v

  

MỘT GIÁO TRIỀU

BA CHỦ HƯỚNG

 

 

 

Ba Chủ Hướng:

Công Đồng Chung Vaticanô II, Đại Kết và Hòa Bình

 

Sứ Điệp đầu tiên của Giáo Hoàng Biển Đức XVI gửi Hồng Y Đoàn

 

“Đặc biệt trước mặt của tôi là chứng từ của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài để lại cho chúng ta một Giáo Hội cường tráng hơn, tư do hơn và trẻ trung hơn. Một Giáo Hội mà, theo giáo huấn và gương mẫu của ngài, bình tâm nhìn lại quá khứ và không sợ hướng đến tương lai. Qua Đại Năm Thánh 2000, Giáo Hội đã được dẫn vào ngàn năm mới, nắm trong tay Phúc Âm, Phúc Âm được áp dụng cho thế giới qua việc đọc lại một cách tường tận Công Đồng Chung Vaticanô II. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có lý để nhấn mạnh rằng Công Đồng này như là một ‘la bàn’ được sử dụng để chúng ta lèo lái trên đại dương bao la của ngàn năm thứ ba. Trong di chúc thư thiêng liêng của mình, ngài còn nhận định là: ‘Tôi tin rằng, cho đến một thời gian rất dài, các thế hệ mới sẽ kín múc lấy từ kho tàng được công đồng của thế kỷ 20 ấy để cống hiến cho chúng ta’…….

 

Cả tôi nữa, để bắt đầu việc phục vụ xứng hợp với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, cũng muốn mạnh mẽ xác định ý muốn cương quyết của tôi trong việc theo đuổi cuộc dấn thân thực hiện Công Đồng Chung Vaticanô II, theo các vị tiền nhiệm của tôi và trung thành tiếp nối truyền thống hai ngàn năm của Giáo Hội. Năm nay chính là năm kỷ niệm 40 năm bế mạc công đồng này (8/12/1965). Qua giòng thời gian, các văn kiện của công đồng đã không mất đi tính cách hợp thời của mình; giáo huấn của các văn kiện ấy vẫn cho thấy đặc biệt thích hợp với các nhu cầu cấp bách mới của Giáo Hội cũng như với xã hội đang được toàn cầu hóa hiện nay”.

 

“Giáo triều của tôi, một cách hết sức ý nghĩa, được mở màn vào lúc Giáo Hội đang sống một năm đặc biệt giành cho Thánh Thể. Làm sao tôi lại không thấy được cái trùng hợp được quan phòng này một yếu tố cần phải đánh dấu thừa tác vụ tôi đã được kêu gọi thi hành đây? Thánh Thể, tâm điểm của đời sống Kitô hữu và là nguồn mạch của sứ vụ truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội, chắc chắn bao giờ cũng phải là tâm điểm và là nguồn mạch cho sứ vụ thừa kế Thánh Phêrô đã được trao phó cho tôi.

 

“Thánh Thể làm cho Chúa Kitô Phục Sinh liên lỉ hiện diện, một Chúa Kitô là Đấng tiếp tục hiến Mình cho chúng ta, kêu gọi chúng ta hãy tham dự vào bàn tiệc Mình Máu của Người. Từ mối hiệp thông trọn vẹn này với Người mới xuất phát ra hết mọi yếu tố khác của đời sống Giáo Hội, trước hết là mối hiệp thông giữa tín hữu, việc dấn thân loan truyền và làm chứng cho Phúc Âm, nhiệt tình bác ái đối với tất cả mọi người, nhất là với thành phần nghèo khổ và hèn mọn nhất……..

 

“Được nuôi dưỡng và bảo trì bởi Thánh Thể, người Công giáo chắc chắn cảm thấy được thôi thúc hướng đến mối hiệp nhất như Chúa Kitô mong muốn ở Nhà Tiệc Ly. Vị Thừa Kế Thánh Phêrô biết rằng mình cần phải đặc biệt nhận lấy ước muốn tối hậu này của Vị Thày Thần Linh. Nhiệm vụ kiên cường anh em của mình thật sự đã được trao phó cho ngài.


“Bởi vậy, bằng tất cả ý thức và vào lúc mở đầu cho thừa tác vụ của mình ở Giáo Hội Rôma là nơi Thánh Phêrô đã tắm máu, vị Thừa Kế này lãnh nhận, như là quyết tâm chính yếu của mình, quyết tâm không ngừng hoạt động hướng đến việc tái thiết mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình của tất cả mọi thành phần môn đệ của Chúa Kitô. Đó là tham vọng của ngài, đó là nhiệm vụ bó buộc của ngài. Ngài biết rằng, để làm điều này, những bày tỏ về cảm tình thiện cảm mà thôi chưa đủ. Cần phải có những cử chỉ cụ thể để thấm nhập các tâm hồn và đánh động lương tâm, phấn khích mọi người tiến đến chỗ hoán cải nội tâm là điều căn bản cho tất cả mọi thứ tiến bộ trên con đường đại kết.

 

“Những cuộc đối thoại về thần học là những gì cần phải có. Cũng không thể châm chước bỏ qua việc khảo sát kỹ lưỡng những nguyên do lịch sử đã gây ra những việc quyết định trong quá khứ. Thế nhưng, khẩn thiết hơn thế nữa là việc ‘thanh tẩy ký ức’, một việc đã thường được Đức Gioan Phaolô gợi lên, và là một việc duy nhất có thể sửa soạn cho các tâm hồn đón nhận tất cả sự thật của Chúa Kitô. Chính vì trước nhan Người là Vị Thẩm Phán tối cao của tất cả mọi sinh vật, mà mỗi một người trong chúng ta cần phải trả lẽ, với ý thức là một ngày kia chúng ta cần phải cắt nghĩa cho Người về những gì chúng ta đã làm và những gì chúng ta không làm cho thiện ích cao cả là mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình nơi tất cả thành phần môn đệ của Người.


“Vị Thừa Kế Thánh Phêrô đây tự cảm thấy chính mình liên quan đến vấn đề này và sẵn sàng làm tất cả những gì trong khả năng của mình để cổ võ lợi ích chính yếu cho việc đại kết. Theo những vị tiền nhiệm của mình, ngài nhất định quyết tâm nâng đỡ bất cứ sáng kiến nào có vẻ thích hợp với việc đẩy mạnh việc giao tiếp và thỏa hiệp với những vị đại diện thuộc các Giáo Hội khác và các cộng đồng giáo hội khác. Thật thế, nhân cơ hội này đây, ngài xin gửi đến họ lời chàop thân ái nhất của ngài trong Chúa Kitô, Vị Chúa duy nhất của tất cả mọi người”.

 

“Giáo Hội ngày nay cần phải làm sống lại nơi bản thân mình một thứ nhận thức về công việc trình bày cho thế giới một lần nữa bằng tiếng nói của Đấng đã phán: ‘Tôi là ánh sáng thế gian; ai theo Tôi sẽ không bước đi trong tăm tối, song sẽ được ánh sáng sự sống’. Trong việc đảm nhận thừa tác vụ của mình, vị tân Giáo Hoàng này biết rằng công việc của ngài là làm cho ánh sáng của Chúa Kitô chiếu tỏa trước con người nam nữ ngày nay, không phải là ánh sáng của ngài mà là của Chúa Kitô.

 

“Ý thức như thế, bản thân tôi xin ngỏ cùng mọi người, kể cả những ai theo các tôn giáo khác hay những ai chỉ muốn tìm kiếm một câu giải đáp cho những câu hỏi căn bản về đời sống mà chưa tìm ra. Tôi xin chân thành cảm mến ngỏ cùng hết mọi người, xin hứa cùng họ rằng Giáo Hội muốn tiếp tục phát triển một cuộc đối thoại cởi mở chân tình với họ, trong việc tìm cầu sự thiện hảo đích thực của nhân loại và của xã hội.


Tôi kêu cầu Thiên Chúa ban hiệp nhất và bình an cho gia đình nhân loại và xin tuyên bố việc tất cả mọi người Công giáo sẵn lòng cộng tác thực hiện việc phát triển xã hội thực sự, một phát triển tôn trọng phẩm vị của tất cả mọi người.

“Tôi sẽ làm hết sức mình và dấn thân theo đuổi việc đối thoại đầy hứa hẹn được những vị tiền nhiệm của tôi khởi sự với những nền văn minh khác nhau, vì nếu có hiểu biết nhau mới tạo điều kiện cho một tương lai tốt đẹp hơn cho hết mọi người”.

 

 

1)         ÁP DỤNG CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICANÔ II

Những điều cần phải làm là gì?

 

Diễn Từ Tất Niên với Giáo Triều Rôma ngày Thứ Năm 22/12/2005

 

“Biến cố cuối cùng của năm nay tôi muốn chia sẻ ở đây đó là việc cử hành mừng kỷ niệm 40 năm bế mạc Công Đồng Chung Vaticanô II trước đây. Việc tưởng nhớ này gợi lên vấn đề: Đấu là kết quả của Công Đồng này? Công Đồng có được tiếp nhận cách tốt đẹp hay chăng? Trong việc chấp nhận Công Đồng thì đâu là những điều tốt và đâu là những điều không thích đáng hay lầm lẫn? Những điều cần phải làm là gì? Không ai có thể phủ nhận rằng ở những miền rộng lớn của Giáo Hội việc áp dụng Cộng Đồng này đã gặp phải khó khăn một cách nào đó, thậm chí không thể nào không áp dụng cho những gì xẩy ra cho những năm này lời diễn tả được Thánh Basiliô, vị đại Tiến Sĩ của Giáo Hội, đã nói về tình hình Giáo Hội sau Công Đồng Chung Nicêa: ngài đã so sánh tình hình Giáo Hội với một trận hải chiến trong tăm tối bão bùng như thế này trong số những điều khác: ‘Tiếng kêu la khàn khàn của những ai bởi bất đồng đã nổi lên chống lại nhau, của thành phần huyên thuyên khó hiểu, của thành phần lầm lẫn mà cứ ầm ĩ lên tiếng day dứt la hò, giờ đây tràn đầy hầu như khắp cả Giáo Hội, làm sai lệch đi vì thái quá và không hiểu được giáo huấn xác thực của đức tin…’ (De Spiritu Sancto, XXX, 77; PG 32, 213 A; SCh 17 ff., p. 524).

 

“Chúng ta không muốn áp dụng một cách chính xác lời diễn tả thê thảm ấy vào tình hình hậu công đồng chung lần này, tuy nhiên, vẫn có một cái gì đó trong tất cả những điều ấy cho thấy là đã xẩy ra như vậy. Vấn đề được đặt ra ở đây là Tại sao vấn đề áp dụng Công Đồng này lại quá khó khăn như thế ở những lãnh vực rộng lớn của Giáo Hội?”

 

Không Giải Thích Công Đồng theo chiều hướng bất liên tục và chia lìa

 

“Thật ra tất cả đều lệ thuộc vào việc giải thích đúng đắn Công Đồng này, hay - như chúng ta có thể nói là ngày nay – lệ thuộc vào việc dẫn giải thích đáng về Công Đồng - cái then chốt xác đáng cho việc dẫn giải và áp dụng Công Đồng. Các vấn nạn của việc áp dụng Công Đồng xuất phát từ sự kiện là có hai thứ dẫn giải phản ngược nhau ra mặt và trái nghịch nhau chan chát. Một thứ dẫn giải gây ra lầm lẫn, còn một thứ, âm thầm song càng ngày càng sáng tỏ hơn, đã và đang sinh hoa kết trái.

 

“Một mặt là một thứ dẫn giải được tôi gọi là ‘một thứ dẫn giải có tính cách bất liên tục và chia lìa’; nó thường trở thành thuận lợi theo chiều hướng của các thứ truyền thông đại chúng, và cũng là một xu hướng của khoa thần học tân tiến. Mặt khác, cũng có ‘thứ dẫn giải của việc canh tân’, việc canh tân liên tục của một chủ thể Giáo Hội duy nhất được Chúa ban cho chúng ta. Giáo Hội là chủ thể tiến triển trong thời gian và phát triển, dù bao giờ cũng vẫn thế, cũng vẫn là một chủ thể duy nhất của Dân Chúa lữ hành.

