x

  

VỊ GIÁO HOÀNG VỀ

MỘT ÂU CHÂU HIỆP NHẤT

 

  

 

Một Âu Châu Cổ - Với Chủ Nghĩa Minh Tri Duy Tâm

 

Sau đây là những nhận định của Vị Giáo Hoàng của Biến Cố Đông Âu về một Âu Châu cổ, cần phải trở thành một tân Âu Châu, như niềm ước mơ của ngài được bày tỏ hôm 24/3/2004 (xem trang 129), những nhận định cần phải được chung thế giới và riêng các nhà lãnh đạo Âu Châu lưu tâm, nhất là cần phải được vị thừa nhiệm của ngài chú ý.

 

Sau đây là nhận định của ngài về Tây Âu chứ không phải chung thế giới, khi ngài phân tích tình hình giữa Đồng Âu và Tây Âu. Tuy nhiên, vì Tây Âu, cũng được gọi là Tây Phương và đồng nghĩa với Tây Phương, căn cứ vào văn minh của nó, một nền văn minh đã bắt nguồn từ nó và lan tràn khắp thế giới cũng từ nó, một Tây Phương bao gồm cả Bắc Mỹ bởi khuynh hướng văn hóa hầu như đồng nhất của nó, có thể biểu hiệu cho nhân loại nói chung, đang ở vào một tình trạng suy thoái khủng khiếp về luân thường đạo lý và khủng hoảng trầm trọng về văn hóa, như được ngài diễn tả trong Chương 9, về “Những Bài Học của Lịch Sử Vừa Qua”, ấn bản Anh ngữ, trang 46-48:

 

·        Dĩ nhiên là sai lầm khi nói quá lời về yếu tố chia đôi ở một Âu Châu được phân ra thành Đông Âu và Tây Âu. Những xứ sở Tây Âu có một truyền thống Kitô giáo lâu đời hơn…. Ở Tây Âu, Giáo Hội được phúc có vô số các vị thánh…. Chính ở đó đã xuất hiện các Summae Theologiae, đệ nhất vị là Thánh Tôma Aquinas; ở đó là nơi hình thành các truyền thống linh đạo Kitô giáo tuyệt đỉnh…. Ở đó xuất phát các đại dòng tu đan sĩ…. Cũng ở đó có cả những dòng tu hành khất xứng danh…. Nỗ lực truyền giáo lớn lao của Giáo Hội bắt nguồn chính yếu từ Tây Âu…. Chúa Kitô bao giờ cũng là ‘tảng đá nền’ cho việc xây dựng và tái thiết xã hội ở Tây Phương Kitô giáo.

 

Tuy nhiên, chúng ta đồng thời cũng không thể bỏ qua việc liên lỉ tái diễn tình trạng chối bỏ Chúa Kitô. Chúng ta cứ gặp đi gặp lại những dấu hiệu của một thứ văn minh thay thế cho thứ văn minh xây trên ‘tảng đá nền’ là Chúa Kitô – một thứ văn minh, cho dù không hoàn toàn là vô thần, ít ra cũng có tính cách duy nghiệm thức (positivistic) và bất khả thần tri (agnostic), vì nó được xây dựng trên nguyên tắc suy tưởng và tác hành như thể không có Thiên Chúa. Đường lối này có thể dễ thấy được nơi thứ khoa học được gọi là tân tiến, hay đúng hơn nơi tâm thức khoa học, và có thể được nhận ra nơi cả văn chương, đặc biệt là nơi truyền thông đại chúng. Sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu nghĩa là sống vượt ra ngoài các giới hạn về thiện ác, ngoài liên hệ với các thứ giá trị xuất phát từ Thiên Chúa. Nó cho rằng con người tự mình có thể quyết định những gì là tốt hay xấu. Và chiều hướng chủ trương này được phát động rộng rãi bằng tất cả mọi kiểu cách.

 

Nếu, một mặt, Tây Phương tiếp tục cho thấy chứng cớ về việc nhiệt tình truyền bá phúc âm hóa, thì mặt khác, những trào lưu phản phúc âm cũng mãnh liệt không kém. Những trào lưu này tấn công vào chính các nền tảng về luân lý của con người, gây ảnh hưởng đến đời sống gia đình và cổ võ một quan niệm luân lý bi quan yếm thế: ly dị, tự do luyến ái, phá thai, ngừa thai, chiến đấu chống lại sự sống ở những giai đoạn khai sinh cũng như ở vào giai đoạn lâm tử, mạo dụng sự sống. Chiều hướng hoạt động này được ủng hộ bởi những nguồn tài trợ khổng lồ, chẳng những ở trong các xứ sở mà còn trên tầm cấp quốc tế nữa. Nó có những trung tâm lớn về quyền lực kinh tế trong tay, nhờ đó, nó cố gắng áp đặt những điều kiện của mình trên các quốc gia đang phát triển. Trước tất cả những sự kiện ấy người có lý để đặt vấn đề là đây có phải là hình thức khác của một thứ chủ nghĩa độc tài chuyên chế được che đậy một cách tinh khéo dưới những dạng thức dân chủ hay chăng”.

 

Cuộc khủng hoảng về luân lý của con người (văn minh Tây Phương) ở vào đầu thiên kỷ thứ ba Kitô giáo này đã trở nên vô cùng thảm khốc và cực kỳ nguy vong, như được cảm nhận bởi vị giáo hoàng tác giả cuốn “Hồi Niệm và Căn Tính”, một tác phẩm như một lời vừa di chúc vừa kêu gọi ngài muốn gửi tới thế giới rằng: “Thật vậy, chính nhờ hồi niệm mà cảm quan của chúng ta về căn tính được hình thành và hiện tỏ nơi tâm trí con người” (ấn bản Anh ngữ, đoạn cuối cùng Chương 23: “Về Lại Với Âu Châu”).

 

Thật vậy, những gì vị giáo hoàng này đã nhận định về loài người liên quan đến “những hủy hoại lớn lao”, “những tàn phá vĩ đại” từ năm 1978, trước khi ngài vĩnh viễn ra đi, đã biến thành một hiện tượng diễn tiến như cuộc biển động sóng thần Nam Á xẩy ra vào ngày 26/12/2004, một thiên tai đã kinh hoàng tàn sát trên 200 ngàn người cách đột ngột trong một thời gian rất ngắn. Ngài viết trong tác phẩm cuối cùng của mình, “Hồi Niệm và Căn Tính”, ở Chương 2 về “Những Ý Hệ của Sự Dữ”, ấn bản Anh ngữ, trang 11, như sau:

 

