Bài 9
Thần Linh và Khôn
Ngoan
C |
ảm nghiệm những
lời tiên tri trong Cựu Ước đã cho thấy
mối liên lạc đặc biệt giữa lời Chúa và
thần linh. Vị tiên tri nói nhân danh Chúa và
bởi thần linh. Sách Thánh tự mình
cũng là lời Chúa bởi Thần Linh mà có, một ghi
nhận của thần linh qua các thế hệ.
Cuốn sách này là thánh do bởi thần linh, Đấng làm
cho nó mang lại hiệu năng nhờ lời phát biểu
cũng như lời ghi chép.
Ngay
cả nơi thành phần không phải là tiên tri, thần
linh cũng nhúng tay vào việc họ tuyên
phán lời Chúa. Cuốn Sách Ký Sử Thứ
Nhất kể lại rằng, những “kẻ anh dũng”
ý thức được lòng trung thành của mình đã tham
gia với Đavít. Sách viết rằng “thần linh
bao phủ Amasai, vị lãnh đạo của 30
(người anh dũng)” và đã khiến ông nói cùng Đavít
những lời này: “Chúng tôi thuộc về ngài... Bình an, an bình cho ngài, và bình an cho ai trợ giúp ngài;
Thiên Chúa của ngài chính là Đấng cứu giúp ngài”. Và “Đavít
đã tiếp nhận họ rồi cho họ làm thành
phần chỉ huy đạo quân của mình” (1Chr.12:19).
Một trường hợp khác còn hùng hồn hơn nữa
được Cuốn Ký Sử Thứ Hai kể lại,
trường hợp mà Chúa Giêsu đã nhắc đến
(x.Mt.23:35; Lk.11:51). Trường hợp này xẩy ra vào lúc
việc thờ phượng nơi đền thờ
đang xuống dốc và dân Yến Duyên đang chiều theo chước cám dỗ tôn thờ ngẫu
tượng. Bấy giờ các vị tiên tri
được Thiên Chúa sai đến với dân Yến
Duyên để dân này có thể trở về với Ngài
không chịu nghe theo các vị, thì “lúc ấy Thần Linh
Thiên Chúa chiếm cứ Zacharia, con của tư tế
Jehoiada, Vị này đứng trên dân mà nói cùng họ
rằng: ‘Thiên Chúa phán: Tại sao các ngươi đã
lỗi đến các mệnh lệnh của Chúa, một
việc lỗi lầm đã làm cho các ngươi không sao
triển phát được? Tại vì các
ngươi đã lìa bỏ Chúa nên Ngài đã bỏ mặc
các ngươi”. Thế nhưng, họ đã âm mưu
chống lại vị tiên tri, và theo
lệnh vua, họ đã ném đá giết chết vị này
trong nội cung đền thờ Chúa” (2Chr.24:20-21). Đấy là những trường hợp nói lên ý
nghĩa về mối liên hệ giữa thần linh và
lời Chúa, hiện diện nơi tâm tư và từ
vựng của dân Yến Duyên.
Còn một mối liên hệ khác tương tự
như thế, đó là mối liên hệ giữa thần
linh và đức khôn ngoan. Điều này
được thấy trong Sách Tiên Tri Daniel, trên cửa
miệng của vua Nebuchadneoãar. Trong việc kể
lại giấc mơ của mình và được Daniel
giải thích cho biết, vua đã nhận biết vị
tiên tri như “một người có thần linh của Thiên
Chúa thánh hảo” (Dan.4:5,x.4:6,15,5:11,14),
tức là có thần hứng, điều mà vua pharao vào
thời của mình cũng đã nhận thấy nơi
Giuse qua đức khôn ngoan huấn dụ của vị
tổ phụ này (x.Gn.41:38-39). Theo từ vựng dân
ngoại, vua Babylon lập đi lập lại “thần linh
của các thần thánh hảo”, tuy nhiên, trong phần
kết thúc, vua lại nói về “vua trời” ở số ít
(theo ngữ vựng và văn phạm). Dầu sao đi
nữa, vua đã công nhận rằng thần linh Thiên Chúa
tỏ hiện nơi Daniel, như chính vua Belshaoãar cũng
công nhận: “Ta đã nghe thấy rằng thần linh
của các thần thánh hảo ở nơi ngươi, do
đó, ngươi có được một kiến
thức tinh thông và một sự khôn ngoan phi thường”
(Dan.5:14). Rồi tác giả của cuốn sách nhấn
mạnh rằng “Daniel đã qua mặt tất cả
những vị giám sát mình cũng như những vị
thuộc quan, vì nơi Daniel có một thần linh siêu
việt, và nhà vua đã nghĩ đến việc ban cho
Daniel quyền bính trên toàn cõi vương quốc của vua”
(Dan.6:3).