 

“Việc dẫn giải thiên về tính cách bất liên tục có nguy cơ tiến tới chỗ phân chia Giáo Hội tiền công đồng và Giáo Hội hậu công đồng. Việc dẫn giải này chủ trương rằng các văn kiện của Công Đồng ấy dù sao cũng không diễn đạt được tinh thần thực sự của Công Đồng. Kiểu dẫn giải này cho rằng những văn kiện ấy là thành quả của những thứ dung hòa, những gì muốn tiến tới chỗ đồng thanh nhất trí cần phải thực hiện để bảo tồn và tái xác định nhiều điều cũ kỹ giờ đây đã trở thành vô dụng. Tuy nhiên, tinh thần thực sự của Công Đồng này không ở tại những thứ dung hòa này mà là ở những động lực hướng tới những gì mới mẻ được chất chứa trong những bản văn kiện ấy.

 

“Chỉ có những thứ mới mẻ ấy mới đáng làm tiêu biểu cho tinh thần đích thực của Công Đồng, và bắt đầu từ những mới mẻ ấy cũng như hợp với những thứ mới mẻ ấy tinh thần của Công Đồng mới có thể tiến phát. Chính vì các bản văn kiện này chỉ phản ảnh một cách bất toàn tinh thần thực sự của Công Đồng cũng như tính cách mới mẻ của Công Đồng mới cần phải can đảm vượt ra ngoài những văn kiện để giành chỗ cho cái mới mẻ theo ý hướng sâu xa nhất được Công Đồng bày tỏ, cho dù ý hướng ấy vẫn còn mập mờ”.

 

Mà là dẫn giải theo chiều hướng canh tân

 

“Lối dẫn giải theo chiều hướng bất liên tục bị đối nghịch bởi lối dẫn giải theo chiều hướng canh tân, như lối dẫn giải theo chiều hướng canh tân này được bày tỏ trước hết nơi bài khai mạc Công Đồng của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ngày 11/10/1962, cũng như sau đó nơi bài diễn từ bế mạc Công Đồng ngày 7/12/1965 của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.

 

“Ở đây tôi chỉ trích dẫn những lời lẽ quá quen thuộc của Đức Gioan XXIII, những lời nói lên một cách dứt khoát lối dẫn giải này khi ngài nói rằng Công Đồng muốn ‘chuyển đạt một thứ tín lý tinh tuyền và nguyên vẹn, không bị pha phôi hay méo mó’. Và ngài còn nói: ‘Nhiệm vụ của chúng ta không phải chỉ là để canh giữ kho tàng quí báu này, như thể chúng ta chỉ quan tâm tới những gì là cổ xưa, mà là để dấn thân bằng một lòng thiết tha và can đảm cho hoạt động mà thời đại của chúng ta cần đến chúng ta…’. Cần phải tỏ ra là ‘việc gắn bó với tất cả giáo huấn của Giáo Hội một cách trọn vẹn và chính xác của giáo huấn này…’ được thể hiện nơi ‘việc trung thành và hoàn hảo tuân hợp với tín lý chân chính, những tín lý dầu sao cũng cần phải được học hỏi và quảng diễn bằng những phương pháp nghiên cứu cũng như bằng các hình thức văn chương của tâm tưởng tân tiến. Bản chất của tín lý xưa trong kho tàng đức tin là một vấn đề, còn đường lối trình bày tín lý này là một vấn đề khác…’, khi bảo tồn cũng một ý nghĩa và sứ điệp của tín lý ấy (The Documents of Vatican II, Walter M. Abbott, S.J., p. 715).

 

“Vấn đề được sáng tỏ là việc dấn thân diễn đạt một sự thật đặc biệt bằng đường lối mới cần phải theo suy nghĩ mới về sự thật ấy, cũng như cần có một mối liên hệ mới mẻ và trọng yếu với nó; vấn đề cũng được sáng tỏ là chỉ có thể khai triển những ngôn từ mới mẻ nếu chúng xuất phát từ một kiến thức rõ ràng về sự thật được bày tỏ, ngoài ra, vấn đề còn sáng tỏ là việc suy tư về đức tin cũng đòi đức tin này cần phải được sống nữa. Về vấn đề ấy, hoạch định được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII phác họa thực sự là những gì hết sức cần thiết, như sự tổng hợp giữa lòng trung thành và cái động lực thúc đẩy đòi hỏi vậy.

 

Tuy nhiên, bất cứ ở đâu lối dẫn giải này chi phối việc áp dụng Công Đồng thì ở đó phát triển sự sống mới và gặt hái được hoa trái mới. Bốn mươi năm sau Công Đồng, chúng ta có thể chứng tỏ là những gì tích cực còn to lớn hơn và sống động hơn là những gì công đồng dường như ở trong những năm hỗn loạn vào thời khoảng 1968. Ngày nay, chúng ta thấy rằng, mặc dù hạt giống tốt được phát triển một cách chậm rãi song nó đang gia tăng; và lòng tri ân sâu xa của chúng ta đối với công cuộc do Công Đồng thực hiện đồng thời cũng gia tăng”.

 

Đối thoại cởi mở giữa Đức Tin và Lý Trí

 

“Những bước tiến được Công Đồng thực hiện đối với kỷ nguyên tân tiến này phần nào đã bị trình bày một cách mơ hồ như ‘một thứ cởi mở với thế giới’, những bước tiến, nói tóm lại, là những gì thuộc về vấn đề dai dẳng liên hệ giữa đức tin và lý trí, một vấn đề vẫn được tái diễn qua những hình thức luôn mới mẻ. Tình hình Công Đồng phải đối diện thực sự có thể được so sánh với những biến cố của các thời đại khác.

 

“Trong Bức Thư Thứ Nhất của mình, Thánh Phêrô đã thúc giục các Kitô hữu hãy luôn sẵn sàng đáp ứng (apo-logia) cho bất cứ một ai muốn chất vấn họ về logos, về lý do họ tin tưởng (x 3:15).

 

“Điều này có nghĩa là đức tin của Thánh Kinh đã cần phải được bàn luận và giao tiếp với nền văn hóa Hy Lạp, và bằng việc giải thích biết nhìn nhận cái chiều hướng phân biệt song cũng qui hợp và thân thuộc nơi cả hai ở một lý trí duy nhất do Thiên Chúa ban.

 

“Vào thế kỷ 13, qua các triết gia Do Thái và Ả Rập, thời điểm tư tưởng Aristote giao tiếp với Kitô Giáo thời Trung Cổ được hình thành theo truyền thống Plato, làm cho đức tin và lý trí có nguy cơ trở thành những gì tương khắc với nhau đến độ bất khả hóa giải, thì trước hết có Thánh Tôma Aquinas, vị đã làm môi giới cho cuộc gặp gỡ mới giữa đức tin và triết lý Aristote, nhờ đó, làm cho đức tin có được một liên hệ tốt đẹp với hình thức lý trí thịnh hành thời ấy. Chắc chắn là không thể nào tránh được xẩy ra một cuộc tranh luận mệt nghỉ giữa lý trí tân tiến và đức tin Kitô Giáo, một cuộc tranh luận đã được mở màn một cách tiêu cực với vụ Galileo, rồi trải qua nhiều giai đoạn, song tới Công Đồng Chung Vaticanô II là thời điểm cần phải có một suy tư bao rộng mới mẻ.

 

“Nội dung của mối liên hệ này thực sự chỉ lưu dấu vết sơ qua nơi các văn kiện của Công Đồng thôi, nhưng nó cho thấy rõ chiều hướng thiết yếu của nó, nhờ đó, cuộc đối thoại giữa lý trí và đức tin, ngày nay lại càng quan trọng hơn nữa, đã sinh hoa kết trái nhờ Công Đồng Chung Vaticanô II. 

 

“Cuộc đối thoại này giờ đây cần phải được phát triển một cách hết sức cởi mở nhưng cũng phải hết sức ý thức được rằng thế giới có lý để mong đợi nơi chúng ta ngay vào chính lúc này đây. Bởi thế, hôm nay chúng ta mới có thể tri ân cảm tạ khi nhìn lại Công Đồng Chung Vaticanô II, ở chỗ, nếu chúng ta giải thích và áp dụng Công Đồng theo lối dẫn giải đúng đắn thì Công Đồng mới có thể mãnh liệt và mới có thể càng ngày càng trở nên mãnh liệt cho cuộc canh tân cần thiết hơn bao giờ hết của Giáo Hội”.

 

 

2)         ƯU TIÊN ĐẠI KẾT KITÔ GIÁO

 

 

Đại Kết Kitô Giáo sẽ được Hiện Thực theo Lời Chúa Hứa

 

Bài Giảng Lễ Đăng Quang 24/4/2005

 

“Cả hình ảnh về người mục tử và hình ảnh về người đánh cá đều làm phát ra một tiếng mời gọi hiệp nhất tỏ tường. ‘Tôi còn có chiên khác chưa thuộc về đàn này; Tôi cần phải dẫn chúng nữa, và chúng sẽ lắng nghe tiếng Tôi. Rồi sẽ có một đàn chiên và một chủ chiên’ (Jn 10:16); những lời này của Chúa Kitô ở cuối bài giảng của Người về vị Chủ Chiên Nhân Lành. Và trình thuật về 153 con cá lớn được kết thúc bằng câu nói hân hoan: ‘mặc dù quá nhiều cá mà lưới vẫn không bị rách’ (Jn 21:11). Than ôi, Chúa yêu ơi, giờ đây chúng con cảm thấy buồn lòng mà nhìn nhận rằng nó đã bị rách rồi! Nhưng không – chúng con không được buồn! Chúng con hãy vui lên vì Chúa đã hứa hẹn, một lời hứa không làm thất vọng, và chúng con hãy làm tất cả những gì chúng con có thể để theo đuổi con đường hướng đến hiệp nhất Chúa đã hứa. Chúng con hãy nhớ đến nó khi chúng con nguyện cầu cùng Chúa, khi chúng con nài xin Người: vâng, lạy Chúa, xin Chúa hãy nhớ lại lời Chúa hứa. Xin Chúa ban cho chúng con được trở thành một đàn chiên và một chủ chiên! Xin Chúa đừng để cho lưới của Chúa bị rách, xin hãy giúp chúng con trở thành những người tôi tớ của hiệp nhất!”

 

Đại Kết Kitô Giáo cần lòng đơn sơ, liên lỉ nguyện cầu và một thứ đại kết thiêng liêng

 

Diễn Từ với phái đoàn Đại Kết và Liên Tôn Thứ Hai 25/4/2005

Con đường hướng về mối hiệp nhất trọn vẹn như Chúa Giêsu mong muốn nơi thành phần môn đệ của Người cần phải có một tấm lòng đơn sơ cụ thể trước những gì được Thần Linh nói cùng các Giáo Hội, cần đến lòng can đảm, dịu hiền, cương quyết và hy vọng đạt được cùng đích này. Nó trước hết đòi phải thực hiện việc đồng tâm liên lỉ nguyện cầu để xin Vị Mục Tử Nhân Lành ban tặng ân hiệp nhất cho đàn chiên của Người.


”Vào dịp rất đặc biệt này, dịp mang chúng ta lại với nhau chính vào lúc bắt đầu việc tôi phục vụ giáo hội, việc tôi lo âu chấp nhận nhưng tin phục vào Chúa, tôi xin quí vị hãy cùng tôi nêu gương về một thứ đại kết thiêng liêng, một thứ đại kết, trong nguyện cầu, làm hiện thực mối hiệp thông của chúng ta một cách dễ dàng. Tôi xin truyền đạt cho quí vị tất cả những ước mong và suy tư này cùng với những lời chào thân ái nhất của tôi, nhờ đó, qua quí vị, chúng cũng được chuyển đến các giáo hội và cộng đồng giáo hội của quí vị”.

 

Đại Kết Kitô Giáo liên quan đến Vận Mệnh Âu Châu

 

Sứ Điệp gửi ĐHY Jean-Louis Tauran về Giáo Hội Chính Thống Giáo Hy Lạp 27/10/2005

 

“Tôi xin huynh hãy chuyển đến Đức Thượng Phụ Christodoulos là tôi lấy làm vui mừng được tiếp đón ngài ở Rôma để cùng nhau cho thấy một giai đoạn mới đạt được trên con đường hòa giải và hợp tác. Điều này chứng thực cho lòng tôi thành thật muốn phát tiển mối liên hệ mạnh mẽ hơn bao giờ hết niềm tin tưởng và tình huynh đệ giữa chúng ta trong việc cùng nhau hoạt động trong nhiều khó khăn thử thách của việc truyền bá phúc âm hóa: Đặc biệt là chúng ta có thể mạnh mẽ hơn để giúp cho các quốc gia Âu Châu tái xác nhận căn gốc Kitô giáo của họ để một lần nữa họ tìm được nhựa sống dưỡng nuôi và làm phong phú chính tương lai họ cho thiện ích của con người và toàn thể xã hội. Nó sẽ là một đường lối cùng nhau loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô cho thế giới hiện đại là thế giới rất cần đến nó. Nhờ thế, chúng ta mới đáp ứng hơn bao giờ hết niềm thiết tha ước mong của chính Chúa Kitô là: “Để họ được nên một” (x Jn 17:21), cho đến ngày, thời điểm Thiên Chúa muốn và theo hướng dẫn của Thánh Linh, chúng ta có thể cử hành mối hiệp thông được trọn vẹn phục hồi.