·        Đến đây, chúng ta không thể câm lặng trước vấn đề ngày nay trở nên thảm khốc hơn bao giờ hết. Cuộc sụp đổ của các chế độ được xây dựng trên các ý hệ sự dữ (biệt chú của người dịch: theo tác giả nhận định ở phần trước đó là ‘ý hệ Xã Hội Quốc Gia’ ở Đức theo nguyên lý duy chủng tộc, và ‘ý hệ Mát Xít’ Cộng sản đặc biệt ở Nga) đã đi đến chỗ chấm dứt những hình thức diệt chủng vừa được đề cập tới ở những xứ sở liên hệ (biệt chú của người dịch: được tác giả liệt kê là ‘diệt chủng Do Thái, cùng các nhóm khác như nhân dân Romania, thành phần dân quê xứ Ukraine, và hàng giáo sĩ Chính Thống lẫn Công Giáo ở Nga, ở Belarus và ở bên ngoài rặng núi Urals’). Tuy nhiên, vẫn còn có một cuộc diệt chủng về pháp lý đối với những con người đang được cưu mang nhưng chưa vào đời. Trong trường hợp này, cuộc diệt chủng ấy được ban bố bởi những thứ quốc hội được chọn bầu theo dân chủ (biệt chú của người dịch: ở đây vị tác giả muốn nhấn mạnh đến tính cách khác biệt giữa những chế độ chuyên chế độc tài sắt máu trong thế kỷ 20 với thể chế được gọi là tự do dân chủ nhân quyền), những thứ quốc hội nhân danh quan niệm tiến bộ về dân sự cho xã hội và cho toàn thể nhân loại. Chúng ta cũng không thể thinh lặng trước những vi phạm trầm trọng khác đến việc làm hụt hẫng đi lề luật của Thiên Chúa. Tôi đang nghĩ tới, chẳng hạn, áp lực mãnh liệt của Quốc Hội Âu Châu trong việc nhìn nhận các cuộc hợp hôn đồng tính như là một loại gia đình khác, có quyền nhận con nuôi. Thật là hợp lý, thậm chí cần phải đặt vấn đề rằng không phải hay sao đó là công cuộc của một thứ ý hệ sự dữ khác, có lẽ còn tinh xảo và kín đáo hơn, có ý muốn khai thác chính nhân quyền để chống lại con người và đời sống gia đình”.

 

Qua những nhận định của Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trên đây, kể cả trong Thông Điệp “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” ngày 4/3/1979, lẫn trong tác phẩm “Hồi Niệm và Căn Tính” vào thời điểm 22/2/2005, thì thế giới đã sống trong “một thời điểm của mối đe dọa đối với con người bằng nhiều hình thức… của những hủy hoại lớn lao đối với con người, của những tàn phá vĩ đại, chẳng những về vật chất mà còn cả về luân lý, thực sự là thế, có lẽ trên hết là về mặt luân lý”. Cũng chính vì “những tàn phá vĩ đại trên hết là về mặt luân lý” như thế mà thế giới hiện nay (hơn bao giờ hết) đã tiến đến một cuộc “diệt chủng về pháp lý”, được thực hiện bởi một thứ chủ nghĩa độc tài chuyên chế được che đậy một cách tinh khéo dưới những dạng thức dân chủ”.

 

Tại sao lại xẩy ra một hiện tượng ngược đời như thế, ở chỗ, chính lúc con người văn minh không còn ăn lông ở lỗ, lại là lúc con người sống theo luật rừng “jungle law” mạnh được yếu thua hơn bao giờ hết: nhân danh tự do để phạm đến nhân quyền và luân lý (như phá thai và hôn nhân đồng tính), nhân danh tiến bộ khoa học hay nhân đạo để tàn sát sự sống (như tạo sinh sao bản phôi bào con người và triệt sinh an tử), thậm chí nhân danh Thiên Chúa để khủng bố tấn công tiệu diệt đồng loại v.v.?

 

Lịch sử đã hiển nhiên cho thấy, cuộc khủng hoảng này cùng với những ý hệ sự dữ của nó đều xuất phát từ chung Tây Phương (kể cả Bắc Mỹ) và riêng Âu Châu (cách riêng Tây Âu), một châu lục chẳng những mở màn cho ý thức triết học (từ Hy Lạp trước Công Nguyên) mà còn cho cả văn minh vật chất (khoa học và kỹ thuật) lẫn văn minh nhân bản (nhân phẩm và nhân quyền), một châu lục có thể gọi là thế giới Kitô giáo và theo văn minh Kitô giáo, một châu lục chẳng những đã truyền bá văn minh vật chất và nhân bản khắp thế giới mà cả Kitô giáo nữa. Thế mà, trong thế kỷ 20 cũng là thế kỷ kết thúc hai ngàn năm Kitô giáo của họ, hai Thế Chiến chính yếu đã xẩy ra ở châu lục này, và hai chủ nghĩa độc tài sắt máu Nazi và Cộng Sản cũng được bắt nguồn từ châu lục này, để rồi, cho đến nay, châu lục ấy, trong nội bộ, đang bị phá sản văn hóa và đức tin hơn bao giờ hết, và đang cần phải được cấp thời tái truyền bá phúc âm hóa.

 

Tại sao thế? Phải chăng vì Kitô giáo là căn gốc chung của châu lục này không có khả năng cứu độ, không có tác dụng gì vào thời điểm con người văn minh? Hay vì châu lục văn mình này đã hoàn toàn chối bỏ căn tính Kitô giáo của mình, (như bản dự thảo của Khối Hiệp Nhất Âu Châu cho thấy), mà nó đã chẳng những đi đến chỗ mất gốc mà còn đang bị bật gốc nữa? (xin xem cùng một tác giả, “Giới Trẻ Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, Cao-Bùi 1996, trang 10-11; “Ý Thức Kitô Giáo”, Cao-Bùi 1998, trang 3-5; “Ánh Sáng Thế Gian”, Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam Tại Hoa Kỳ, 2000, trang 7-8):

 

·        “Như thế, hiện tượng thụt lùi của đạo (về luân thường tín lý) trước đà lấn át của đời (về tiện nghi vật chất) không phải là một bằng cớ phủ nhận chính đáng và hiển nhiên nhất bản chất chân thật và thiện hảo đích thực của Kitô Giáo sao??

 

“Ngược lại, cũng có thể đặt vấn đề như thế này, sở dĩ lịch sử, ở vào thế kỷ 20 nói chung và hậu bán thế kỷ này nói riêng, đang thoi thóp như hấp hối chết trong mùa đông ‘văn hóa tử vong’ (‘culture of death’ - thành ngữ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II) như thế, chính là vì con người đã lìa bỏ văn hóa Kitô Giáo, một văn hóa đã làm nên ‘văn minh yêu thương’ (‘civilization of love’ - thành ngữ của Đức Thánh Cha Phaolô VI) cho cả 20 thế kỷ qua”.

