của Ngài. Bởi thế,
chính Chúa Thánh Thần là Đấng giúp cho chúng ta cầu nguyện,
khi Ngài cầu nguyện trong chúng ta, bằng những cảm
tình và lời lẽ của những người con cái Thiên
Chúa (x.Rm.8:15,26-27; Gal.4:6; Eph.6:18), trong mối liên hệ thiêng
liêng sâu xa có tính cách cánh chung với Chúa Kitô, Đấng ngự
bên hữu Thiên Chúa, nơi Người chuyển cầu cho
chúng ta (x.Rm.8:34; Heb.7:25; 1Jn.2:1). Như thế là
Chúa Thánh Thần đã cứu chúng ta cho khỏi ảo tưởng,
cũng như khỏi các con đường cứu độ
lầm lạc. Trong khi hướng lòng về
mục đích chân thật của cuộc sống, Ngài giải
thoát chúng ta khỏi khuynh hướng bi quan và hư vong.
Những chước cám dỗ này đang nhiễm hại
những ai không bắt đầu bằng căn bản đức
tin, hay ít là bằng một ước vọng chân thành trong
việc tìm kiếm Thiên Chúa.
Chúng ta cần phải thêm là thân xác cũng được
bao gồm trong chiều kích hy vọng này, một niềm hy
vọng Chúa Thánh Thần ban cho loài người. Thánh
Phaolô nói với chúng ta như vậy: “Nếu Thần Linh của
Đấng làm cho Chúa Giêsu phục sinh từ trong kẻ chết
ngự nơi anh em, thì Đấng làm cho Chúa Kitô sống lại
từ trong kẻ chết cũng sẽ ban sự sống
cho thân xác chết chóc của anh em nữa, nhờ Thần
Linh của Ngài ngự trong anh em” (Rm.8:11; x.2Cor.5:5). Chúng ta hãy
tạm thời dừng lại đây với những suy diễn
về phương diện hy vọng này, theo
chiều kích nhân loại học liên quan đến con người,
cũng như theo chiều kích vũ trụ cánh chung của
nó. Chúng ta sẽ trở lại với phương diện
hy vọng này, nếu Chúa muốn, ở những buổi giáo
lý mà chúng ta sẽ chú ý đến những tín điều
Kitô giáo hấp dẫn và sâu xa: đó là tín điều về
việc phục sinh của thân xác và sự sống đời
đời của toàn thể con người, bao gồm cả
hồn lẫn xác.
Còn
một điều nữa cũng cần phải để
ý là: cuộc hành trình trần gian của đời sống
sẽ tiến đến tận điểm, một tận
điểm mà người nào tiến tới đó còn ơn
nghĩa với Thiên Chúa, thì cũng là giây phút đầu tiên
của cuộc vĩnh phúc. Cho dù trong cuộc chuyển tiếp
về trời này, linh hồn phải chịu thanh tẩy
cho sạch mọi vết nhơ cuối cùng nơi luyện
ngục, linh hồn cũng đã được tràn đầy
ánh sáng, an toàn và hân hoan, vì con người biết rằng họ
là người nam hay nữ đã muôn đời thuộc về
Thiên Chúa. Vào lúc tối chung này, linh hồn được Chúa
Thánh Thần dìu dắt, Ngài là tác giả và là Đấng ban
phát, chẳng những “ơn đầu tiên” được
công chính hóa, cũng như ơn thánh hóa suốt cả cuộc
đời trần gian của con người, mà còn cả ơn
vinh hiển trong giờ lâm tử. Đó là ơn kiên trung đến
cùng theo giáo huấn của Công Đồng
Những
lời của Thánh Tông Đồ Phaolô dạy cho chúng ta thấy
được là nơi tặng của Ngôi Ba Thiên Chúa, sự
bảo đảm cho việc chúng ta mãn nguyện nơi niềm
hy vọng cứu độ: “Niềm hy vọng không làm cho
chúng ta bị thất vọng, vì tình yêu của Thiên Chúa đã
được tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần
là Đấng đã được ban cho chúng ta” (Rm.5:5). Thế nên, “Cái gì sẽ tách lìa chúng ta khỏi tình yêu
của Chúa Kitô?” Câu trả lời là một lời dứt
khoát: không có gì “sẽ có thể tách lìa chúng ta khỏi tình yêu
Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm.8:35,39). Do đó mà ước muốn của Thánh
Phaolô là chúng ta được tràn đầy “niềm hy vọng
bởi quyền lực của Chúa Thánh Thần” (Rm.15:13). Đây
là nguồn lạc quan Kitô giáo, một lạc quan về định
mệnh thế giới, về việc khả thủ ơn
cứu độ ở mọi thời, ngay cả trong những
thời ngặt nghèo nhất, trong những lúc khó khăn nhất
nơi tiến trình lịch sử tiến đến vinh
quang trọn hảo của Chúa Kitô (“Ngài - Thánh Thần - sẽ
tôn vinh Thày” - Jn.16:14), cũng như tiến đến việc
người tín hữu hoàn toàn tham dự vào vinh hiển của
con cái Thiên Chúa.
Theo
quan điểm này, Kitô hữu có thể ngước mặt
lên cao và hợp tiếng kêu cầu, một tiếng kêu cầu
mà, theo Sách Khải Huyền, là một tiếng
kêu sâu thẳm nhất được Chúa Thánh Thần làm
vang lên qua suốt giòng lịch sử, đó là tiếng kêu:
“Thần Linh và Hiền Thê nói, Hãy Đến!” (Rev.22:17). Giờ
đây hãy lắng nghe lời mời gọi cuối cùng của
Sách Khải Huyền cũng như của toàn thể Tân Ước:
“Ai nghe thì hãy nói lên, Xin Hãy Đến! Ai khát thì hãy tiến lên
cũng như ai muốn lãnh nhận tặng ân
nước ban sự sống... Xin Hãy Đến,
lạy Chúa Giêsu!” (Rev.22:17-20).
(Bài
Giáo Lý thứ 80 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ
ngày Thứ Tư,
trong loạt 80 bài về chủ đề
Chúa Thánh Thần)