 

Đại Kết Kitô Giáo đã Thành Đạt song vẫn cần Tiếp Tiến

 

Diễn Văn Ngỏ Cùng Những Vị Đại Diện Liên Hiệp Lutherô Thế Giới 7/11/2005

 

“Qua nhiều năm tháng, Giáo Hội Công Giáo và Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới đã hoan hưởng những liên hệ chặt chẽ và tham gia vào cuộc đối thoại đại kết. Cuộc trao đổi tư tưởng này đã từng là những gì mang lại hoa trái và đầy hứa hẹn. Thật vậy, một trong những kết quả của cuộc đối thoại tốt đẹp này là Bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa, một bản tuyên ngôn trở thành một mốc điểm quan trọng cho việc chúng ta cùng tiến bước trên con đường hướng đến mối hiệp nhất hữu hình trọn vẹn. Đó là một thành đạt quan trọng. Để để xây dựng trên cuộc thành đạt này, chúng ta cần phải chấp nhận những khác biệt vẫn còn đó liên quan tới vấn đề chính yếu của tín điều công chính hóa; những khác biệt này cần phải được giải quyết, cùng với những đường lối qua đó ân sủng Chúa được thông đạt nơi và qua Giáo Hội.

 

“Như tôi đã đề cập tới trong cuộc viếng thăm mới đây của tôi ở Cologne, đó là tôi hy vọng rằng vấn đề tiến bộ sau này của việc chúng ta đối thoại về những vấn đề ấy sẽ không những liên quan tới những vấn đề ‘về cơ cấu’, mà còn chú trọng tới cả nguồn mạch thực sự của tất cả mọi thừa tác vụ trong Giáo Hội nữa. Thật thế, sứ vụ của Giáo Hội là làm chứng cho sự thật về Chúa Giêsu Kitô, Lời hóa thành nhục thể. Lời và chứng từ đi liền với nhau: Lời phát sinh chứng từ và hình thức hóa chứng từ; chứng từ có được tính chất chuyên chính của mình từ việc hoàn toàn trung thành với Lời, như được thể hiện và sống trong cộng đồng đức tin tông truyền theo sự hướng dẫn của Thánh Linh.

 

“Ủy Ban Quốc Tế Luthêrô và Công Giáo Rôma về Hiệp Nhất chẳng bao lâu nữa sẽ xong giai đoạn đối thoại thứ tư và sẽ phổ biến những nhận định của mình trong một bản văn kiện về Tông Truyền Tính của Giáo Hội. Tất cả chúng ta đều ý thức rằng việc đối thoại huynh đệ của chúng ta gặp khó khăn thử thách chẳng những bởi nhu cầu cần phải chứng thực việc nhận lãnh những công thức tín điều chung này nơi những mối hiệp thông tương ứng của chúng ta, mà thậm chí còn hơn thế nữa bởi bầu khí chung của những gì là bất ổn định liên quan tới những chân lý Kitô giáo cùng những nguyên tắc về đạo lý là những gì trước đây không có vấn đề gì cả. Gia sản chung này, ở một số trường hợp, đang bị giảm sút bởi những phương sách giải thích bị đổi thay.

 

“Con đường đại kết cùng nhau của chúng ta sẽ tiếp tục gặp khó khăn và đòi phải nhẫn nại đối thoại. Tuy nhiên, tôi cảm thấy nhiều phấn khởi trước truyền thống vững chắc của việc nghiêm cẩn nghiên cứu và trao đổi là những gì làm nên đặc tính nơi mối liên hệ giữa công Giáo và Luthêrô qua nhiều tháng năm. Chúng ta cảm thấy an ủi trước sự kiện là việc chúng ta tìm kiếm mối hiệp nhất được hướng dẫn bởi sự hiện diện của Chúa Phục Sinh cũng như bởi quyền lực vô tận của Thần Linh người ‘muốn thổi đâu thì thổi’ (Jn 3:8). Trong khi chúng ta đang sửa soạn kỷ niệm 500 năm biến cố năm 1517, chúng ta cần phải gia tăng nỗ lực để hiểu biết sâu xa hơn những gì chúng ta có chung và những gì chia cách chúng ta, cũng như các tặng ân chúng ta cần phải cống hiến cho nhau. Bằng việc kiên trì với đường lối này, chúng ta nguyện cầu là dung nhan của Chúa Kitô được chiếu tỏa rạng ngời hơn nơi thành phần môn  đệ của Người để tất cả được nên một cho thế gian tin tưởng (x Jn 17:21)”.

 

Ngỏ cùng Phái Đoàn Đại Biểu Đại Kết Phần Lan 19/1/2005

 

“Ủy Ban Đối Thoại Luthêrô và Công Giáo hiện nay ở Phần Lan và Thụy Điển được xây dựng trên việc thành đạt chính yếu của Bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa. Trong môi trường đặc biệt ở các quốc gia Bắc Âu, ủy ban này đang tiếp tục nghiên cứu việc chiếm đạt và những hàm ý thực tiễn của Bản Tuyên Ngôn Chung này. Nhờ đó nó tìm cách giải quyết những khác nhau vẫn còn tồn tại giữa người Luthêrô và Công Giáo liên quan tới một số vấn đề đức tin và đời sống xã hội, trong khi vẫn nhiệt thành làm chứng cho sự thật của Phúc Âm”.

 

Đại Kết Kitô Giáo tiến triển từ Biến Cố Hủy Bỏ Vạ Tuyệt Thông với Giáo Hội Chính Thống

 

Sứ Điệp gửi Thượng Phụ Toàn Cầu Bartholomew I dịp Lễ Thánh Anrê 26/11/2005

 

“Năm nay chúng ta tưởng nhớ đến đệ tứ chu niên ngày 7/12/1965, ngày Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Athenagoras, không hài lòng về những gì xẩy ra vào năm 1054, đã cùng nhau quyết định ở Rôma và Constantinople ‘hủy bỏ khỏi ký ức của Giáo Hội bản án tuyệt thông đã được ban bố’. Biến cố trọng yếu này trở thành nền tảng cho mối liên hệ mới có tính cách tương kính và hòa giải.

 

“Thật vậy, việc hủy bỏ này đánh dấu khởi điểm của một mùa mới trong đời sống xã hội, một mùa đối thoại trao đổi, một mùa cho thấy những tiến bộ đáng kể tuy vẫn còn khó khăn cần phải tiếp tục kiên trì theo đuổi những mục tiêu hết sức dấu yêu của nó. Về vấn đề này, nó khiến tôi lấy làm mãn nguyện khi thấy rằng sau vài năm ngưng đọng việc đối thoại về thần học của chúng ta lại được tái diễn. Tôi cầu xin để nó thực sự sinh hoa kết trái và tin tưởng rằng mọi nỗ lực sẽ được thực hiện để đạt được mục đích này”. 

 

Đại Kết Kitô Giáo đang trên đà phát triển hứa hẹn

 

Ngỏ lời cùng Hội Đồng Thế Giới Methodist 9/12/2005

 

“Từ năm 1967, việc đối thoại của chúng ta đã bàn giải những vấn đề chính về thần học, chẳng hạn như: mạc khải và đức tin, truyền thống và quyền giảng dạy trong Giáo Hội. Những nỗ lực này là những gì thẳng thắn trong việc nêu lên những lãnh vực khác nhau. Những lãnh vực này cho thấy một mức độ đáng kể đồng qui và là những gì đáng suy tư cùng nghiên cứu học hỏi. Việc đối thoại của chúng ta cùng với nhiều đường lối được những người Công Giáo và Methodist trở thành quen thuộc hơn là những gì giúp cho chúng ta có thể cùng nhau nhìn nhận một số điều trong ‘các kho tàng Kitô giáo rất quí giá’. Có lúc việc nhìn nhận này khiến chúng ta có thể cùng nhau lên tiếng về các vấn đề về xã hội và đạo lý trong một thế giới càng ngày càng bị tục hóa.

 

“Tôi lấy làm phấn khởi trước sáng kiến có thể mang các giáo hội phần tử của Hội Đồng Thế Giới Methodist tham gia Bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa là văn kiện được Giáo Hội Công Giáo và Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới ký nhận vào năm 1999. Nếu Hội Đồng Thế Giới Methodist bày tỏ ý định của mình trong việc muốn tham gia vào bản Tuyên Ngôn Chung này thì hội đồng này sẽ giúp vào việc chữa lành và hòa giải được chúng ta thiết tha mong ước, và sẽ là một bước tiến tới mục đích đã được đề ra là mối hiệp nhất hữu hình trọn vẹn trong đức tin”.

 

Đại Kết Kitô Giáo chỉ hiện thực nhờ Việc Hoán Cải Nội Tâm

 

Với Các Vị Lãnh Đạo Thế Giới Liên Minh Chư Giáo Hội Cải Cách Thứ Bảy 7/1/2006

 

“Thật vậy, trong tháng vừa qua, tháng đánh dấu 40 năm bế mạc Công Đồng Chung Vaticanô II, một Công Đồng đã ban hành Sắc Lệnh về Đại Kết Unitatis Redintegratio. Cuộc Đối Thoại giữa Giáo Hội Công Giáo và Chư Giáo Hội Cải Cách, một cuộc đối thoại xẩy ra sau đó ít lâu, đã là một đóng góp quan trọng cho công việc cần thiết để suy tư về thần học và nghiên cứu về lịch sử là những gì bất khả châm chước để thắng vượt những chia rẽ thảm thương xuất phát từ nơi Kitô hữu trong thế kỷ thứ 16. Một trong những kết quả của cuộc Đối Thoại này đó là việc cho thấy những lãnh vực qui hợp quan trọng giữa việc Chư Giáo Hội Cải Cách hiểu về Giáo Hội như là Creatura Verbi với việc Giáo Hội Công Giáo hiểu về Giáo Hội như là một Bí Tích nồng cốt để Thiên Chúa tuôn ban ân sủng xuống trong Chúa Kitô (xem Ánh Sáng Muôn Dân, 1). Nó là một dấu hiệu phấn khởi để giai đoạn đối thoại hiện thời tiếp tục đào sâu vào tính cách phong phú và bổ xung của những thứ kiến thức này.

 

“Sắc Lệnh về Đại Kết xác nhận rằng ‘không có một cuộc đại kết nào xứng với danh xưng của mình nếu không thực hiện việc thống hối nội tâm’ (đoạn 7). Vào lúc mở màn cho Giáo Triều của mình, tôi đã nói lên niềm xác tín của mình là ‘việc hoán cải nội tâm là điều kiện tiên quyết cho tất cả mọi tiến bộ về đại kết’ (Homily in the Sistine Chapel, 20 April 2005), và nhắc lại gương của vị tiền nhiệm mình là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị thường nói về nhu cầu cần phải ‘thanh tẩy ký ức” như cách thức mở lòng ra để lãnh nhận tất cả sự thật của Chúa Kitô. Vị cố Giáo Hoàng này, nhất là vào dịp Đại Năm Thánh 2000, đã cống hiến một động lực mãnh liệt cho nỗ lực này của Giáo Hội Công Giáo, và tôi cảm thấy vui mừng khi thấy rằng có một số Chư Giáo Hội Cải Cách là phần tử của Tổ Chức Thế Giới Liên Minh này cũng đã thực hiện tương tự như thế. Những cử chỉ như vậy là những tảng đá xây dựng cho một mối liên hệ sâu xa hơn là những gì cần phải được nuôi dưỡng trong chân lý và yêu thương.