 

Theo Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, sở dĩ Âu Châu (và từ Âu Châu lan đến toàn thế giới) đã đi đến thảm trạng này là vì châu lục này đã phủ nhận căn tính Kitô giáo của mình, phủ nhận Ơn Cứu Chuộc, bằng việc chấp nhận và sống theo ý hệ duy nhân bản sai lầm về con người, một ý hệ phát xuất từ Thời Minh Tri hay Chủ Nghĩa Minh Tri (Enlightenment) chủ trương duy lý, một thời đã bị ảnh hưởng bởi cuộc cách mạng triết học trước đó của một triết gia người Pháp là Đệ-Cách (Descartes).

 

Đúng thế, trong tác phẩm “Hồi Niệm và Căn Tính” 2005, (Chương 2 về “Những Ý Hệ của Sự Dữ”, trang 7-12), vị giáo hoàng từng dạy triết lý ở Balan đã viết :

 

·        Qua năm tháng, tôi càng ngày càng thâm tín rằng các thứ ý hệ sự dữ được cắm rễ sâu trong lịch sử tư tưởng triết học Âu Châu. Ở đây tôi cần phải đề cập tới một số khía cạnh của lịch sử Âu Châu, nhất là các xu hướng văn hóa chủ chốt của nó. Khi bức thông điệp về Chúa Thánh Thần được ban hành (biệt chú của người dịch: bức thông điệp được ngài ký ngày 18/5/1986), đã xẩy ra một số phản ứng tiêu cực từ một số thành phần ở Tây Phương. Cái gì đã thúc động nên những phản ứng ấy? Chúng xuất phát từ cùng nguồn mạch được gọi là chủ nghĩa Minh Tri Âu Châu trên hai thế kỷ trước đó, nhất là Minh Tri Pháp quốc, mặc dù không nói đến các kiểu Minh Tri khác như Anh, Đức, Tây Ban Nha và Ý. Chủ nghĩa Minh Tri ở Balan theo đường lối riêng của mình. Tuy nhiên, Nga hoàn toàn thoát khỏi cuộc đột biến Minh Tri này. Ở Nga, cuộc khủng hoảng của truyền thống Kitô giáo xuất phát từ một hướng khác, được bùng lên vào đầu thế kỷ 20 một cách mãnh liệt hơn nữa nơi hình thức của cuộc cách mạng Mạt-Dệp (Maxism) vô thần cực đoan.

 

Để hiểu rõ hơn về hiện tượng này, chúng ta cần phải trở về với giai đoạn trước Thời Minh Tri, nhất là với cuộc cách mạng gây ra bởi tư tưởng triết lý của Đệ-Cách (Descartes). Câu cogito, ergo sum (tôi nghĩ nên tôi là) là những gì đã làm biến đổi tận gốc rễ đường lối thể hiện triết học. Vào giai đoạn trước triết gia Đệ-Cách (Descartes) thì triết lý, vấn đề phải nói là cogito (nghĩ tưởng) hay nói cách khác là cognosco (ý nghĩ), yếu tố thấp hơn yếu tố esse (yếu tính) là yếu tố được coi là phải có trước yếu tố ý nghĩ. Thế nhưng, đối với triết gia Đệ Cách (Descartes), yếu tính lại là những gì thứ yếu, và ông cho cogito (nghĩ tưởng) là tiền hữu. Điều này chẳng những làm thay đổi chiều hướng triết lý hóa mà còn đánh dấu một cuộc dứt khoát loại trừ những gì triết lý vẫn có cho tới bấy giờ, nhất là triết lý của Thánh Tôn Anh Quí Lan (Tôma Aquinas) được gọi là triết lý về esse (yếu tính). Trước đó, mọi sự đều được giải thích theo quan điểm yếu tính và việc giải thích mọi sự đều được căn cứ vào quan điểm này. Thiên Chúa, một Hữu Thể Toàn Mãn (Ens subsistens) được tin là căn nguyên thiết yếu của hết mọi ens non subsistens, ens participatum, tức là của tất cả mọi vật được tạo thành, bao gồm cả con người. Câu cogito, ergo sum đã đánh dấu một cuộc thoát ly từ chính giới tuyến suy nghĩ ấy. Giờ đây ens cogitans (vật nghĩ tưởng) đã chiếm phần ưu thế. Sau triết gia Đệ Cách (Descartes), triết lý trở thành một khoa học thuần nghĩ tưởng: tất cả esse (yếu tính) – nơi cả thế giới tạo sinh lẫn Hóa Công – đều ở trong phạm vi của cogito (nghĩ tưởng), như những gì được chất chứa nơi tâm thức con người. Triết học bấy giờ tự cho mình là các hữu thể ‘qua’ (như) nội dung của tâm thức, chứ không phải các hữu thể ‘qua’ (như) những gì hiện hữu tách biệt khỏi nó.

 

“… Những diễn tiến về triết lý xẩy ra ở Tây Âu sau Thời Minh Tri. Trong các điều được nói tới, người ta nói về vấn đề ‘suy thoái của chủ nghĩa thực thể Tôma’, và vấn đề này được hiểu là bao gồm cả việc loại bỏ đi Kitô giáo là một thứ nguồn mạch cho việc triết lý hóa. Đặc biệt là ngay cả vấn đề có thể đạt tới Thiên Chúa cũng được xét lại. Theo lý lẽ của cogito, ergo sum thì Thiên Chúa trở thành một yếu tố trong tâm thức của con người; Ngài không còn được coi là ý nghĩa tối hậu cho cái ‘sum’ (cái ‘là’) của con người nữa. Ngài cũng chẳng còn là Ens subsistens hay ‘Hữu Thể Toàn Mãn’ nữa, không còn là Đấng Hóa Công, là Đấng làm cho mọi sự hiện hữu, tệ nhất là Ngài không còn là Đấng ban mình nơi mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Cứu Chuộc và mầu nhiệm ân sủng nữa. Vị Thiên Chúa của Mạc Khải không còn hiện hữu như ‘Thiên Chúa của các triết gia’ nữa. Tất cả những gì còn lại chỉ là vấn đề ý tưởng về Thiên Chúa mà thôi, một vấn đề tùy tâm tưởng con người khám phá.

 

Như thế, các nền tảng về ‘triết lý sự dữ’ cũng bị sụp đổ theo. Sự dữ, theo ý nghĩa thực thể thì nó chỉ hiện hữu trong tương quan với sự thiện, nhất là với Thiên Chúa, Sự Thiện tối cao. Đó là sự dữ được Sách Khởi Nguyên nói tới. Chính từ quan điểm này mới có thể hiểu được nguyên tội, cũng thế, mới có thể hiểu được tất cả mọi  tội lỗi của cá nhân con người. Sự dữ này đã được Chúa Kitô cứu chuộc trên Thập Tự Giá. Nói một cách chính xác thì con người được cứu chuộc và thông phần vào sự sống của Thiên Chúa nhờ việc cứu độ của Chúa Kitô. Tất cả những điều ấy, toàn thể thảm kịch của lịch sử cứu độ ấy đã biến mất đối với chủ nghĩa Minh Tri. Chỉ còn lại một mình con người mà thôi: một mình con người đóng vai như là một tay làm nên lịch sử của họ cùng với văn minh của họ; một mình con người đóng vai như là một kẻ quyết định điều thiện sự ác, như là một kẻ muốn hiện hữu và tác hành như thể không có Thiên Chúa - etsi Deus non daretur.