“Sự khôn ngoan phi thường” và “thần linh
siêu việt” được gán cho Daniel rất đúng.
Nó chứng thực cho mối liên hệ giữa
hai tính chất này nơi Do Thái giáo ở thế kỷ
thứ hai trước công nguyên (lúc mà cuốn sách này
được viết ra), để nâng đỡ
đức tin và lòng cậy trông của những
người Do Thái bị Antiochus Epiphanes bắt bớ.
Theo
Sách Khôn Ngoan, một bản văn được tìm
hiểu gần như trọn vẹn trước
ngưỡng cửa của Tân Ước - tức là, theo
một số tác giả hiện đại, vào hạ bán
thế kỷ thứ nhất trước công nguyên và vào
giai đoạn Hellenistic - thì mối liên hệ giữa khôn
ngoan và thần linh được nhấn mạnh
đến nỗi cả hai hầu như trở thành đồng
nhất. Ngay đầu sách chúng ta đã đọc thấy
câu “khôn ngoan là một thần linh từ ái” (Wis.1:6). Thần linh từ ái này được hiện
tỏ và thông truyền nhờ sức mạnh của tình
yêu sâu xa đối với nhân loại. Thế
nhưng, thần linh từ ái này không mù quáng cũng không
chấp nhận sự dữ nơi con người, cho dù
là sự dữ ẩn kín đi nữa. “Khôn
ngoan không nhập vào một linh hồn mưu đồ gian
ác, cũng không ngự trong một xác thân nặng nợ
tội lỗi. Vì thánh thần của kỷ
cương tránh lánh giả tưởng và rút khỏi
những dẫn dụ mơ hồ... Khôn ngoan không dung
thứ kẻ dùng môi miệng nói lộng ngôn, vì Thiên Chúa
chứng giám thâm cung của họ, thấu suốt tâm can
của họ và nghe thấu lời lẽ của họ”
(Wis.1:4,6).
Thế
nên, thần linh Chúa là một thánh thần, đấng
muốn thông truyền sự thánh hảo của mình ra và thực
hiện phận sự giáo dục của mình: “Thánh thần
là đấng dạy dỗ” (Wis.1:5). Thần
linh chống lại bất công. Điều
này không làm hạn hẹp tình yêu của thần linh, mà là
một đòi hỏi của tình yêu này. Trong việc
chống lại sự dữ, thần linh chống lại
tất cả mọi khiếm khuyết, song không bao giờ
để mình bị lèo lái, vì không một sự gì có
thể thoát nổi thần linh, “ngay cả những lời
nói kín mật đi nữa” (Wis.1:11). Thần
linh “tràn lan hoàn vũ”; một thần linh toàn hiện
(omnipresent). “Và vì gồm tóm mọi sự, thần linh
biết điều con người nói” (Wis.1:7). Việc thần linh toàn hiện phát sinh một
sự hiểu biết về tất cả mọi sự
vật, kể cả những gì kín nhiệm nhất.
Là
một “thần linh từ ái”, thần linh không chỉ có ý
trông coi con người mà còn làm cho họ tràn đầy
tiếng nói và sự thánh thiện của Ngài. “Thiên Chúa không tạo nên sự chết, và Ngài
cũng không vui mừng nơi sự hủy diệt của
sinh vật. Vì Ngài hình thành mọi sự vật là để
cho chúng được sống...” (Wis.1:13-14). Điều
xác nhận tính chất tạo dựng tích cực này đã
phản ảnh ý niệm thánh kinh về Thiên Chúa như là “Đấng
hiện hữu” và là Đấng Tạo Thành toàn thể
vũ trụ (x.Gn.1:1ff). Điều xác nhận này còn
hiến một căn bản đạo lý cho quan niệm
về triết lý và cho cả luân lý về mối liên
hệ với các sự vật; hơn hết, nó gợi ý
cho một luận bàn về cùng đích của con
người, một luận bàn không triết lý nào có
thể khai triển mà không được mạc khải
thần linh hỗ trợ. Bởi thế, sau này Thánh Phaolô
mới nói rằng nếu sự chết có là do tội
lỗi của một người thì Đức Kitô,
như một Adong mới, đã đến để
cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và
giải thoát nhân loại khỏi sự chết (x.Rm.5:12-21).