 

Đại Kết Kitô Giáo là Tặng Ân của Thiên Chúa

 

Buổi Triều Kiến Chung hằng Tuần Thứ Tư 18/1/2006 về Việc Nguyện Cầu Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo

 

 “Về điều này, giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II nơi sắc lệnh về vấn đề đại kết cũng rất đúng: ‘Phong trào hướng về hiệp nhất này được gọi là đại kết. Những ai thuộc về phong trào này là thành phần kêu cầu Thiên Chúa Ba Ngôi và tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Thế’ (đoạn 1). Những lời cầu nguyện chung vang lên khắp thế giới đặc biệt trong giai đoạn này, hay vào dịp Lễ Hiện Xuống, lại càng bày tỏ ý muốn của một nỗ lực chung trong việc tái thiết mối trọn vẹn hiệp thông của tất cả mọi Kitô hữu. ‘Những lời nguyện cầu chung như thế chắc chắn là phương tiện hiệu nghiệm trong việc chiếm được ơn hiệp nhất’ (đoạn 8).

 

“Bằng lời khẳng định này, Công Đồng Chung Vaticanô II giải thích một cách dứt khoát những gì Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người, thành phần Người bảo đảm là ở đâu có hai người qui tụ lại trên mặt đất này xin bất cứ điều gì cùng Cha ở trên trời thì Ngài sẽ ban cho điều đó ‘vì’ ở đâu có hai ba người hợp lại vì danh Người thì Người ở giữa họ. Sau khi phục sinh, Người bảo đảm với các vị rằng Người sẽ ở với các vị “mãi mãi cho tới tận thế” (Mt 28:20). Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cộng đồng các môn đệ cũng như nơi việc nguyện cầu của chúng ta là những gì bảo đảo tính cách hiệu nghiệm. Cho đến nỗi Người đã hứa quyết rằng ‘bất cứ điều gì các con cầm buộc dưới thế thì trên trời cũng cầm buộc, và bất cứ những gì các con tháo cởi dưới thế thì trên trời cũng tháo cởi’ (Mt 18:18).

 

“Thế nhưng, chúng ta không chỉ thực hiện việc van xin mà thôi. Chúng ta cũng có thể dâng lời tạ ơn Chúa về tình hình mới, một tình hình, nhờ nỗ lực, đã tạo được những liên hệ đại kết nơi Kitô hữu trong tình huynh đệ, những gì đã tái diễn nhờ những thắt kết mạnh mẽ của tình đoàn kết được thiết lập, của mối hiệp thông gia tăng và của những qui điểm được thực hiện – chắc chắn là một cách không đồng đều – giữa các cuộc đối thoại khác nhau. Có nhiều lý do để tạ ơn Chúa. Và nếu vẫn còn nhiều điều cần phải làm và hy vọng, thì chúng ta đừng quên rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta nhiều điều trên con đường hiệp nhất rồi. Bởi thế, chúng ta hãy biết ơn Ngài về những tặng ân ấy. Tương lai ở trước mắt chúng ta.

 

“Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đáng kính nhớ, vị đã làm rất nhiều và vất vả về vấn đề đại kết, đã dạy chúng ta rằng ‘niềm cảm nhận việc Thiên Chúa đã ban phát biết là chừng nào là điều kiện dọn lòng chúng ta đón nhận những tặng ân vẫn bất khả thiếu trong việc hoàn tất công cuộc hiệp nhất đại kết’ ("Ut Unum Sint," No. 41). Bởi thế, anh chị em thân mến, chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện để nhận thức rằng lý do thánh hảo của việc tái thiết lập mối hiệp nhất Kitô Giáo là những gì vượt quá các nỗ lực nghèo nàn của nhân loại chúng ta và hiệp nhất trên hết là tặng ân của Thiên Chúa”.

 

Đại Kết Kitô Giáo chỉ hiện thực trong Tình Yêu Thiên Chúa

 

Bài giảng trong Buổi Kinh Tối Bế Mạc Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo 25/1/2006

 

“Thiên Chúa là tình yêu. Tất cả đức tin của Giáo Hội được xây dựng trên tảng đá này. Đặc biệt là việc nhẫn nại tìm kiếm mối hiệp thông trọn vẹn nơi tất cả mọi thành phần Kitô hữu được xây dựng trên tảng đá ấy.

 

“Gắn mắt vào chân lý này, tột đỉnh của mạc khải thần linh, cho dù sự kiện chia sẽ vẫn còn chồng chất đau thương, tình trạng chia rẽ này dường như có thể vượt qua và không làm cho chúng ta nản chí.

 

“Tình yêu chân chính không loại trừ đi những khác biệt hợp lý, nhưng hòa hợp chúng lại thành một mối hiệp nhất ở mức độ cao hơn, một mối hiệp nhất được áp đặt lên chúng ta từ bên ngoài, đúng hơn, nói cách khác, một mối hiệp nhất của toàn thể được hình thành từ bên trong.

 

“Nó là mầu nhiệm hiệp thông, như nó liên kết con người nam nữ lại thành một cộng đồng yêu thương và sự sống là hôn nhân thế nào, nó cũng làm cho Giáo Hội thành một cộng đồng yêu thương, cống hiến mối hiệp nhất cho một kho tàng đa dạng về các tặng ân và các truyền thống.

 

“Trong việc phục vụ cho mối hiệp nhất yêu thương này, Giáo Hội Rôma, theo Thánh Ignatiô Antiôkia diễn tả, ‘chủ sự trong đức ái’.

 

“Vị Giám Mục Rôma một lần nữa đặt trong tay Thiên Chúa thừa tác vụ kế vị Thánh Phêrô của mình, xin Thánh Linh soi sáng và tăng sức cho thừa tác vụ này, nhờ đó ngài luôn nuôi dưỡng mối hiệp nhất huynh đệ nơi tất cả mọi Kitô hữu”.

 

Diễn Từ ngỏ cùng Ủy Ban Hội Nghị Đại Kết 25/1/2006

 

Ở một Âu Châu đang trên đường tiến đến mối hiệp nhất về chính trị, chúng ta có thể chấp nhận hay chăng Giáo Hội của Chúa Kitô là yếu tố gây ra tình trạng bất nhất và bất hợp? Phải chăng đó là một trong những gương mù lớn nhất của thời đại chúng ta đây?

 

“Ưu tiên đích thực đối với Âu Châu đó là việc tái cương quyết dấn thân để ánh sáng của Chúa Kitô được sáng tỏ và chiếu soi những bước đường của lục địa Âu Châu vào lúc mở màn cho tân thiên niên kỷ này. Tôi hy vọng rằng mỗi đoạn đường của cuộc hành trình này đều được chiếu soi bởi ánh sáng này của Chúa Kitô, và Hội Nghị Đại Kết Âu Châu sẽ góp phần vào việc làm cho thành phần Kitô hữu thuộc các quốc gia của chúng ta ý thức hơn nữa về nhiệm vụ của họ trong việc làm chứng cho đức tin nơi môi trường văn hóa hiện nay là môi trường thường có những đặc tính của tương đối chủ nghĩa và tình trạng khô đạo.

 

“Để cho tiến trình hiệp nhất đang diễn tiến được thành quả, Âu Châu cần phải tái nhận thức căn gốc của mình, bằng cách giành chỗ cho các thứ giá trị đạo lý là những gì thuộc về gia sản thiêng liêng phong phú và vững chắc của nó. Tuy nhiên, việc chúng ta hiện diện với tư cách là thành phần Kitô hữu sẽ là những gì quyết liệt và rạng ngời chỉ khi nào chúng ta can đảm cương quyết tiến trên con đường hòa giải và hiệp nhất. Sau khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ cần phải liên kết để giải quyết những thách đố hiện tại, bắt đầu với thách đố nơi tính cách tân tiến và tục hóa”.

 

Đại Kết Kitô Giáo cần mở cõi lòng ra trước dấu chỉ thời đại

 

Sứ Điệp gửi Hội Nghị của Hội Đồng Thế Giới Chư Giáo Hội 25/1/2006

“Quan tâm tới việc chúng ta chia sẻ cùng một niềm tin vào Chúa Ba Ngôi nơi phép rửa, Giáo Hội Công Giáo và Hội Đồng Thế Giới Chư Giáo Hội tìm cách cộng tác với nhau một cách hiệu nghiệm hơn bao giờ hết trong việc làm chứng cho tình yêu thần linh của Thiên Chúa. Sau 40 năm hợp tác tốt đẹp, chúng ta hướng tới việc tiếp tục cuộc hành trình hy vọng đầy hứa hẹn này, khi chúng ta gia tăng nỗ lực của mình hướng đến ngày Kitô hữu liên kết loan truyền sứ điệp cứu rỗi của Phúc Âm cho tất cả mọi người.  Vì chúng ta cùng nhau thực hiện cuộc hành trình này, chúng ta cần phải mở lòng ra trước những dấu chỉ của Đấng Quan Phòng Thần Linh cũng như trước tác động của Thánh Thần, vì chúng ta biết rằng ‘mục tiêu thánh hảo là việc hòa giải tất cả mọi Kitô hữu nơi mối hiệp nhất nên một Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô là những gì vượt quá năng lực và tài năng của con người’ ("Unitatis Redintegratio," 24). Bởi thế niềm tin tưởng duy nhất của chúng ta đó là lời nguyện cầu của chính Chúa Kitô: ‘Lạy Cha Thánh, xin hãy vì danh Cha mà gìn giữ họ, những người Cha đã ban cho Con, để họ được hiệp nhất, như chúng ta là một’” (Jn 17:11).

 

Đại Kết Kitô Giáo trong “Thiên Chúa là Tình Yêu”

 

Bài Giảng Bế Mạc Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo 25/1/2006

 

“‘Deus caritas est’ - Thiên Chúa là tình yêu (1Jn 4:8,16). Tất cả đức tin của Giáo Hội được xây dựng trên tảng đá này. Đặc biệt là việc nhẫn nại tìm kiếm mối hiệp thông trọn vẹn nơi tất cả mọi thành phần Kitô hữu được xây dựng trên tảng đá ấy: Bằng việc gắn mắt vào chân lý này, tột đỉnh của mạc khải thần linh, tình trạng chia rẽ này dường như có thể vượt qua và không làm cho chúng ta nản chí, cho dù sự kiện chia rẽ vẫn còn tiếp tục là những gì trầm trọng.

 

“Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã phá hủy ‘bức tường phân chia hận thù’ (Eph 2:14) bằng máu cuộc khổ nạn của Người, sẽ không ngừng ban cho những ai trung thành kêu xin Người sức mạnh để chữa lành mọi thương tích. Thế nhưng, luôn phải bắt đầu lại từ chỗ này, từ ‘Deus caritas est’.

 

“Chính đề tài yêu thương này mà tôi viết bức thông điệp đầu tiên của mình, bức thông điệp được ban hành hôm nay; việc trùng hợp này với ngày bế mạc Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo mời gọi chúng ta hãy coi, thậm chí hơn cả cuộc chúng ta qui tụ này, tất cả cuộc hành trình đại kết trong ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa, của Tình Yêu là Thiên Chúa.

 

“Ngay cả theo quan điểm nhân loại đi nữa, tình yêu cũng tỏ ra như là một mãnh lực bất khả thắng, thì chúng ta phải nói sao về ‘người nhận biết và tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa đã giành cho chúng ta’ (1Jn 4:16) đây?

 

“Tình yêu chân chính không loại trừ đi những khác biệt hợp lý, nhưng hòa hợp chúng lại thành một mối hiệp nhất ở mức độ cao hơn, một mối hiệp nhất được áp đặt lên chúng ta từ bên ngoài, đúng hơn, nói cách khác, một mối hiệp nhất của toàn thể được hình thành từ bên trong.

 

“Nó là mầu nhiệm hiệp thông, như nó liên kết con người nam nữ lại thành một cộng đồng yêu thương và sự sống là hôn nhân thế nào, nó cũng làm cho Giáo Hội thành một cộng đồng yêu thương, cống hiến mối hiệp nhất cho một kho tàng đa dạng về các tặng ân và các truyền thống. Trong việc phục vụ cho mối hiệp nhất yêu thương này, Giáo Hội Rôma, theo Thánh Ignatiô Antiôkia diễn tả, ‘chủ sự trong đức ái’”.

 

Buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần, ngày 29/3/2006

 

“Sự sống được hiệp thông với Thiên Chúa và nơi chúng ta này chính là mục tiêu của việc loan truyền Phúc Âm, là mục tiêu của việc hoán cải trở về với Kitô Giáo: ‘những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho anh em, để anh em được hiệp thông với chúng tôi’ (1Jn 1:3). Bởi thế, mối hiệp thông lưỡng đôi với Thiên Chúa và nơi chúng ta này là những gì bất khả phân ly.

 

“Bất cứ lúc nào mối hiệp thông với Thiên Chúa bị hủy diệt, mối hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, thì căn nguyên và là nguồn gốc của mối hiệp thông nơi chúng ta cũng bị hủy hoại. Và bất cứ khi nào mối hiệp thông giữa chúng ta không còn tồn tại, thì mối hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi cũng không thể nào sống động và chân thực, như chúng ta đã nghe”.