 

Nếu con người có thể tự mình quyết định, không cần Thiên Chúa, những gì là thiện và những gì là ác, thì họ cũng có thể quyết định hủy diệt cả một nhóm người. Những quyết định kiểu ấy đã được thực hiện, chẳng hạn, bởi những kẻ cầm quyền Third Reich (biệt chú của người dịch: tức Chế Độ Nazi ở Đức 1933-1945, sau hai đế quốc trước đó là Đế Quốc Đức 1871-1918 và Đế Quốc Rôma Thánh 962-1806) bằng đường lối dân chủ, trong việc chỉ lạm dụng quyền bính của mình để thực hiện những dự án gian ác của ý hệ Xã Hội Quốc Gia theo các nguyên tắc duy chủng tộc. Những quyết định tương tự cũng được thực hiện bởi đảng Cộng sản ở Nga Sô cũng như ở các xứ sở khác theo ý hệ Mạt-Dệp (Marxism). Đó là cái lý lẽ giành để diệt chủng người Do Thái, cùng các nhóm khác như nhân dân Romania, thành phần dân quê xứ Ukraine, và hàng giáo sĩ Chính Thống lẫn Công Giáo ở Nga, ở Belarus và cả ở bên ngoài rặng núi Urals (biệt chú của người dịch: một rặng núi ở Nga thường được coi là lằn biên phân chia ranh giới giữa Âu Châu và Á Châu). Cũng thế, tất cả những ai ‘không thuận lợi’ cho chế độ đều bị bách hại; chẳng hạn, thành phần không còn là chiến binh Tháng Chín 1939, những người lính thuộc Quân Đội Quốc Gia ở Balan sau Thế Chiến Thứ Hai, và những người thuộc thành phần trí thức không chấp nhận ý hệ Mạt-Dệp (Marxism) hay Nã-Diệt (Nazi). Bình thường cuộc bách hại này là việc bị loại trừ về thể lý, nhưng đôi khi bị loại trừ về luân lý nữa, ở chỗ, con người không nhiều thì ít bị cấm đoán hành sử các quyền lợi của mình…”

 

Trong tác phẩm “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của mình được xuất bản vào năm 1994 (ở chương ‘What Has Become of The ‘History of Salvation’, ấn bản Anh ngữ, trang 50-53), vị giáo hoàng triết gia nhân bản Kitô giáo Gioan Phaolô II còn cho thấy căn nguyên của cuộc khủng hoảng văn hóa, của tình trạng phá sản đạo nghĩa ở riêng Tây Phương và chung thế giới hiện đại, để rồi từ đó, ngài đã mở đường máu cho con người như sau:

 

·        Tại sao tất những điều ấy xẩy ra? Căn nguyên của những ý hệ hậu Chủ Nghĩa Minh Tri này là gì? Câu trả lời dễ thôi, ở chỗ: nó xẩy ra là vì việc phủ nhận Thiên Chúa qua (như) Vị Hóa Công, từ đó phủ nhận Ngài qua (như) nguồn mạch quyết định lành dữ. Nó xẩy ra là vì việc phủ nhận những gì tối hậu tạo nên chúng ta là con người, tức là loại trừ quan niệm bản tính con người là một ‘thực tại được ban tặng’; vị trí của quan niệm này đã bị thay thế bằng một ‘sản phẩm tư tưởng’ được tư do hình thành và tự do khả hoán theo hoàn cảnh. Tôi tin rằng nếu tìm hiểu kỹ lưỡng hơn nữa về vấn đề này chúng ta có thể vượt ra ngoài biên giới Đệ-Cách (Descartes) nữa. Nếu chúng ta muốn nói một cách hợp tình hợp lý về thiện ác, chúng ta cần phải trở về với Thánh Tôn Anh Quí Lan (Tôma Aquinas), tức là trở về với loại triết lý hiện thể. Chẳng hạn, với phương pháp hiện tượng học, chúng ta có thể học hỏi những kinh nghiệm về luân lý, tôn giáo, hay đơn giản như việc làm người ra sao, để nhờ những kinh nghiệm ấy kiến thức của chúng ta càng thêm phong phú. Tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng, tất cả những phân tích này đã mặc nhiên nhận thức thực tại về Hữu Thể Tối Cao cũng như thực tại về con người là một tạo sinh. Nếu chúng ta không bắt đầu từ những nhận thức theo ‘chủ nghĩa thực thể’ ấy chúng ta sẽ đi đến chỗ trống rỗng mà thôi”.

 

 

Một Tân Âu Châu - Với Căn Gốc Kitô Giáo

 

Đó là lý do, trong mùa hè năm 2003, tại nhà nghỉ mát của mình, ĐTC Gioan Phaolô II đã ban các bài huấn từ truyền tin Chúa Nhật liên quan đến căn gốc Kitô giáo ở Âu Châu, một vấn đề Ngài muốn dẫn giải thêm về Tông Huấn “Giáo Hội Tại Âu Châu” là văn kiện mới được Ngài ban bố trước đó ít lâu, 28/6/2003, áp lễ hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.

 

Chúa Nhật 13/7, Ngài đã nói về một hiện trạng Âu Châu cần phải được bắt đầu lại từ Chúa Kitô:

 

·        Trong giây phút lịch sử này, trong giây phút tiến trình quan trọng của vấn đề tái hiệp nhất Âu Châu đang diễn tiến qua việc nới rộng Khối Hiệp Nhất Âu Châu đến các quốc gia khác, Giáo Hội ưu ái nhìn đến lục địa này. Cùng với nhiều thứ sáng sủa cũng có một số những bóng tối. Tình trạng mất đi ký ức Kitô giáo được đi liền với nỗi lo sợ phải đối diện với tương lai. Tình trạng lan tràn khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa cùng với việc càng ngày càng suy yếu tình đoàn kết liên cá thể, và tình trạng mất đi niềm hy vọng gây ra bởi nỗ lực muốn làm cho khoa nhân loại học phi Thiên Chúa và Chúa Kitô. Ngược đời thay, cái nôi nhân quyền đang có nguy cơ mất đi nền tảng của mình, một thứ nền tảng đang bị hao mòn bởi trào lưu tương đối và chủ nghĩa thực dụng”.

