Bài 5
Việc
Xức Dầu và Nước
là Những Biểu Hiệu của Thần
Linh trong Thánh Kinh
T |
rong bài diễn từ của
mình tại hội đường Nazarét vào lúc khởi đầu
cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã áp dụng cho mình lời
tiên tri Isaia này: “Thần Linh Chúa ở trên tôi, vì Ngài đã xức
dầu cho tôi” (Is.61:1; x.Lk.4:18). Đây là một biểu hiệu
khác được truyền từ Cựu Ước sang Tân
Ước với một ý nghĩa chính xác và mới mẻ
hơn. Điều này cũng đã xẩy ra với những
biểu hiệu gió, chim bồ câu và lửa; trong những bài
giáo lý mới đây, chúng ta đã thấy rằng những
biểu hiệu này ám chỉ hoạt động và Ngôi Vị
của Chúa Thánh Thần. Cả việc xức bằng dầu
nữa, cũng thuộc về truyền thống của Cựu
Ước. Các vua, hơn ai hết, đã được xức
dầu, cả các tư tế cũng vậy, đôi khi các
vị tiên tri nữa. Biểu hiệu xức
bằng dầu là để nói lên sức mạnh cần
thiết để thực thi quyền bính. Đoạn văn được trích từ tiên
tri Isaia về “việc thánh hiến bằng dầu” ám chỉ
đến sức mạnh tinh thần cần thiết để
thi hành sứ vụ Thiên Chúa trao cho một người mà Ngài
chọn và sai đi. Chúa Giêsu nói với chúng
ta rằng vị được Thiên Chúa chọn này chính là
Người, Đấng Thiên Sai. Mức độ tràn
đầy sức mạnh ban xuống cho Người - mức
độ tràn đầy Thánh Linh - thuộc về Người
là Đấng Thiên Sai (tức là Đấng được
Chúa xức dầu, hay là Đức Kitô).
Trong
sách Tông Đồ Công Vụ, thánh Phêrô cũng ám chỉ việc
Chúa Giêsu được xức dầu khi ngài gợi lại
“Thiên Chúa đã xức dầu cho Chúa Giêsu Nazarét với Chúa
Thánh Thần và bằng quyền năng thế nào; Người
đã đi làm việc lành và chữa trị mọi người
bị ma qủi cầm buộc” (Acts 10:38). Như dầu thấm
nhập vào gỗ hay các vật thể khác thế nào, Chúa Thánh
Thần cũng thấm nhập toàn hữu thể của
Chúa Giêsu Thiên Sai như vậy, ban cho Người quyền năng
cứu độ để thể hiện trên cả xác thể
lẫn hồn thiêng con người. Qua việc
xức dầu với Chúa Thánh Thần này, Chúa Cha đã thực
hiện việc thánh hiến Chúa Con.
Cuộc
tham dự vào việc xức dầu trong Chúa Thánh Thần của
nhân tính Chúa Kitô được truyền sang cho tất cả
những ai chấp nhận Người trong đức tin
và đức mến. Điều này được thực
hiện ở tầm mức bí tích nơi việc xức bằng
dầu, một nghi thức thuộc về chi tiết của
phụng vụ Giáo Hội, nhất là nơi Bí Tích Rửa Tội
và Bí Tích Thêm Sức. Như Thánh Gioan viết trong Thư Thứ
Nhất của mình, họ được “xức dầu từ
Đấng Thánh mà có”, và việc xức dầu này “vẫn
còn” nơi họ (1Jn.2:20,27). Việc xức
dầu này kiến tạo nên một nguồn mạch hiểu
biết: “Anh em được xức dầu từ Đấng
Thánh và anh em có được mọi hiểu biết”
(1Jn.2:20), để “anh em không cần ai dạy bảo anh em
... mà việc xức dầu của Người dạy cho
anh em mọi sự” (1Jn.2:27). Như thế, lời Chúa Giêsu
hứa với các Tông Đồ đã được nên trọn:
“Các con sẽ nhận được quyền lực khi Thánh
Thần đến với các con và các con sẽ là những
chứng nhân của Thày” (Acts 1:8).