Thánh Tông Đồ còn thêm là Đức Kitô mang lại
một sự sống mới trong Chúa Thánh Thần
(x.Rm.8:1ff), khi thánh nhân gọi tên, đúng hơn, cho biết
sứ mệnh của Ngôi Vị thần linh được
hàm chất mầu nhiệm nơi những trang Sách Khôn
Ngoan.
Vua
Solomon, người được coi như tác giả
của cuốn sách này qua cách kết cấu từ
chương khéo léo, vào một lúc kia, đã
nói với đồng liêu của mình rằng: “Oâi các vua, hãy
lắng nghe...” (Wis.6:1), bằng cách kêu mời họ
nhận lấy sự khôn ngoan là cái bí mật và là tiêu
chuẩn của lòng trung thành, và bằng việc cắt
nghĩa “khôn ngoan là gì...” (Wis.6:22). Vua đã chúc tụng
sự khôn ngoan qua một chuỗi dài về các đặc điểm
của thần linh mà vua gán cho sự khôn ngoan, hầu
như nhân cách hóa sự khôn ngoan này: “Thần linh ở
nơi nàng, tinh thông, thánh hảo, chuyên nhất, đa
diện ...” (Wis.7:22-23). Có 21 (3 lần 7)
phẩm chất được kể đến, bao
gồm những lời được trích một phần
từ triết lý Hy Lạp và một phần từ Thánh
Kinh. Sau đây là những phẩm chất quan trọng
nhất:
Thần
linh “tinh thông”, tức không phải là một thôi thúc mù quáng
mà là một động lực do nhận thức chân lý điều
khiển. Thần linh là một thần linh “thánh hảo”, vì
nó chẳng những muốn sáng soi con người mà còn làm
cho họ nên thánh hảo nữa. Thần linh
“chuyên nhất và đa diện”, để có thể
thấu nhập vào trong mọi sự. Thần
linh “tinh tế” và thấm nhập vào các thần trí. Bởi thế, hoạt động của
thần linh chính yếu là nội tâm, như chính sự
hiện diện của thần linh. Thần linh “toàn
năng và toàn kiến”, nhưng không tạo nên một
quyền lực bạo tàn và hủy diệt, vì thần linh
thì “từ ái và là bạn của nhân loại”, mong sự lành
cho họ và có thói quen làm họ “nên bạn hữu của
Thiên Chúa”. Tình yêu nâng đỡ và hướng
dẫn việc thực thi quyền năng của thần
linh.
Bởi
thế, khôn ngoan có những phẩm chất của thần
linh và thực thi những vai trò vốn được gán
cho thần linh: “thần linh khôn ngoan và thông biết... v.v.” (Is.11:2f), vì khôn ngoan với thần linh như là
một trong thẳm cung huyền nhiệm của thực
tại thần linh.
Trong
số những chức năng của Thần-Linh-Khôn-Ngoan
có một chức năng là làm cho ý muốn thần linh được
nhận biết: “Ai đã từng biết được ý
muốn của Chúa, trừ phi Chúa ban Khôn Ngoan cho và gửi
thánh linh của Chúa từ trời đến cho” (Wis.9:17).
Không được trợ giúp, con người không thể
nào biết được ý muốn của Thiên Chúa:
“Người nào biết được huấn dụ
của Thiên Chúa?” (Wis.9:13). Bằng thánh linh của mình, Thiên
Chúa đã tỏ ý muốn của Ngài ra, tỏ dự án
của Ngài ra cho cuộc sống con người, còn sâu xa và
vững chắc hơn là việc ban bố luật lệ
thành văn theo ngôn ngữ loài người. Tác động
từ bên trong qua tặng ân của Chúa
Thánh Linh, Thiên Chúa khiến cho “những lề lối
của những ai sống trên trái đất được
ngay thẳng; và con người biết được điều
làm hài lòng Chúa để nhờ khôn ngoan mà được
cứu” (Wis.9:18). Đến đây, tác giả Sách Khôn Ngoan đã
dùng 10 chương để trình thuật công việc
của Thần-Linh-Khôn-Ngoan đã thực hiện nơi
lịch sử, từ Adong cho tới Moisen, tới việc
thiết lập giao ước với dân Yến Duyên,
tới việc giải phóng, được biểu lộ
qua việc liên tục chăm sóc cho dân của Thiên Chúa.