 

Chúa Nhật 20/7, Ngài đã nói về việc xây dưng một thứ tân Âu Châu Kitô giáo:

 

·        Kitô giáo tạo nên, trong giòng lịch sử phức tạp của Châu Lục này, một yếu tố chính yếu và hình thành là những gì đã dần dần làm cho Âu Châu liên kết lại trên nền tảng của cái gia sản cổ kính ấy, cũng như trên những đóng góp khác nhau bởi những giòng văn hóa chủng tộc qua các thế kỷ. Có thể nói rằng đức tin Kitô giáo đã hình thành văn hóa Âu Châu, làm cho lịch sử Âu Châu trở thành một toàn khối, và bất chấp tình trạng chia rẽ Đông Tây, Kitô giáo vẫn trở thành ‘tôn giáo của nhân dân Âu Châu’. Ảnh hưởng của Kitô giáo vẫn còn nổi nang trong kỷ nguyên tân tiến và đương thời này, cho dù có xẩy ra hiện tượng tục hóa tràn lan và mạnh mẽ. Giáo Hội biết rằng mối quan tâm của mình về Âu Châu được phát xuất từ chính sứ vụ của mình. Là một kho tàng Phúc Âm, Giáo Hội đã phát động cổ võ những giá trị làm cho văn hóa Âu Châu được thế giới cảm phục. Gia sản này không thể nào bị phá tán. Ngược lại, một thứ tân Âu Châu cần phải được giúp đỡ ‘để xây dựng bản thân bằng việc tái sinh động những căn gốc Kitô giáo nguyên thủy của mình”.

 

Chúa Nhật 27/7, Ngài đã nói về việc tân truyền bá phúc âm hóa Âu Châu:

 

·        Giáo Hội được Chúa Kitô truyền loan báo Phúc Âm cho đến tận cùng trái đất… Các cộng đồng Giáo Hội Âu Châu đặc biệt được kêu gọi để thi hành công việc này. Đúng thế, ở lục địa đây, tất cả mọi tín hữu cần phải biết lấy lại lòng nhiệt thành loan báo và làm chứng cho Phúc Âm… Mặc dù có một số miền và lãnh vực đang đợi chờ để lãnh nhận việc loán báo Phúc Âm lần đầu tiên, việc loan báo này cũng cần phải được làm mới lại ở khắp nơi nữa. Kiến thức Kitô giáo thường được nhận lãnh một cách nhưng không, song thực tế cho thấy việc đọc hay học hỏi Thánh Kinh lại rất ít, việc học giáo lý không phải bao giờ cũng kỹ lưỡng, và việc lãnh nhận các Phép Bí Tích không thường xuyên. Bởi thế mà đức tin chân chính được thay thế bằng một cảm thức tôn giáo mơ hồ và sơ sài có thể trở thành một thứ bất khả tri hay vô thần thực tiễn. Âu Châu ngày nay cần có mặt của những người Công giáo chín chắn đức tin cũng như cần đến những cộng đồng Kitô hũu truyền giáo có thể làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với toàn thể nhân loại. Việc loan báo được làm mới lại về Chúa Kitô này cần phải được kèm theo bằng một mối hiệp nhất và hiệp thông sâu xa với Giáo Hội, cũng như bằng một cuộc dấn thân và đối thoại đại kết với tin đồ của các tôn giáo khác”.

 

Chúa Nhật 3/8, Ngài đã nói về việc giữ Ngày Chúa Nhật ở Âu Châu:

 

·        Âu Châu là một lục địa, trong hai ngàn năm qua, đã được ghi dấu Kitô giáo hơn bất cứ ở lục địa nào khác. Lời chúc tụng, từ hết mọi miền đất của lục địa này, nơi các đan viện, các vương cung thánh đường và các thánh đường của nó, vẫn không ngớt được dâng lên Chúa Kitô, Vị Chúa của thời gian và lịch sử. Bí Tích Rửa Tội và các Bí Tích khác đã thánh hóa các mùa sống của vô vàn tín hữu. Bí Tích Thánh Thể, nhất là vào Ngày Chúa Nhật, đã nuôi dưỡng đức tin và đức mến của họ; Phụng Vụ Giờ Kinh cùng với nhiều hình thức cầu nguyện phổ thông khác đã đánh dấu nhịp sống thường nhật của họ ... Ngày này là biểu hiệu trên hết cho tất cả những gì Kitô giáo đã và vẫn còn đại diện cho, ở Âu Châu cũng như ở khắp nơi trên thế giới, đó là việc trường kỳ loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Giêsu, việc cử hành Người chiến thắng tội lỗi và sự chết, việc dấn thân để hoàn toàn giải phóng loài người. Việc duy trì ý nghĩa Ngày Chúa Nhật của Kitô giáo là một đóng góp đáng kể cho Âu Châu trong việc bảo tồn một phần thiết yếu của gia sản thiêng liêng và văn hóa riêng biệt của lục địa này”.

 

Chúa Nhật 10/8, Ngài nói về dịch vụ yêu thương cần thiết ở Âu Châu:

 

·        Phục vụ Phúc Âm hy vọng cũng là sứ vụ của Giáo Hội ở Âu Châu. Giáo Hội thi hành sứ vụ này, song song với việc loan báo hy vọng bằng những hoạt động bác ái cụ thể. Đó là những gì đã xẩy ra qua các thế kỷ, ở chỗ nhiệm vụ truyền bá phúc âm hóa được hỗ trợ bằng việc phát triển nhân bản một cách hiệu năng. Khi dấn thân phục vụ bác ái, Giáo Hội đã và đang nuôi dưỡng thứ văn hóa đoàn kết, bằng việc hợp tác tái ban sinh lực cho các giá trị phổ quát của việc nhân loại cùng nhau chung sống (cf. apostolic exhortation "Ecclesia in Europa," No. 84). Kể cả ngày hôm nay đây cũng cần phải ‘cống hiến lại cho thành phần nghèo khổ niềm hy vọng’, để nhờ việc đón nhận và phục vụ họ là đón nhận và phục vụ chính Chúa Kitô (x Mt 25:40). Về vấn đề này các tín hữu Âu Châu đang phải đương đầu với nhiều thách đố. Ngày nay có nhiều loại người nghèo, trong số đó là thành phần thất nghiệp, bệnh tật, những người già yếu bị cô lập hay bỏ rơi, thành phần vô gia cư, thành phần giới trẻ sáng bên lề xã hội, thành phần di dân và tị nạn. Dịch vụ yêu thương còn có nghĩa là trung thực đặt lại vấn đề sự thật về hôn nhân và gia đình, là giáo dục thành phần giới trẻ, những cặp đính hôn và chính các gia đình trong việc sống và loan truyền ‘Phúc Âm sự sống’, chiến đấu chống lại ‘văn hóa sự chết’. Chỉ khi nào hết mọi người biết cộng tác với nhau mới có thể xây dựng một ‘thành đô xứng đáng cho con người’ ở Âu Châu cũng như trên thế giới, và một trật tự thế giới chân chính và bền vững hơn”.