Nguồn mạch của kiến thức và hiểu
biết được tìm thấy nơi Thần Linh, cũng
như sức mạnh cần thiết để làm chứng
cho chân lý thần linh. Thần Linh còn là nguồn mạch
cho “cảm nhận đức tin” siêu nhiên, một cảm
nhận theo Công Đồng Chung Vaticanô II (Hiến Chế
Lumen Gentium, đoạn 12), là gia sản của Dân Thiên Chúa,
như Thánh Gioan viết: “Tất cả anh em đều có
kiến thức” (1Jn.2:20).
Biểu hiệu nước cũng thường được
thấy trong Cựu Ước. Mang một ý nghĩa rất
bao quát, nước biểu hiệu cho sự sống mà Thiên
Chúa nhưng không tràn ban xuống trên thiên nhiên cũng như
trên con người. Chúng ta đọc thấy điều
này nơi sách tiên tri Isaia: “Ta sẽ khai nguồn những con
sông trên các đỉnh cao hoang trống, cùng những suối
nguồn nơi các đồng bằng bát ngát; Ta sẽ biến
sa mạc trở thành ao hồ và đất khô thành các giòng
suối nước” (Is.41:18). Điều này ám chỉ về
đặc tính ban sự sống của nước. Vị
tiên tri gán biểu hiệu này cho Thần Linh Thiên Chúa, đặt
nước và Thần Linh Thiên Chúa trong một mối liên hệ
song phương khi tiên tri công bố thế này: “Ta sẽ đổ
nước xuống trên miền khao khát và những mạch
nước trên đất khô khan; Ta sẽ đổ Thần
Linh của Ta xuống trên giòng dõi các ngươi... chúng sẽ
vọt lên giữa đồng xanh mơn mởn, bên cạnh
những giòng nước tuôn trôi...” (Is.44:3-4). Đặc tính
ban sự sống của nước biểu hiệu cho đặc
tính ban sự sống của Thần Linh.
Chưa
hết, nước còn làm cho đất đai
khỏi bị hạn hán (x.1Kgs.18:41-45). Nước cũng
làm giãn cơn khát của con người lẫn con vật
(x.Is.43:20). Khát nước giống như khát khao Thiên Chúa,
như chúng ta đọc trong Thánh Vịnh: “Như nai mong tới
suối nguồn, hồn tôi cũng mong Chúa, ôi Thiên Chúa. Hồn con khát Thiên Chúa, Thiên Chúa hằng sống;
Bao giờ con mới được nhìn thấy Chúa nhãn tiền?”
(Ps.42:2-3; đoạn khác không kém phần rõ ràng là Thánh Vịnh
63:2).
Sau
hết, nước là biểu hiệu cho việc thanh tẩy,
như chúng ta đọc thấy trong sách tiên tri Ezekien: “Ta sẽ
vẩy nước sạch trên các ngươi để rửa
các ngươi khỏi mọi nhơ bẩn của mình, và để
các ngươi khỏi mọi ngẫu tượng của
mình Ta sẽ tẩy rửa các ngươi” (Ez.36:25). Vị
tiên tri này, trong một thị kiến rung cảm, cũng
loan báo một quyền năng ban sự sống của nước:
“Rồi tôi được mang trở lại cổng đền
thờ và tôi đã thấy nước chảy ra về hướng
đông từ bên dưới thềm cửa đền thờ...
Ngài nói cùng tôi: ‘Nước này chảy vào địa hạt
đông phương, đổ xuống trên Arabah, và biến
mất trong biển cả, những giòng nước mặn,
những giòng nước mà nó làm cho trong lành. Nước chảy
đến bất cứ nơi nào thì mọi sinh vật có
khả năng sinh sôi nẩy nở sẽ sống’...”
(Ez.47:1,8-9).
Trong
Tân Ước, quyền năng thanh tẩy và ban sự sống
của nước được dùng cho lễ nghi làm phép
rửa như đã được thực hiện bởi
Gioan, vị đã làm phép rửa thống hối ở sông Dược
Đăng (x.Jn.1:33). Thế nhưng, chính Chúa Giêsu là Đấng
đã cho biết nước là một biểu hiệu của
Chúa Thánh Thần, khi Người hô hào đám đông dân chúng
vào một ngày lễ: “Ai khát hãy đến với Tôi mà uống.