Rồi tác giả kết luận: “Oâi Chúa, bằng mọi
cách, Chúa đã làm cho dân Chúa lớn mạnh và vinh quang; Chúa
không thôi đứng kề bên họ mọi lúc và mọi
nơi...” (Wis.19:22).
Trong
phần tường thuật văn chương khôn ngoan
theo lịch sử này có một đoạn văn nói về
Chúa mà tác giả đã nhắc tới thần linh toàn
hiện của Thiên Chúa, một thần linh yêu thương
và bảo bọc cuộc sống con người. Điều
này cũng bao gồm cả các địch thù của dân
Thiên Chúa, nói chung, bao gồm cả thành
phần vô đạo, thành phần tội nhân. Nơi
cả những người này nữa, cũng có thánh linh
yêu thương và sự sống: “Chúa dung tha cho tất
cả mọi sự, vì chúng là của Chúa, Oâi Chúa, tình quân
của các linh hồn, vì thần linh bất diệt của
Chúa ở trong tất cả mọi vật” (Wis.11:26,12:1).
“Chúa dung tha...” những địch thù của dân
Yến Duyên, thành phần có thể đã bị trừng
phạt còn khủng khiếp hơn là nó đã thực
sự xẩy ra. Họ có thể đã bị “văng
đi bởi thần linh mãnh lực của Chúa, nhưng
Chúa đã xếp đặt mọi sự theo
tầm vóc, vật số và trọng lượng” (Wis.11:20).
Sách Khôn Ngoan chúc tụng “nét hài hòa” của Thiên Chúa dựa
vào lý do sau đây: thần linh của Thiên Chúa không chỉ
tác hành như một luồng gió mạnh, có thể hủy
diệt tội lỗi, mà là như một thần linh khôn
ngoan mong muốn sự sống để tỏ bày tình yêu
của mình ra. “Thế nhưng Chúa đã xót thương
tất cả, vì Chúa có thể làm được mọi
sự; Chúa bỏ qua tội lỗi con người để
họ ăn năn thống hối. Vì Chúa yêu thương tất cả mọi sự
hiện hữu và không ghê tởm sự gì Chúa đã tạo
nên; nếu Chúa ghét bỏ Chúa đã không tạo thành. Mà
một vật tồn tại thế nào được
nếu Chúa không ưng muốn; hay được bảo
trì nếu nó không được Chúa truyền khiến”
(Wis.11:23-25).
Chúng ta tiến đến tột đỉnh
của triết lý đạo đức không những
của dân Yến Duyên mà của tất cả các
người xưa nữa. Ở đây, truyền
thống thánh kinh, như được trình bày nơi sách
Khởi Nguyên, đã giải đáp được những
vấn nạn lớn vốn nan giải, kể cả
văn hóa Hy Lạp (từ thế kỷ thứ 4 tới 1
BC) cũng chịu. Ở đây, tình
thương của Thiên Chúa đã liên kết với sự
thật về việc Ngài tạo dựng nên tất cả
mọi sự. Tính cách phổ quát của
việc tạo dựng hàm chứa tính cách phổ quát
của tình thương. Và tất cả đều
bị chi phối bởi quyền lực của tình yêu
vĩnh hằng Thiên Chúa yêu thương tất cả
mọi tạo vật của Ngài: một tình yêu mà giờ đây
chúng ta nhận thấy được nơi ngôi vị
của Chúa Thánh Thần.
Sách
Khôn Ngoan đã giúp chúng ta nhận thấy Thần-Linh-Tình-Yêu
mà, như Khôn Ngoan, mặc lấy các phẩm chất
của một ngôi vị, với những đặc tính
sau đây: một thần linh biết hết mọi sự
và tỏ cho con người biết những dự định
của Thiên Chúa; một thần linh không thể chấp
nhận sự dữ; một thần linh mà, qua môi giới
của khôn ngoan, muốn đưa tất cả tới
ơn cứu rỗi; một thần linh yêu thương
mong muốn sự sống; một thần linh làm vũ
trụ tràn đầy sự hiện diện hồng phúc
của mình.
(Bài
Giáo Lý thứ 33 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia
sẻ ngày Thứ Tư,
trong loạt 80 bài về chủ đề
Chúa Thánh Thần)