 

Chúa Nhật 17/8, Ngài nói đến tính cách mới mẻ nơi một Âu Châu bị khủng hoảng về các giá trị:

 

·        Hôm kia là lễ trọng kính Trinh Nữ Maria Mông Triệu, phụng vụ đã kêu gọi chúng ta hãy ngước mắt và trời để chiêm ngưỡng Mẹ Maria ở tân Giêrusalem, Thành Thánh từ Thiên Chúa mà đến (x Rev 21:2). ‘Này Ta canh tân lại hết mọi sự’ (Rev 21:5), Chúa phán. Trong Sách Khải Huyền, Phục Âm hy vọng đã mãnh liệt vang vọng, một thù phúc âm thôi thúc con người lãnh nhận “cái mới mẻ của Thiên Chúa”, một tặng ân cánh chung vượt trên hết mọi khả năng của con người, và là một phúc âm con người có thể thực hiện. “Cái mới mẻ” này sẽ được nên trọn vào ngày cùng tháng tận, thế nhưng nó cũng đang hiện diện ngay trong lịch sử. Thật vậy, cả cho đến lúc này, nhờ Giáo Hội, Thiên Chúa đang canh tân và biến đổi thế giới, và những ý tưởng về hành động của Ngài cũng có thể được nhận thấy ‘nơi hết mọi hình thức của việc loài người sống chung theo tinh thần Phúc Âm’ (apostolic exhortation "Ecclesia in Europa," No. 107). Lục địa Âu Châu, một lục địa qua hai ngàn năm “đã nghe Phúc Âm Nước Trời được Chúa Giêsu loan báo” (ibid.107), không thể nào không hiểu ‘cái mới mẻ’ này. Đức tin Kitô giáo đã ban cho cái mới mẻ ấy hình thể, và một số những giá trị cốt yếu của cái mới mẻ ấy về sau đã làm nên ‘lý tưởng về dân chủ và các thứ nhân quyền’ của một thứ Âu Châu tân tiến. Ngoài việc là ‘một nơi về địa dư’, Âu Châu còn là ‘một quan niệm chủ chốt về văn hóa và lịch sử’, có đặc tính là một Lục Địa làm nên bởi lực lượng hiệp nhất Kitô giáo, một lực lượng đã từng là yếu tố căn bản của mối hiệp nhất giữa các dân tộc và văn hóa, cũng như của việc phát triển toàn vẹn con người cùng với các thứ quyền lợi của họ (x ibid. 108). Không thể chối cãi được rằng, trong những thời điểm của chúng ta đây, Âu Châu đang bị khủng hoảng về các thứ giá trị, và nó cần phải phục hồi căn tính của mình. Tiến trình mở rộng của Khối Hiệp Nhất Âu Châu bao gồm các xứ sở khác không thể chỉ liên quan tới các khía cạnh về địa dư và kinh tế, mà còn phải được chuyển dịch thành một hợp đồng mới mẻ của các thứ giá trị thể hiện nơi luật pháp và đời sống (see ibid., No. 110)”.

 

Chúa Nhật 24/8, Ngài nói đến vai trò quyết liệt của các cơ cấu ở Âu Châu:

 

·        Một lần nữa tôi lại nghĩ đến tiến trình hiện tại của việc hội nhập Âu Châu, nhất là đến vai trò quyết liệt của các cơ cấu Âu Châu. Trước hết tôi nghĩ đến Khối Hiệp Nhất Âu Châu là khối dấn thân để tìm kiếm những hình thức mới mẻ của sự cởi mở, giao ngộ và hợp tác nơi các quốc gia phần tử của khối này. Ngoài ra, tôi nghĩ đến Hội Đồng Âu Châu có trung tâm ở Strasbourg cũng như đến Pháp Viện Âu Châu Về Các Thứ Quyền Lợi Con Người là cơ quan thi hành công việc cao quí kiến tạo nên một Âu Châu tự do, công lý và đoàn kết. Sau hết, tôi cũng phải nhắc đến Tổ Chức về An Ninh và Hợp Tác ở Âu Châu là tổ chức dấn thân cổ võ lý tưởng tự do cho con người cũng như cho các quốc gia thuộc lục địa này. Cùng với lời cầu nguyện, tôi theo dõi mức tiến triển trăn trở của bản hiệp ước về hiến pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu này, một bản hiệp ước hiện nay đang được chính quyền thuộc các quốc gia khác nhau tìm hiểu... Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo tin tưởng rằng Phúc Âm của Chúa Kitô, một Phúc Âm đã từng là một yếu tố hiệp nhất các dân tộc Âu Châu trong nhiều thế kỷ, tiếp tục là, kể cả ngày hôm nay đây, một nguồn mạch bất tận về linh đạo cũng như huynh đệ. Việc tỏ ra chú trọng đến nguồn mạch này là việc làm ích cho tất cả mọi người, và việc nhìn nhận một cách minh nhiên nơi bản hiệp ước các căn tính Kitô giáo của Âu Châu, đối với châu lục này, sẽ trở thành một thứ bảo đảm chính yếu cho tương lai”.

 

Chúa Nhật 31/8, Ngài hiến dâng Âu Châu cho Mẹ Maria:

 

·        "Trong các Chúa Nhật vừa qua, việc suy tư của Tôi nhắm đến Âu Châu và các căn gốc Kitô giáo của châu lục này, khi xem lại bản văn kiện tông huấn hậu Thượng Hội Giám Mục Âu Châu ‘Giáo Hội Tại Âu Châu’. Bản văn kiện này đã kết thúc ở việc ‘Hiến Dâng cho Mẹ Maria’ tất cả mọi con người nam nữ của châu lục đây, một việc hiến dâng Tôi muốn lập lại ngày hôm nay đây, để Vị Thánh Trinh Nữ làm cho Âu Châu trở thành một bản hợp tấu các quốc gia dấn thân cùng nhau xây dựng một nền văn minh yêu thương và hòa bình. Có vô vàn các đền thờ Thánh Mẫu ở hết mọi xứ sở Âu Châu. Hôm nay Tôi đặc biệt nghĩ đến Đền Đức Mẹ Khóc ở Syracuse, nơi đang cử hành 50 năm Mẹ Maria khóc… Những giọt nước mắt này mầu nhiệm biết bao! Chúng nói lên cho thấy nỗi khổ đau và dịu dàng, đến niềm an ủi và tình thương thần linh. Chúng là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện từ mẫu, và là một lời kêu gọi hoán cải trở về cùng Thiên Chúa, từ bỏ con đường gian ác để trung thành theo Chúa Giêsu Kitô. Hỡi Đức Mẹ Giọt Châu ngọt ngào, chúng con dâng cho Mẹ Giáo Hội và toàn thế giới. Xin Mẹ hãy nhìn đến những ai cần đến ơn tha thứ và sự hòa giải nhất; Mẹ hãy mang hợp hòa đến cho các gia đình và mang bình an đến cho các dân tộc. Xin hãy lau khô nước mắt gây ra bởi hận thù và bạo lực ở nhiều miền đất trên Thế Giới này, nhất là ở Trung Đông và lục địa Phi Châu. Ôi Lạy Mẹ, chớ gì những giọt nước mắt của Mẹ là một bảo chứng cho việc hoán cải và hòa bình cho tất cả mọi con cái của Mẹ! "