Ai tin Tôi thì như Thánh Kinh viết: ‘Những giòng sông chảy
nước hằng sống sẽ từ bên trong họ chảy
ra’”. Thánh ký còn chú giải rằng: “Người nói điều
này chỉ về Thần Linh mà những ai tin Người
phải lãnh nhận; dĩ nhiên là chưa có Thần Linh vì Chúa
Giêsu chưa được tôn vinh” (Jn.7:37-39).
Những lời này còn giải thích tất cả
những gì Chúa Giêsu đã nói cùng người phụ nữ
Samaritanô về nước hằng sống, nước mà
chính Người sẽ ban. Trong con người, nước
này trở nên “một mạch nước vọt lên sự
sống đời đời” (Jn.4:10,14).
Đó
là tất cả những diễn đạt cho chân lý Chúa Giêsu
mạc khải về Chúa Thánh Thần mà “nước hằng
sống” là biểu hiệu cho Ngài. Trong bí tích Rửa Tội,
biểu hiệu này được chuyển thành thực tại
được tái sinh trong Thánh Thần. Về điểm
này có nhiều đoạn Cựu Ước khác nhau cũng
hợp với nhau, như đoạn về nước mà
theo lệnh truyền của Thiên Chúa, Moisen làm chảy ra từ
tảng đá (x.Ex.17:5-7; Ps.78:16), và một đoạn khác về
mạch suối dành cho nhà Đavít để tẩy rửa
tội lỗi và các nhơ nhớp (x.Zech.13:1;14:8).
Đoạn nổi nhất trong các đoạn phải kể
đến những lời của Sách Khải Huyền về
những con sông chảy nước sự sống trong như
pha lê tuôn ra từ ngai Thiên Chúa và tòa Con Chiên. Giữa lòng công
trường của thành đô và hai bên bờ của giòng sông
có cây sự sống; lá của cây này giúp để chữa
lành các dân nước (x.Rev.22:1-2). Theo các nhà chú giải thánh
kinh, những giòng nước hằng sống và ban sự sống
này biểu hiệu cho Thần Linh, như thánh chính Gioan nói đến
một số lần trong Phúc Aâm của ngài
(x.Jn.4:10-14,7:37-38). Trong thị kiến này nơi
Sách Khải Huyền, người ta bắt gặp thấy
chính Chúa Ba Ngôi. Việc nói đến vấn đề
chữa lành cho các dân nước cũng đáng chú ý. Việc
chữa lành này là do lá của cây, một cây được
nuôi dưỡng bằng nước hằng sống và lành
mạnh của Thần Linh.
Nếu
dân Thiên Chúa “uống thứ nước linh thiêng này”, như
Thánh Phaolô viết, thì cũng giống như dân Yến Duyên
trong sa mạc, một thứ nước được lấy
“từ tảng đá là Chúa Kitô” (1Cor.10:1-4). Từ cạnh sườn
của Người bị đâm thâu trên thập giá “nước
và máu chảy ra” (Jn.19:34), như là một dấu hiệu
cho mục đích cứu độ nhờ cái chết của
Người, một cái chết mà Người chịu đựng
cho phần rỗi của thế gian. Kết qủa của
cái chết cứu độ này là tặng ân Thánh Linh, một
tặng ân Người đã ban một cách tràn lan cho Giáo Hội
của Người.
Đúng
thế, “những mạch nước hằng sống chảy
ra từ bên trong” mầu nhiệm vượt qua của Chúa
Kitô, trở nên nơi linh hồn con người “một mạch
nước vọt lên sự sống đời đời”
(Jn.4:14) như là một tặng ân bởi Chúa Thánh Thần.
Tặng ân này do Đấng Ban Phát mà có, Đấng rất
dễ nhận ra, theo những lời của Chúa Kitô cũng
như của các vị Tông Đồ của Người, đó
là Ngôi Ba trong Ba Ngôi.
(Bài
Giáo Lý thứ 55 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ
ngày Thứ Tư,
trong loạt 80 bài về chủ đề
Chúa Thánh Thần)