Đại Kết Kitô Giáo đòi hỏi sống ba thần đức

 

Diễn từ ngỏ cùng nhóm linh mục và chủng sinh thuộc viện thần học ‘Apostoliki Diakonia’ của Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp tại Sảnh Đường Consistory ngày Thứ Hai 27/2/2006.

 

“Chúng ta cần phải đương đầu với những thứ thách đố đang đe dọa tới đức tin, phải vun trồng thứ đất mùn đã làm phì nhiêu Âu Châu qua nhiều thế kỷ, phải tái xác nhận các thứ giá trị Kitô Giáo, phải cổ võ hòa bình và gặp gỡ, ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất, và phải củng cố những yếu tố đức tin và đời sống giáo hội có thể dẫn chúng ta tới mục đích trọn vẹn hiệp thông trong chân lý và đức ái, nhất là hiện nay là lúc toàn thể cuộc đối thoại chính thức giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống đang tái diễn hành trình của mình với một nghị lực mới.

 

“Trong đời sống Kitô Giáo thì đức tin, đức cậy và đức mến là những gì sát cánh với nhau. Chứng từ của chúng ta trong thế giới ngày nay sẽ trở thành chân thực hơn và hiệu nghiệm hơn, nếu chúng ta nhận thức rằng con đường dẫn đến hiệp nhất đòi tất cả chúng ta phải có một đức tin sống động hơn, một đức cậy mạnh mẽ hơn, và một đức mến thực sự trở thành niềm hứng khởi sâu xa nhất muôi dưỡng mối liên hệ hỗ tương của chúng ta! Tuy nhiên, đức cậy cần phải được thực hành một cách nhẫn nại và khiêm tốn, cũng như cần phải tin tưởng vào Đấng hướng dẫn chúng ta.

 

“Cho dù nó dường như không ở vào ngay tầm tay với của chúng ta, mục đích của mối hiệp nhất giữa thành phần môn đệ Chúa Kitô không ngăn cản chúng ta việc chúng ta sống với nhau trong đức ái ở tất cả mọi cấp độ, từ giây phút này đây. Không có nơi nào hay lúc nào tình yêu được mô phạm theo tình yêu của Vị Sư Phụ chúng ta là Chúa Giêsu lại trở thành thừa thãi cả; tình yêu không thể nào lại bất khả trở thành một ngõ tắt tiến tới mối trọn vẹn hiệp thông”.

 

Đại Kết Kitô Giáo đòi hỏi thừa tác vụ tông đồ và sứ vụ Thánh Phêrô

 

Buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần, ngày 5/4/2006, trong loạt bài giáo lý về mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội theo học thuyết Giáo Hội Hiệp Thông, một học thuyết mà ngài là một thần học gia chuyên môn triệt thấu.

 

“Anh Chị Em thân mến:

 

“Trong loạt bài giáo lý mới được chúng ta bắt đầu mấy tuần trước, chúng ta muốn cứu xét tới nguồn gốc của Giáo Hội để hiểu được dự án nguyên thủy, nhờ đó hiểu được những gì là chính yếu nơi Giáo Hội, một Giáo Hội đang tồn tại qua giòng thời gian. Chúng ta cũng muốn hiểu được lý do tại sao chúng ta lại thuộc về Giáo Hội, nhờ đó chúng ta phải làm sao để dấn thân sống Giáo Hội vào lúc mở màn cho tân thiên kỷ Kitô Giáo này.

 

“Suy nghĩ về Giáo Hội sơ khai, chúng ta khám phá thấy hai khía cạnh: Khía cạnh thứ nhất được mãnh liện đề cao bởi Thánh Irenaeus Thành Lyon, đại thần học gia tử đạo vào cuối thế kỷ thứ hai, vị đầu tiên lưu lại cho chúng ta một khoa thần học ở một nghĩa nào đó.

 

“Thánh Irenaues viết: ‘Giáo Hội ở đâu thì Thần Linh Thiên Chúa ở đó; và Thần Linh Chúa ở đâu thì ở đó có Giáo Hội cùng với tất cả mọi ân sủng, vì Thần Linh là chân lý’ ("Adversus Haereses," III, 24, 1: PG 7, 966). Bởi thế, có một mối liên hệ sâu xa giữa Thánh Thần và Giáo Hội. Thánh Thần xây dựng Giáo Hội và ban cho Giáo Hội chân lý, và như Thánh Phaolô nói, tuôn đổ tình yêu vào lòng tín hữu (x Rm 5:5).

 

“Thế nhưng, ngoài ra, còn có khía cạnh thứ hai nữa. Mối liên hệ sâu xa này với Thần Linh không loại trừ nhân tính của chúng ta, với tất cả nỗi yếu hèn của nó, bởi đó, ngay từ ban đầu, cộng đồng môn đệ chẳng những cảm nghiệm được niềm vui của Thánh Thần, ân sủng của chân lý và yêu thương, mà còn cả thử thách là những gì chính yếu bị gây ra bởi tình trạng tương phản giữa các chân lý đức tin với những rạn nứt xuất phát từ mối hiệp thông.

 

“Như mối hiệp thông yêu thương đã hiện hữu ngay từ ban đầu và sẽ tiếp tục tồi tại cho tới cùng (x 1Jn1:1ff) thế nào, thì bất hạnh thay, cũng ngay từ ban đầu, chia rẽ đã xẩy ra. Chúng ta không lạ gì khi thấy nó vẫn còn hiện hữu tới ngày nay: Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan viết: ‘Chúng từ chúng ta mà ra, nhưng chúng không thuộc về chúng ta; vì nếu chúng từ chúng ta mà ra thì chúng sẽ tiếp tục ở với chúng ta; song chúng đã đi khỏi để có thể nói rằng tất cả chúng không thuộc về chúng ta’ (2:19).

 

“Bởi thế, mối hiểm nguy bao giờ cũng vẫn có đó, nơi tình trạng thăng trầm của thế giới cũng như nơi nỗi yếu hèn của Giáo Hội, của việc mất niềm tin, từ đó, mất yêu thương và tình huynh đệ. Đó là lý do những ai tin vào Giáo Hội của yêu thương và muốn sống trong Giáo Hội phải có nhiệm vụ đặc biệt để cũng nhận ra mối nguy hiểm ấy và chấp nhận rằng mối hiệp thông bất khả dĩ với những ai không ở trong tín lý cứu độ (x 2Jn 9-11).

 

“Những gì Giáo Hội sơ khai nhận thấy một cách rõ ràng về những căng thẳng khả dĩ này nơi việc sống hiệp thông được chứng tỏ rất rõ nơi Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan. Không có một tiếng nói mạnh mẽ nào khác trong Tân Ước nhấn mạnh tới thực tại về nhiệm vụ sống yêu thương huynh đệ nơi Kitô hữu, ngoài cũng cùng một tiếng nói ấy ngỏ một cách nghiêm nghị cùng thành phần đối phương, thành phần đã từng là phần tử của cộng đồng này song không còn thuộc về cộng đồng ấy nữa.

 

“Giáo Hội của yêu thương cũng là Giáo Hội của chân lý, trước hết được hiểu là Giáo Hội trung thành với Phúc Âm được Chúa Giêsu ký thác cho Giáo Hội riêng của Người. Tình huynh đệ Kitô hữu được xuất phát từ sự kiện là con cái của cùng một Cha bởi Thần Chân Lý: ‘Vì tất cả những ai được Thần Chúa dẫn dắt đều là con cái Thiên Chúa’ (Rm 8:14). Thế nhưng, sống trong hiệp nhất và an bình, gia đình con cái Chúa cần một người giữ họ trong chân lý và dẫn dắt họ một cách khôn ngoan sáng suốt có thẩm quyền: Đó là những gì thừa tác vụ của các vị tông đồ được kêu gọi thực hiện.

 

“Đến đây chúng ta tiến tới một điểm quan trọng. Giáo Hội hoàn toàn bởi Thần Linh, thế nhưng Giáo Hội có một cấu trúc, đó là việc thừa kế tông đồ, một việc thừa kế có trách nhiệm để làm sao có thể bảo đảm được tính cách vĩnh viễn của Giáo Hội trong chân lý do Chúa Kitô ban bố, từ đó cũng xuất phát cả khả năng yêu thương. Câu tóm tắt đầu tiên của Sách Tông Vụ cho thấy tính cách hết sức hiệu nghiệm về việc đồng qui các thứ giá trị này nơi đời sống Giáo Hội sơ khai: ‘Họ chuyên tâm vào giáo huấn của các Tông Đồ và việc hiệp thông (‘koinonia’), vào việc bẻ bánh và cầu nguyện’ (Acts 2:42).

 

“Mối hiệp thông được phát xuất từ niềm tin do việc rao giảng tông truyền, nó được nuôi dưỡng bằng việc bẻ bánh và nguyện cầu, và được thể hiện trong đức ái huynh đệ và phục vụ. Chúng ta đang ở trước hình ảnh của mối hiệp thông thuộc Giáo Hội sơ khai trong sự phong phú của những thứ năng động nội tại cùng với những thể hiện hữu hình: Tặng ân hiệp thông được gìn giữ và phát triển đặc biệt bởi thừa tác vụ tông đồ, một thừa tác vụ trở thành tặng ân cho toàn thể cộng đồng.

 

“Bởi vậy, các vị tông đồ và những vị thừa kế các ngài là thành phần bảo hộ và là những nhân chứng có thẩm quyền về kho tàng đức tin của Giáo Hội, và họ cũng là những thừa tác viên đức ái: hai khía cạnh đi với nhau. Họ bao giờ cũng phải nghĩ đến tính cách bất khả phân ly của việc phục vụ lưỡng đôi ấy, một việc phục vụ thật sự như nhau: chân lý và đức ái là những gì được Chúa Giêsu tỏ bày và ban tặng. Bởi thế, trước hết các vị thi hành việc phục vụ yêu thương: đức ái họ phải sống và cổ võ không thể nào được tách khỏi sự thật họ gìn giữ và truyền đạt.

 

“Chân lý và yêu thương là hai mặt của cùng một tặng ân, một tặng ân xuất phát từ Thiên Chúa và là một tặng ân, nhờ thừa tác vụ tông đồ, được Giáo Hội bảo tồn và truyền đạt cho chúng ta tới ngày nay! Qua việc phục vụ của các tông đồ và thành phần thừa kế của các vị, chúng ta cũng nhận được tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi trong việc truyền đạt sự thật giải thoát chúng ta (x Jn 8:32)! Tất cả những điều chúng ta thấy nơi Giáo Hội sơ khai dẫn chúng ta tới chỗ nguyện cầu cho thành phần thừa kế các vị tông đồ, cho tất cả các vị giám mục, cũng như cho các vị Thừa Nhiệm Thánh Phêrô, để các vị thực sự là những người bảo quản cho chân lý đồng thời cho cả đức ái nữa, để các vị thật sự là những tông đồ của Chúa Kitô, dể ánh sáng của các vị, ánh sáng chân lý và đức ái không bao giờ bị lịm tắt trong Giáo Hội và trên thế giới”.

 

Đại Kết Kitô Giáo cần đến “những việc làm cụ thể”

 

Như chúng ta đã biết, vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta, ngay sau ngày được bầu làm giáo hoàng, đã chính thức công khai tuyên bố vấn đề đại kết Kitô giáo là mối quan tâm đệ nhất của ngài, trong đó ngài nhấn mạnh đến “những cử chỉ cụ thể” về vấn đề hết sức quan trọng và khẩn trương này như sau:

 

·         “… Vị Thừa Kế này, lấy làm quyết tâm chính yếu của mình, cương quyết không ngừng hoạt động để hướng đến việc tái thiết mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình của tất cả mọi thành phần môn đệ của Chúa Kitô. Đó là tham vọng của ngài, đó là nhiệm vụ bó buộc của ngài. Ngài biết rằng, để làm điều này, những bày tỏ về cảm tình thiện cảm mà thôi chưa đủ. Cần phải có những cử chỉ cụ thể để thấm nhập các tâm hồn và đánh động lương tâm, phấn khích mọi người tiến đến chỗ hoán cải nội tâm là điều căn bản cho tất cả mọi thứ tiến bộ trên con đường đại kết”.