 

Đúng thế, Âu Châu thực sự là mối quan tâm đặc biệt của Đức Gioan Phaolô II. Vì Âu Châu, một châu lục Kitô giáo, trực tiếp liên quan đến lịch sử, văn minh và vận mệnh thế giới, chẳng những trong quá khứ, mà còn cả trong tương lai nữa. Vào dịp nhận Giải Thưởng Charlemagne của Thành Phố Aachen ở Vatican hôm 24/3/2004, ngài đã công khai bày tỏ “ước mơ” của ngài về một tân Âu Châu như sau:

 

·        Âu Châu trong tâm trí của tôi là một hiệp nhất về chính trị, thực sự là về tinh thần, trong đó, các chính trị gia Kitô hữu thuộc tất cả mọi quốc gia tác hành với ý thức về những kho tàng nhân bản do đức tin mang lại: họ là những con người nam nữ dấn thân để làm cho những giá trị này sinh hoa kết trái, khi hiến mình phục vụ tất cả mọi người cho một Âu Châu được đặt nền tảng trên con người là tạo vật chiếu tỏa dung nhan Thiên Chúa. Đó là ước mơ tôi ấp ủ trong lòng mình và nhân dịp này tôi xin ký thác cho quí vị cũng như cho các thế hệ hậu lai

 

Thế nhưng, làm sao để Âu Châu thân yêu của vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II này có thể trở về với căn tính của mình, như ngài mong ước, một ước mong như được tỏ hiện qua những tâm tưởng suốt mùa hè 2003 trên đây, để nó không trở thành dang dở, nếu Thiên Chúa, một lần nữa, không nhúng tay vào, như Ngài đã làm cho Nước Nga trở lại ngày 25/12/1991, theo chiều hướng của biến cố Đông Âu Sụp Đổ. Thế nhưng, lần này Đấng Quan Phòng Thần Linh sẽ làm thế nào đây, nếu không phải Ngài cũng dùng chính Vị Giáo Hoàng của “Vui Mừng và Hy Vọng” Gioan Phaolô II này, vị Giáo Hoàng đã được Ngài sử dụng để làm cho Đông Âu sụp đổ để dọn đường cho một Âu Châu hiệp nhất.

 

Đúng thế, chính biến cố Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tại Cologne Đức quốc 16-21/8/2005 là dấu chỉ thời đại cho thấy điều này. Bởi vì, biến cố Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX đã là cơ hội để vị Giáo Hoàng Đức Quốc, kế nhiệm vị Giáo Hoàng khởi xướng Ngày Giới Trẻ Thế Giới từ năm 1985, về thăm quê hương lần đầu tiên. Nếu chuyến về thăm quê hương Balan lần đầu tiên của Đức Gioan Phaolô II 6/1978 là chuyến đi làm lịch sử thế nào, một chuyến đi đã mang lại thành quả 10 năm sau thế nào, chuyến tông du Đức quốc của vị Tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI cũng có thể có một tác dụng như thế. Nếu Công Đoàn Balan là một lực lượng được “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” của Đức Gioan Phaolô II sử dụng làm sụp đổ Cộng sản Đông Âu thế nào, thì Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới ở Đức quốc, một khối hiệp thông các giáo hội với 140 giáo hội viên ở 78 quốc gia, cũng có thể trở thành một lực lượng để làm cho khối Cải Cách hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo thì sao? Chính Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới này đã ký vào bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa vào ngày 30/10/1999 ở Augsburg, Đức quốc. Hiện nay, Hội Đồng Methodist Thế Giới cũng đang sửa soạn chính thức khẳng định việc họ ủng hộ bản tuyên ngôn này bằng một hoạt động chính thức được dự trù xẩy ra vào mùa hè năm 2006 ở Seoul, Nam Hàn. Và chỉ cho tới khi nào Kitô giáo hiệp nhất ở Âu Châu, tức trở về với căn gốc Kitô giáo của mình, thì Âu Châu mới có thể đi đến chỗ hiệp nhất mà thôi.

Chính vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI, trong sứ điệp đề ngày 27/10/2005 gửi Đức Hồng Y Jean-Louis Tauran, Trưởng Văn Khố và Thủ Thư Viện của Hội Thánh Công Giáo Rôma, vị đến Nhã Điển cho biến cố “Menologion of Basil II”, cũng đã nói lên ý định ngài chủ trương thực hiện việc đại kết Kitô giáo để hiệp nhất Âu Châu cho tương lai thế giới như sau:

 

·        Chúng ta có thể mạnh mẽ hơn nữa để giúp cho các quốc gia Âu Châu tái xác nhận được căn gốc Kitô giáo của họ để một lần nữa họ tìm được nhựa sống dưỡng nuôi và làm phong phú chính tương lai họ cho thiện ích của con người và toàn thể xã hội”.

 

Chưa hết, trong Diễn Từ ngỏ cùng Ủy Ban Hội Nghị Đại Kết ngày 25/1/2006, ngày kết thúc Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo, Vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI còn nhấn mạnh hơn nữa như sau:

 

·        Ở một Âu Châu đang trên đường tiến đến mối hiệp nhất về chính trị, chúng ta có thể chấp nhận hay chăng Giáo Hội của Chúa Kitô là yếu tố gây ra tình trạng bất nhất và bất hợp? Phải chăng đó là một trong những gương mù lớn nhất của thời đại chúng ta đây?

 

Ưu tiên đích thực đối với Âu Châu đó là việc tái cương quyết dấn thân để ánh sáng của Chúa Kitô được sáng tỏ và chiếu soi những bước đường của lục địa Âu Châu vào lúc mở màn cho tân thiên niên kỷ này. Tôi hy vọng rằng mỗi đoạn đường của cuộc hành trình này đều được chiếu soi bởi ánh sáng này của Chúa Kitô, và Hội Nghị Đại Kết Âu Châu sẽ góp phần vào việc làm cho thành phần Kitô hữu thuộc các quốc gia của chúng ta ý thức hơn nữa về nhiệm vụ của họ trong việc làm chứng cho đức tin nơi môi trường văn hóa hiện nay là môi trường thường có những đặc tính của tương đối chủ nghĩa và tình trạng khô đạo.

 

Để cho tiến trình hiệp nhất đang diễn tiến được thành quả, Âu Châu cần phải tái nhận thức căn gốc của mình, bằng cách giành chỗ cho các thứ giá trị đạo lý là những gì thuộc về gia sản thiêng liêng phong phú và vững chắc của nó. Tuy nhiên, việc chúng ta hiện diện với tư cách là thành phần Kitô hữu sẽ là những gì quyết liệt và rạng ngời chỉ  khi nào chúng ta can đảm cương quyết tiến trên con đường hòa giải và hiệp nhất. Sau khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ cần phải liên kết để giải quyết những thách đố hiện tại, bắt đầu với thách đố nơi tính cách tân tiến và tục hóa”.