Vậy, từ sau khi ngài tuyên bố những lời làm nên sứ vụ giáo triều của ngài này, ngài đã thực hiện “những cử chỉ cụ thể” này bao nhiêu lần (ít là 2 lần) và ra sao, và thành phần có liên quan đến hoạt động đại kết Kitô giáo đã nhận định về ngài như thế nào qua “những cử chỉ cụ thể” ấy?

 

Lần thứ nhất với Giáo Hội Cải Cách Pháp Quốc. Thật vậy, ĐTGM Claude Feidt of Aix en Provende, đại diện Giáo Hội Công Giáo có mặt tại hội nghị Giáo Hội Cải Cách Pháp Quốc ở thành phố này đã đọc bản văn được văn phòng quốc vụ khanh của Tòa Thánh thay cho Đức Thánh Cha gửi đến hội nghị được chấm dứt hôm Chúa Nhật 8/5/2005 nàỵ

 

Trong sứ điệp của mình, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã gửi lời chào “thân ái đến tất cả mọi tham dự viên, ngài hứa sẽ cầu nguyện cho họ”, vị chủ tịch của hội nghị này là Marcel Manoel đã cho biết như thế. Ông nói tiếp: “Đây là lần đầu tiên hội nghị của chúng tôi đã nhận được một sứ điệp như vậỵ Chúng tôi nhận được sứ điệp này như là một cử chỉ của sự quan tâm”.

 

Giáo Hội Cải Cách Pháp Quốc có tất cả 350 phần tử. Chủ đề cho hội nghị lần này là “Tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô trong một Xã Hội Trần Thế”. Giáo Hội Cải Cách Pháp Quốc là giáo hội chính trong Liên Hiệp Thệ Phản Pháp Quốc, một tổ chức có chừng 900 ngàn người.

 

Lần thứ hai với Giáo Chủ Giáo Hội Chính Thống Nga. Đúng thế, Nhân dịp Lễ Quan Thày và sinh nhật của Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Giáo Nga Alexy II, vị thượng phụ đã tỏ ra chống lại việc Đức Gioan Phaolô II muốn sang thăm Nga theo lời Tổng Thống Putin mời, chống lại việc Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lập thêm mấy giáo phận mới ở Nga, và không tham dự lễ an táng của cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã gửi thư chúc mừng Vị Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Giáo Nga này và  đã nhận thư đáp lễ. Sau đây là nguyên văn 2 bức thư trao đổi theo tinh thần đại kết một cách cụ  thể  này.

 

Tại Vatican ngày 17/2/2006

Trọng kính Đức Alexy II

Thượng Phụ Giáo Chủ Moscow và Nga Sô,

 

Việc Đức Hồng Y Roger Etchegaray viếng thăm Moscow để chia sẽ với toàn thể Cộng Đồng Kitô Hữu Nga niềm vui mừng cả ngày sinh nhật lẫn quan thày của ngài đã cho tôi có cơ hội may mắn để gửi đến ngài những lời chúc tốt đẹp nồng nhiệt và thân ái của tôi.

 

Tôi muốn chung vui với cuộc mừng này trong tinh thần, và tôi xin Chúa ban muôn ơn lành xuống trên chính ngài và thừa tác vụ của ngài, một thừa tác vụ quảng đại dấn thân phục vụ cho lý tưởng Phúc Âm cao cả. Những cử chỉ và lời nói của tình huynh đệ cải tiến giữa thành phần mục tử của đàn chiên Chúa cho thấy rằng việc gia tăng hợp tác trong chân lý và bác ái là những gì giúp gia tăng tinh thần hiệp thông là tinh thần cần phải hướng dẫn đường đi nước bước của tất cả mọi người đã lãnh nhận phép rửa.

 

Thế giới hiện đại đang cần nghe thấy những tiếng nói cho thấy con đường của hòa bình, của việc tôn trọng tất cả mọi người, của việc lên án tất cả mọi hình thức bạo lực, của phẩm vị cao cả nơi hết mọi người cùng với những quyền lợi bẩm sinh họ được quyền hưởng.

 

Với những cảm thức ấy, tôi gửi đến ngài những lời chúc tốt đẹp nhất cho sức khỏe của ngài; theo gương và nhờ lời chuyển cầu của Thánh Alexis, chớ gì ngài tiếp tục làm trọn sứ vụ được Thiên Chúa ủy thác.

 

Biển Đức XVI

 

Moscow ngày 22/2

 

Kính gửi Giáo Hoàng Biển Đức XVI

 

Thưa Ngài,

 

Tôi cảm kích cám ơn những lời chúc tốt đẹp thân ái của ngài và việc ngài nhớ nguyện cầu cho tôi nhân dịp sinh nhật và quan thày của tôi, những gì được Hồng Y Roger Etchegaray mang đến cho tôi.

 

Trong thời đại của chúng ta đây, thời điểm đang lan tràn nạn tục hóa, Kitô Giáo đang phải đương đầu với những thách đố nặng nề đòi việc làm chứng chung. Tôi tin rằng đối với hai Giáo Hội của chúng ta, những giáo hội có cùng quan điểm về nhiều vấn đề rắc rối hiện nay trên thế giới hiện đại này, thì công việc ưu tiên ngày nay đó là việc bênh vực và khẳng định những giá trị Kitô Giáo trong xã hội, những giá trị nhờ đó nhân loại đã sống trên một ngàn năm. Tôi hy vọng rằng công việc ưu tiên này cũng góp phần vào việc tìm kiếm một giải pháp nhanh chóng cho những vấn đề giữa hai Giáo Hội nữa.

Tôi xin chúc lại ngài những lời chúc tốt đẹp nhất của tôi mong ngài được khỏe mạnh, khi tôi cầu Chúa ban muôn vàn ơn trợ giúp thần linh xuống trên ngài để ngài hoàn tất vai trò cao cả của ngài là Giáo Chủ của Giáo Hội Công Giáo Rôma.

Thân ái trong Chúa Kitô,

Alexy II

Thượng Phụ Moscow và Nga Sô

 

Ngoài ra, trong quá khứ, trước khi làm Giáo Hoàng nữa, tức khi còn giữ vai trò Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, ngài đã thực hiện “những cử chỉ cụ thể” đối với vấn đề đại kết Kitô giáo này rồi. Chắc chúng ta còn nhớ bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa ký kết giữa Giáo Hội Công Giáo với Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới ở Đức ngày 30/10/1999 tại Augsburg, một thành quả tốt đẹp sau hơn 30 năm đối thoại đại kết. Thế nhưng, thành quả đại kết đầu tiên này không thể có nếu không thiếu “những cử chỉ cụ thể” do đích thân vị hồng y tổng trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger thực hiện.

 

Thật vậy, trong cuộc tranh luận về thông điệp “Đức Tin và Lý Trí” của ĐTC Gioan Phaolô II xẩy ra tại Rôma vào Tháng 10/1998, vị hồng y nay là giáo hoàng Biển Đức XVI của chúng ta đây đã cho biết rằng trước khi ngài lên đại học, ngài đã đọc tất cả các tác phẩm của Luthêrô được viết trước thời Cải Cách, tức là ngài đã hiểu được những suy nghĩ của một nhân vật Luthêrô khi còn là linh mục Công giáo.

 

ĐHY Ratzinger bấy giờ đã kêu gọi những ai hiện diện hãy đọc lại những bản văn đó, vì chúng cho thấy cuộc chiến đấu cả thể Luthêrô đã trải qua khi phải đương đầu với bản thân mình để sống và chấp nhận những giáo huấn của Vị Thiên Chúa công minh và thiện hảọ Cuộc tranh luận về thông điệp “Đức Tin và Lý Trí” này đã kéo dài mấy tiếng đồng hồ. Vị nguyên Giám Mục Tin Lành Luthêrô Wolfgang Huber ở Bálinh (bấy giờ, nay làm chủ tịch Hội Đồng Giáo Hội Tin Lành Đức Quốc) lấy làm cảm phục trước sự ứng đáp của vị tổng trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin và khen Đức Ratzinger là một trong ít người thực sự hiểu được Luthêrô. Và chính kiến thức của ĐHY Joseph Ratzinger về ông tổ Thệ Phản Luthêrô đã giúp phần làm hiện thực việc ký kết lịch sử Bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa.

 

Tuy nhiên, có một số điểm trong bản dự thảo của bản tuyên ngôn này được trình bày trong năm 1998 đã bị cả Tòa Thánh lẫn hiệp hội loại bỏ. Khi tình hình cho thấy dự án có thể bị hỏng cuộc, thì những khó khăn ấy đã được thắng vượt bởi Giám Mục Johannes Hanselmann, nguyên chỉ tịch Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới, và ĐHY Ratzinger, nhờ tình thân hữu lâu đời của hai vị này, mối thân hữu đã đưa đến việc thực hiện một cuộc họp riêng giữa hai người với nhau vào Tháng 11/1998.

 

Sau khi vị Giám Mục Tiến Sĩ Hanselmann này chết vào ngày 2/10/1999, ĐHY Ratzinger đã tiết lộ trong một bài diễn thuyết là: “Chúng tôi đã thực hiện một cuộc gặp gỡ ở nhà của người anh em của tôi, tại Đức quốc, khi mà dường như việc thỏa thuận về Tín Lý Công Chính Hóa đã bất thành. Nhờ đó, trong diễn trình của một cuộc tranh luận kéo dài cả một ngày trời, chúng tôi đã tìm thấy được những công thức làm sáng tỏ những điểm vẫn còn gặp trục trặc… Với công thức được dẫn giải vào những ngày ấy, theo cả Liên Hiệp Luthêrô lẫn giáo huấn của Công Giáo, họ đã có thể công nhận rằng họ đi đến việc thỏa thuận về một số điển nồng cốt của Tín Lý Công Chính Hóa. Nó không phải là một việc thỏa thuận có tính cách toàn cầu, thế nhưng, với công thức này mới có thể tiến đến chỗ ký vào một văn bản thỏa thuận ở những gì căn bản”.   

Căn cứ vào chiều hướng lịch sử và những dấu chỉ thời đại, người viết này, trong cuốn “Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Vị Giáo Hoàng Của Hiệp Nhất Kitô Giáo Và Cho Một Tân Âu Châu” (Cao-Bùi, 5/2005, trang 114-115), đã dự đoán tiến trình và đường lối Đại Kết Kitô Giáo có thể sẽ xẩy ra như thế này:

 

Nếu chuyến về Balan đầu tiên của Đức Gioan Phaolô II vào tháng 6/1979, như lịch sử chứng thực, là một biến cố quyết liệt đã đưa đến Biến Cố Đông Âu sụp đổ đúng 10 năm sau đó, thì biết đâu chuyến về quê hương lần đầu tiên vào tháng 8/2005 này của vị giáo hoàng người Đức cũng có một tác dụng làm cho Âu Châu thực sự trở thành một Khối Hiệp Nhất như vậy. Nếu Công Đoàn Liên Đới ở Balan là một lực lượng bất bạo động đã làm sụp đổ cả Khối Đông Âu thế nào, thì chỉ cần Khối Liên Hiệp Thế Giới Lutherô ở Đức Quốc, một tổ chức đã chính thức ký kết với Giáo Hội Công Giáo Bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa ngày 31/10/1999, công khai trở về với Giáo Hội Công Giáo, các cộng đoàn giáo hội Kitô giáo Tây phương khác cũng theo nhau trở về với Giáo Hội Công Giáo”.

 

Hiện nay chúng ta đang thấy có những dấu hiệu rất khả quan đầy vui mừng và hy vọng hiện lên ở chân trời đại kết Kitô Giáo. Chẳng hạn như những sự kiện sau đây.

 

Đức Hồng Y Walter Kasper, chủ tịch Hội Đồng Hiệp Nhất Kitô Giáo, cập nhật hóa lộ trình Đại Kết

 

Đức Hồng Y Walter Kasper, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Việc Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo, trong cuộc phỏng vấn được phổ biến hôm Thứ Bảy 10/9/2005 trên một tờ nhật báo Ý là La Pubblica, đã cho biết đại quan về lộ trình đại kết Kitô giáo như sau.

 

“Tất cả mọi vị lãnh đạo của Chư Giáo Hội Kitô Giáo đều rất hân hoan khi vị Giáo Hoàng này tuyên bố rằng vấn đề hiệp nhất là vấn đề ưu tiên.

 

“Với Tòa Thượng Phụ Chính Thống Hoàn Vũ ở Constantinople, chúng tôi đang tái tấu Ủy Ban Hỗn Hợp Công Giáo và Chính Thống Giáo. Một cuộc gặp gỡ sửa soạn sẽ được thực hiện vào tháng 12, và vào mùa xuân năm 2006 toàn thể ủy ban sẽ gặp nhau”.

 

Ngoài ra, Đức Thượng Phụ Bartholomew I của tòa thượng phụ này đã lên tiếng mời ĐTC Biển Đức XVI đến viếng thăm Istanbul vào ngày 30/11/2005 là lễ Thánh Anrê tới đây.

 

Về vấn đề liên hệ với Tòa Thượng Phụ Chính Thống Moscow, vị hồng y chủ tịch này khẳng định là “bầu khí đã được cải tiến”, điều kiện thuận lợi cho việc gặp gỡ giữa ĐTC Biển Đức XVI và Thượng Phụ Alexy II, “nhưng có lẽ không ở tại Moscow mà có thể ở một địa điểm thứ ba”.

 

“Cho đến nay, Thượng Phụ Alexy II đã nói rằng chúng ta cần phải giải quyết những vấn đề gọi là Công Giáo dụ giáo ở Đông phương và vấn đề Uniatism (vấn đề một số Giáo Hội Chính Thống xưa tái hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo). Theo tôi nghĩ, cuộc gặp gỡ này có thể xẩy ra nếu soạn dọn thích đáng một bản tuyên ngôn chung”.

 

“Chúng tôi đã nói với Thượng Phụ Alexy rõ ràng rằng vấn đề dụ giáo không phải là vấn để chủ ý, không phải là vấn đề chính trị, không phải là chiến thuật của Giáo Hội Công Giáo. Nếu cả đôi bên có những lỗi lầm xẩy ra ở Siberia thì tốt nhất là nói với các vị giám mục địa phương”.

 

Đối với Liên Hiệp Luthêrô, vị hồng y này cho biết “các mối liên hệ rất là tốt đẹp. Vào Tháng 10, chúng tôi sẽ phổ biến một bản văn kiện chung về tính cách tông truyền của Giáo Hội và việc thừa kế tông đồ… một văn kiện rất giá trị”.

 

Ngoài ra, “tín hữu Methodist, vào năm tới, muốn tham phần vào bản văn kiện được chúng tôi ký nhận với tín hữu Luthêrô về vấn đề công chính hóa”, vào ngày 31/10/1999 tại Đức quốc.

 

“Bản Tuyên Cáo Seattle” về Thánh Mẫu giữa Anh Giáo và Công Giáo

 

Trước hết, dấu hiệu hướng về hiệp nhất phát hiện từ Kitô Giáo Anh Quốc, một Giáo Hội đã tác khỏi Giáo Hội Công Giáo Rôma từ năm 1535, và là một Giáo Hội vẫn bất đồng với Giáo Hội Công Giáo về hai tín điều Thánh Mẫu là Tín Điều Vô Nhiễm Nguyên Tội và Tín Điều Mông Triệu, cũng như về việc tôn sùng Thánh Mẫu của những người Công giáo. Thế mà, Ủy Ban Quốc Tế Anh Giáo và Công Giáo Rôma (ARCIC: Anglican Roman Catholic International Commission), bao gồm 18 thần học gia thuộc 10 quốc gia của cả hai bên, hôm Thứ Hai 16/5/2005, đã phổ biến văn kiện đúc kết 6 năm bàn luận về hình ảnh Đức Maria, với tựa đề “Đức Maria: Ân Sủng và Hy Vọng trong Chúa Kitô”.

 

Bản văn kiện này được phổ biến trong một cuộc cử hành tại vương cung Thánh Đường Công Giáo ở TGP Seattle, với sự hiện diện của cả 2 vị đồng chủ tịch là TGM Công Giáo Alexander Brunett và TGM Anh Giáo Peter Carnley, giáo chủ Úc Châụ Bản văn này còn được gọi là “Bản Tuyên Cáo Seattle” không phải là một bản tuyên ngôn có thẩm quyền hoặc bởi Công giáo hay Anh giáo nhưng có mục đích để đôi bên bàn luận hơn nữa.

 

ĐHY Cormac Murphy-O’Connor, TGM Công Giáo ở Westminster, đã nhận định là bản văn kiện này “là một thành đạt chính yếu trong cuộc đối thoại đang diễn tiến giữa người Công giáo và Anh giáo hoàn vũ. Nó là một thành đạt trong việc gia tăng vấn đề hiểu biết sâu xa nơi chủ trương của mỗi giáo hội”.

 

ĐGM McMahon Công giáo ở Nottingham nói rằng: “Việc hiểu biết của người Anh giáo và Công giáo đã được củng cố rất nhiều bởi cuộc đối thoại nàỵ Những gì chúng ta đã thực hiện đó là dọn đường dẫn đến vấn đề hiệp nhất Kitô giáo”.

Cha Donald Bolen, linh mục Công giáo đồng thư ký của ủy ban này và là trợ tá cho ngành Tây Phương của Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Hiệp Nhất Kitô Giáo, trong cuộc phỏng vấn với mạng điện toán toàn cầu Zenit (và bài phỏng vấn đã được Zenit phổ biến ngày 18-19/5/2005), đã cho biết các nhà thần học Anh Giáo đã công nhận hai tín điều Thánh Mẫu và việc tôn sùng Thánh Mẫu của Giáo Hội Công Giáo là những gì hợp với Thánh Kinh.

 

Trước hết, về tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, vị linh mục này cho biết khoản số 59 viết rằng:

 

           Theo ơn gọi là Mẹ Đấng Thánh của Người (x Lk 1:35), chúng ta có thể cùng nhau xác nhận là công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô đã đạt đến ở nơi Đức Maria tầm mức sâu thẳm hữu thể của Người cũng như vào những giây phút ban đầu của Ngườị Điều này không ngược với giáo huấn của Thánh Kinh, và chỉ có thể hiểu được theo chiều hướng Thánh Kinh. Những người Công giáo Rôma có thể nhìn nhận nơi điều này những gì đã được tín điều ấy xác nhận – tức là vấn đề ‘được gìn giữ khỏi tất cả mọi tì vết nguyên tộí và ‘từ giây phút đầu tiên khi Người được hoài thaí”.

 

Sau nữa, về tín điều Mông Triệu, vị linh mục này cũng cho biết những chi tiết liên quan đến khoản số 56 và 58 như thế này:

 

      “Dù ‘không có chứng cớ trực tiếp trong Thánh Kinh liên quan đến việc kết thúc cuộc sống của Đức Mariá (56), ‘Kitô hữu Đông Tây từ đời nọ đến đời kia vẫn nghĩ về công cuộc của Thiên Chúa nơi Đức Maria, họ đều ý thức một cách tin tưởng rằng… thật là xứng hợp việc Chúa đã triệu Người về với Ngài một cách trọn vẹn: trong Chúa Kitô, Người đã là một tạo vật mới…’ (58). Một lần nữa, khi liên kết ý thức về ân sủng và niềm hy vọng này nơi đời sống của Đức Maria với tín điều Mông Triệu của Đức Maria, bản văn nhận định là: ‘chúng ta có thể cùng nhau xác nhận giáo huấn Thiên Chúa đã mang Đức Trinh Nữ Maria vào vinh quang tất cả con người của Người là những gì hợp với Thánh Kinh, và giáo huấn ấy thực sự chỉ hiểu được theo chiều hướng Thánh Kinh như thế mà thôị Những người Công Giáo Rôma có thể nhìn nhận rằng giáo huấn này về Đức Maria được tuyên bố bằng một tín điềú” (58).

 

Sau hết, về việc tôn sùng Thánh Mẫu của Giáo Hội Công Giáo, vị linh mục này tiết lộ như sau:

 

      “Phần chính yếu cuối cùng của bản văn (64-75) nói đến vị trí của Đức Maria trong đời sống Giáo Hội, vấn đề liên quan tới việc tôn sùng Thánh Mẫụ Phần này được bắt đầu bằng việc mạnh mẽ xác nhận là: ‘Chúng ta cùng nhau đồng ý rằng với ý thức Đức Maria là mẫu gương trọn vẹn nhất của con người về đời sống ân sủng, chúng ta được kêu gọi để suy nghĩ đến những bài học về đời sống của Người được ghi nhận trong Thánh Kinh và liên kết với Người như một vị thực sự chưa qua đi song vẫn thực sự sống trong Chúa Kitô’ (65). Bản văn này nhấn mạnh là việc tôn sùng Thánh Mẫu và việc kêu cầu Đức Maria không thể nào làm lu mờ hay suy giảm vai trò trung gian duy nhất của Chúa Kitô. Bản văn kết luận: ‘Cùng nhau xác nhận một cách ý thức vai trò trung gian duy nhất của Đức Kitô, một vai trò mang lại hoa trái trong đời sống của Giáo Hội, chúng ta không coi việc kêu xin Đức Maria và các thánh nguyện cầu cho chúng ta như là một việc chia rẽ mối hiệp thông của chúng ta… chúng ta tin rằng không có lý do về thần học nào nữa về việc chia rẽ giáo hội liên quan tới các vấn đề nàý”.  

 

“Những người Luthêrô Phần Lan chúng tôi muốn trở thành phần tử thuộc Giáo Hội Công Giáo”

 

Chưa hết, dấu hiệu hiệp nhất phải nói là rạng ngời nhất được phát hiện từ Kitô Giáo Luthêrô. Thật vậy, trong Hội Nghị Thánh Thể Ý Quốc ở Bari, nơi Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đến để bế mạc hội nghị này vào Chúa Nhật 29/5/2005, thì hôm Thứ Tư, 25/5/2005, ngày hội nghị giành để bàn về vấn đề đại kết Kitô giáo, có một vị Giám Mục Luthêrô ở Helsinki là Eoro Huovinen đã bày tỏ trong hội nghị này là các người Luthêrô Phần Lan muốn trở thành phần tử thuộc Giáo Hội Công Giáo của Chúa Kitô.

 

Sau khi giải thích rằng Martin Luthêrô không muốn thành lập một giáo hội mới mà chỉ muốn canh tân giáo hội thôi, vì giám mục này nói:

 

Những người Luthêrô Phần Lan chúng tôi muốn trở thành phần tử thuộc Giáo Hội Công Giáo của Chúa Kitô”.

 

Vị giám mục này đã cắt nghĩa rằng trong năm 2005, cùng với những người Công giáo và các Kitô hữu khác, những người Luthêrô cử hành 850 năm Giáo Hội ở Phần Lan. Những người Luthêrô chiếm 85% trong tổng số 5.2 triệu dân ở nước nàỵ

 

Cùng với anh chị em Công Giáo, chúng ta hãy cầu nguyện để có thể là một trong Chúa Kitô”.

 

Đối với đề tài về Chúa Nhật của Hội Nghị Thánh Thể này, vị giám mục Luthêrô nói rằng người ta không thể nào sống “không có bí tích Thánh Thể, không có Chúa Kitô và không có Thiên Chúạ Chúa Nhật là ngày Chúa Kitô phục sinh. Thánh Thể là bí tích của việc Chúa Kitô thực sự hiện diện. Hiệp nhất không có hiệu lực khi thiếu sự thật… Tận đáy lòng của mình, tôi muốn tham dự vào ngày mà người Luthêrô và Công giáo cùng nhau hiệp nhất một cách hữu hình”.  

 

Bản Tuyên Ngôn Chung giữa Công Giáo và Tin Lành ở Á Căn Đình về Việc Xin Tha Thứ Cho Nhau

 

Trong thời khoảng 2-4/7/2005, ở Buenos Aires đã diễn ra một cuộc Gặp Gỡ Huynh Đệ lần 2 được gọi là Mối Hiệp Thông Mới Giữa Tin Lành Và Công Giáo Trong Thần Linh CRECES (Renewed Communion of Evangelicals and Catholics in the Spirit). Trong cuộc Gặp Gỡ này, các nhân vật Công giáo và tin lành tìm thấy một lãnh vực mới của việc hiệp ý chung, đó là nhu cầu cần tha thứ cho nhau về những bất đồng của mình.  

ĐHY Jorge Mario Bergoglio, TGM Buenos Aires, trong thư gửi cho Cuộc Gặp Gỡ này đã viết: “Tôi thành thật khuyến khích anh chị em hãy bảo trì con đường chúc tụng và tôn thờ, hòa giải và đại kết thiêng liêng này, một con đường anh chị em đã thực hiện năm ngoái”.

 

Niềm hy vọng của các phần tử CRECES được phản ảnh qua Bản Tuyên Ngôn Chung, đề ngày 2/7, một bản tuyên ngôn được trình bày trong cuộc gặp gỡ ấy.