 

Nếu quả thực, vào năm 2017, năm kỷ niệm 500 năm biến cố Cải Cách của ông tổ Thệ Phản Luthêrô, cũng là năm kỷ niệm 100 năm Biến Cố Thánh Mẫu Fatima (liên quan tới biến cố Đông Âu sụp đổ và Nước Nga trở lại), trở thành thời điểm đánh dấu cuộc hiệp nhất Kitô giáo, thì quả thực biến cố Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tại Cologne Đức quốc và chuyến tông du hồi hương lịch sử của vị Tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI là mốc điểm lịch sử này vậy! Thế mà, ai có thể ngờ được rằng, 8 năm trước đây, biến cố Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tại Đức quốc 2005 đã được chính Đức Gioan Phaolô II vô hình chung sắp xếp trước cho vị thừa kế không ngờ lại là chính người Đức của ngài hay chăng? Trong cuộc họp báo tại tổng hành dinh Đài Phát Thanh Vatican ngày Thứ Ba 5/7/2005, ĐHY Joachim Meisner TGM Cologne, nơi tổ chức biến cố này xác nhận rằng “Cologne đã làm việc cả 8 năm trời cho biến cố này”, thậm chí ngài còn tiết lộ một chi tiết hết sức quan trọng về lịch sử là ngài đã gặp Đức Gioan Phaolô II vào Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Paris năm 1997 và đã được vị Giáo Hoàng này tâm sự như sau:

 

·        Đức Giáo Hoàng đã nói với tôi rằng ngài cảm thấy một trong những Ngày Giới Trẻ Thế Giới đầu tiên trong ngàn năm mới cần phải được tổ chức ở Cologne, vì thế kỷ vừa qua Đức quốc đã chứng kiến thấy một số những thảm họa kinh hoàng cho nhân loại, và giờ đây nước này cần phải chứng kiến thấy một dấu hiệu hy vọng cả thể

 

Nếu Âu Châu Cổ ngày xưa đã là cái nôi Kitô giáo, và đã là tác nhân hăng say loan truyền văn minh Kitô giáo khắp thế giới, nhờ đó đã góp phần với Thánh Linh trong việc “canh tân bộ mặt trái đất” này cả trên ngàn năm qua thế nào, thì Âu Châu, tân tiến thời trang đang giẫy chết trong nền văn hóa sự chết ngày nay, một khi phục hồi được căn tính Kitô giáo của mình, qua cuộc hiệp nhất các Giáo Hội Kitô Giáo, đặc biệt từ Âu Châu và ở Âu Châu, cũng sẽ tiếp tục trở thành Trung Tâm Văn Minh Yêu Thương như vậy, một nền văn minh được chiếu tỏa từ một thành bất khuất xây trên núi (x Mt 5:14) là Giáo Hội Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền, “ánh sáng muôn dân” (Lumen Gentium), nơi mà tại Giáo Đô Vatican đã vang lên tiếng súng lệnh vào ngày 13/5/1981, và cũng từ nơi đây đã vang lên lời kêu gọi “Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô” vào ngày 22/10/1978, để mở màn cho Thời Điểm Vị Giáo Hoàng của Biến Cố Đông Âu!

 

Vào dịp nhận Giải Thưởng Charlemagne của Thành Phố Aachen ở Vatican hôm 24/3/2004, ngài đã công khai bày tỏ “ước mơ” của ngài về một tân Âu Châu như sau:

 

·        Âu Châu trong tâm trí của tôi là một hiệp nhất về chính trị, thực sự là về tinh thần, trong đó, các chính trị gia Kitô hữu thuộc tất cả mọi quốc gia tác hành với ý thức về những kho tàng nhân bản do đức tin mang lại: họ là những con người nam nữ dấn thân để làm cho những giá trị này sinh hoa kết trái, khi hiến mình phục vụ tất cả mọi người cho một Âu Châu được đặt nền tảng trên con người là tạo vật chiếu tỏa dung nhan Thiên Chúa. Đó là ước mơ tôi ấp ủ trong lòng mình và nhân dịp này tôi xin ký thác cho quí vị cũng như cho các thế hệ hậu lai”.

 

Phải, sứ mệnh của vị Giáo Hoàng đến từ một xứ sở xa xôi Balan thuộc Đông Âu đây, theo nhiệm ý tối cao của Đấng Quan Phòng Thần Linh thì ngài được sai đến để mở đường, bằng một Biến Cố Đông Âu. Biến cố này rất quan trọng, đến nỗi, sẽ không có một Âu Châu Hiệp Nhất nếu Bức Tường Bá Linh là biểu tượng cho tình trạng phân rẽ Âu Châu thành Đông Tây không sụp đổ trước đã. Mà nếu sức loài người không ai có thể làm cho Bức Tường Bá Linh này sụp xuống được, cho dù thế giới Tư Bản có hùng mạnh đến đâu chăng nữa, thì một khi nó thực sự đã bị phá đổ bởi một quyền lực thần linh làm chủ lịch sử (qua con người Đức Gioan Phaolô II), thì vấn đề hiệp nhất Âu Châu cũng không còn bao xa nhưng cũng chỉ xẩy ra bằng quyền lực thần linh mà thôi, vì tự loài người dù muốn cũng đành bó tay, như lịch sử hiện đai đang cho thấy.

 

Và để làm cho Âu Châu Hiệp Nhất, Đấng Quan Phòng Thần Linh chẳng những đã sử dụng Đức Gioan Phaolô II để làm cho Âu Châu thoát được Bức Tường Bálinh tiêu biểu cho tình trạng ngăn cách Đông Tây về chính trị và kinh tế, Ngài còn dùng chính Vị Giáo Hoàng này để giúp cho Âu Châu về nguồn, qua tác phẩm cuối cùng của ngài về luân lý thời đại, đó là cuốn “Hồi Niệm Và Căn Tính”, một tác phẩm ngài để lại cho chung nhân loại và cho riêng Âu Châu (vì cuốn sách này hầu như liên quan trực tiếp đến Âu Châu) như lời di chúc là Âu Châu hãy Hồi Niệm về những kinh nghiệm lịch sử bi thương của mình, nhất là những kinh nghiệm về sự dữ đã gây ra cho loài người, (kể cả cho chính bản thân ngài vào ngày 13/5/1981, như được ngài nhắc lại ở phần phụ trương cuối sách), là hai Cuộc Thế Chiến và hai Chủ Nghĩa trong Thế Kỷ 20, để lấy lại Căn Tính của mình, nhờ đó xây dựng tương lai thế giới.

Var7_16.jpg