 

“Chúng tôi là những người Công giáo và tin lành, thành phần cảm nghiệm được Chúa Kitô phục sinh, Đấng nhờ Thánh Thần của Người là một tặng ân đã canh tân đời sống thiêng liêng của chúng ta.

 

“Cuộc canh tân thiêng liêng này đã dẫn chúng ta đến chỗ tái dấn thân sống cho Chúa Giêsu Kitô”. Từ kinh nghiệm Thánh Linh ấy, thành phần tham dự viên Công giáo và tin lành nói rằng họ hiểu rằng Giáo Hội là “dân Chúa, là gia đình Chúa”.

 

“Tất cả chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa, dù là tin lành hay Công giáo, đều là con của cùng Cha, và vì thế là anh em của nhau. Chúa Kitô chỉ muốn một Giáo Hội duy nhất, và ngài muốn Giáo Hội của Người bộc lộ trong thế giới mối hiệp nhất và thánh đức là những gì làm nên đặc tính của Thiên Chúa.

 

“Hôm nay đây, những người tin lành và Công giáo, được canh tân bởi Thánh Linh, thống hối về những thứ chia rẽ của mình và những việc xúc phạm lẫn nhau, nên xin nhau tha thứ…. Chúng tôi nhìn nhận rằng tội lỗi lớn nhất của chúng tôi đó là không yêu thương nhau như Chúa Kitô dạy chúng ta”.

 

Những người phát động tổ chức CRECES này đã nói với mạng điện toán toàn cầu Zenit rằng CRECES “được xuất phát từ nỗi khát vọng được Thánh Linh tác động nơi lòng của một số anh chị em Công giáo và tin lành, thành phần không hề biết đến nỗi khát vọng ấy, đã nguyện cầu về phần mình để xin Chúa soi động một đường lối chung nào đó trong việc tiến đến chỗ làm trọn lời Chúa Giêsu cầu cùng Cha vào đêm Người bị bội phản rằng: Lạy Cha ‘xin cho họ tất cả được hiệp nhất… để thế gian nhận biết Cha đã sai Con’”.

 

Mở màn cho một đường lối chung được bắt đầu bằng việc Matteo Calisi viếng thăm Buenos Aires vào Tháng 7/2003. Qua một số năm, Calisi và vị mục sư tin lành Jorge Minitian đã gặp nhau ở Ý, chia sẻ cùng một ước vọng hiệp nhất.

 

Sau cuộc gặp gỡ lần đầu tiên ở Buenos Aires, 4 vị mục sự tin lành và 4 giáo dân Công giáo bắt đầu gặp nhau hằng tháng để cầu nguyện và nhận thức ý muốn của Thiên Chúa về nỗ lực hòa giải và hiệp nhất ấy. Cuộc Gặp Gỡ đầu tiên đã diễn ra vào ngày 31/7/2004.

 

Matteo Calisi là chủ tịch của tổ chức Huynh Đệ Thế Giới Chư Hiệp Hội Và Cộng Đồng Đặc Sủng Giao Ước và là vị sáng lập kiêm chủ tịch Cộng Đồng Chúa Giêsu, một nhóm đặc sủng Công giáo bắt nguồn ở Bari Ý quốc.  

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI gặp Vị Thừa Kế TGM Lefebvre về Việc Tái Hiệp Thông


Hôm 29/8/2005, tại tông điện nghỉ mát ở Castel Gandolfo, ĐTC Biển Đức XVI đã tiếp ĐGM Bernard Fellay, vị thừa kế ĐTGM Marcel Lefebvre lãnh đạo Hội Thánh Piô X, vị “muốn tiến đến chỗ hiệp thông trọn vẹn”.


Theo vị giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh là Joaquín Navarro Valls thì trong cuộc gặp gỡ này có cả ĐHY Darío Castrillón Hoyos, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh ‘Ecclesia Dei’, một tổ chức được Đức Gioan Phaolô II thiết lập bằng một tự sắc ngày 2/7/1988, sau khi ĐTGM Lafebvre truyền chức bất hợp pháp cho 4 vị giám mục của mình ở Ecône.


Vị giám đốc văn phòng báo chí còn cho biết là “cuộc họp diễn ra trong một bầu không khí mến yêu Giáo Hội và mong muốn tiến tới chỗ hoàn toàn hiệp thông. Nhận thức được những khó khăn nên lòng mong ước thực hiện những bước tiến sẽ từ từ diễn tiến theo thời điểm hợp tính hợp lý”.


Sau cuộc họp này, vì giám mục đại diện cho Hội Thánh Piô X đây đã phát biểu qua một bản văn là “cuộc họp ấy kéo dài 35 phút trong một bầu khí thanh thản. Cuộc triều kiến này là cơ hội để Hội này bày tỏ là nó lúc nào cũng luôn luôn gắn bó với Tòa Thánh, Vĩnh Thành Rôma. Trong tinh thần hết sức mến yêu Giáo Hội, chúng tôi đã nhắc lại một chuỗi những khó khăn đã từng xẩy ra. Hội Thánh Piô X nguyện xin cho ĐTC được mạnh sức để chấm dứt cuộc khủng hoảng trong Giáo Hội, ‘phục hồi mọi sự trong Chúa Kitô’”.


Trước cuộc triều kiến giáo hoàng, vị giám mục này đã nói với cơ quan báo chí DICI thuộc nhóm của ngài rằng nếu được gặp ĐTC Biển Đức, ngài sẽ yêu cầu 2 điều: trước hết là cho tất cả mọi vị linh mục có thể cử hành Lễ cũ mà không cần phải xin phép vị giám mục địa phương theo như điều kiện đòi hỏi hiện nay; sau nữa là việc công khai rút lại vấn đề dứt phép thông công liên quan tới việc truyền chức cho 4 vị giám mục của hội ngài.  

3)         KIẾN TẠO HÒA BÌNH THẾ GIỚI

 

Xác Quyết Dấn Thân Thực Hiện

 

Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần lần đầu tiên Thứ Tư 27/4/2005

 

“Sau cái chết thánh đức của vị tiền nhiệm đáng kính Gioan Phaolô II của mình, những buổi triều kiến chung vào Thứ Tư hằng tuần theo truyền thống được bắt đầu lại hôm nay. Trong buổi gặp gỡ đầu tiên này, trước hết, tôi muốn chia sẻ về danh hiệu tôi đã chọn khi trở thành vị giám mục Rôma và vị chủ chiên của Giáo Hội hoàn vũ. Tôi đã chọn cho mình danh hiệu giáo hoàng Biển Đức XVI thực sự là có liên hệ tới vị Giáo Hoàng đáng kính Biển Đức XV, vị đã hướng dẫn Giáo Hội qua thời biến loạn của Thế Chiến Thứ Nhất. Ngài thực sự là một vị ngôn sứ can trường của hòa bình đã đấu tranh một cách hăng hái và can trường, trước hết là để tránh thảm kịch chiến tranh, sau đó là để hạn chế những hậu quả kinh khiếp của nó. Tôi thực hiện thừa tác vụ của tôi theo bước chân của ngài, trong việc phục vụ cho vấn đề hòa giải và hòa hợp giữa các dân tộc, hết sức tin tưởng rằng sự thiện cao cả hòa bình trước hết là tặng ân Chúa ban, một tặng ân mong manh nhưng quí hóa cần phải được kêu nài, bảo toàn và kiến tạo hằng ngày bằng việc đóng góp của hết mọi người”.

 

Diễn Từ với phái đoàn Liên Tôn Thứ Hai 25/4/2005

 

“Giờ đây tôi xin hướng về quí vị, quí bạn thuộc các truyền thống tôn giáo khác nhau thân mến, và tôi chân thành cám ơn quí vị về sự hiện diện của quí vị ở buổi lễ đăng quang long trọng cho giáo triều của tôi…. Tôi đặc biệt cám ơn về sự hiện diện nơi chúng tôi các phần tử thuộc cộng đồng Hồi giáo, và tôi xin bày tỏ niềm tri ân về việc phát triển đối thoại giữa những người Hồi giáo và Kitô giáo, cả ở cấp địa phương lẫn quốc tế. Tôi cam đoan với quí vị là Giáo Hội này muốn tiếp tục bắc những chiếc cầu nối thân hữu với tín đồ của tất cả mọi tôn giáo, để tìm kiếm sự thiện thực sự cho hết mọi người cũng như cho toàn thể xã hội.

 

”Thế giới mà chúng ta đang sống đây thường bị đánh dấu bằng những cuộc xung khắc, bạo lực và chiến tranh, thế nhưng nó vẫn thiết tha mong được hòa bình, một hòa bình trước hết là tặng ân của Thiên Chúa, một hòa bình chúng ta không ngừng cầu mong. Tuy nhiên, hòa bình cũng là một nhiệm vụ cần tất cả mọi người dấn thân thực hiện nữa, nhất là những ai tuyên bố mình thuộc về các truyền thống tôn giáo. Những nỗ lực của chúng ta trong việc tiến đến với nhau và duy trì việc đối thoại là một đóng góp sáng giá để dựng xây hòa bình trên những nền tảng vững chắc vậy. Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiền nhiệm đáng kính của tôi đã viết vào lúc mở màn cho một tân thiên niên kỷ là ‘Danh xưng của Vị Thiên Chúa duy nhất càng ngày càng phải trở thành những gì theo đúng như bản chất của mình, tức là một danh xưng của hòa bình và là một lời hiệu triệu hòa bình’ (Tông Thư Mở Màn Cho Một Tân Thiên Kỷ, 55). Bởi thế, cần phải dấn thân vào cuộc đối thoại chân thực và thành thực, dựa trên việc tôn trọng phẩm vị của hết mọi con người được dựng nên, như Kitô hữu chúng tôi tin tưởng, theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa (x Gen 1:26-27).


”Vào lúc mở màn cho giáo triều của mình, tôi xin ngỏ cùng tất cả quí vị, cũng như với các tín đồ thuộc các truyền thống tôn giáo được tiêu biểu nơi đây, và tất cả những ai đang tìm kiếm Chân Lý bằng một tấm lòng chân thành, lời mời gọi thiết tha hãy cùng nhau trở thành những kiến trúc sư của hòa bình, bằng việc cùng quyết tâm thông cảm, tôn trọng và yêu thương nhau”.

 

Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 1/1/2006

 

“Sứ Điệp đầu tiên cho Ngày Hòa Bình Thế Giới đây là để tiếp theo đường lối giáo huấn cao quí của các vị; qua sứ điệp đây, tôi muốn lập lại quyết tâm mạnh mẽ của Tòa Thánh trong việc tiếp tục phục vụ lý tưởng hòa bình. Chính danh hiệu Biển Đức tôi đã chọn trong ngày được tuyển lên Tòa Thánh Phêrô là dấu hiệu việc cá nhân tôi dấn thân cho hòa bình. Trong việc nhận danh hiệu này, tôi muốn gợi lên cho thấy cả Vị Thánh Quan Thày của Âu Châu là vị đã khơi dậy một nền văn minh hòa bình ở khắp châu lục này, lẫn Giáo Hoàng Biển Đức XV là vị đã lên án Thế Chiến Thứ Nhất như là một ‘tàn sát vô ích’ ("Appeal to the Heads of the Warring Peoples," [1 August 1917]: AAS 9 [1917], 423.)”.

 

“Hòa Bình Trong Chân Lý”

 

Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 1/1/2006

 

3.         Đề tài tôi chọn để suy nghĩ trong năm nay là “Hòa bình trong chân lý”, một đề tài nói lên niềm xác tín là bất cứ ở đâu và bất cứ khi nào con người nam nữ được soi động bởi ánh quang chân lý, thì, theo tự nhiên, họ mới bắt đầu thực hiện con đường hòa bình. Hiến Chế Mục Vụ “Vui Mừng và Hy Vọng”, được ban hành 40 năm trước đây vào lúc kết thúc Công Đồng Chung Vaticanô II, đã nói rằng loài người sẽ không thành đạt trong “việc xây dựng một thế giới thực sự nhân bản cho mọi người, mọi nơi trên trái đất, trừ phi tất cả mọi người được canh tân trong tinh thần và hướng về hòa bình đích thực” (khoản 77). Thế nhưng ý nghĩa thực sự của những lời “hòa bình đích thực” đây là gì? Để giải đáp một cách trọn vẹn cho câu hỏi này, chúng ta cần phải nhận thứ rằng hòa bình không thể trở thành việc thuần túy không xẩy ra tình trạng xung đột võ trang, song cần được hiểu là “hoa trái của một trật tự đã được vun trồng nơi xã hội loài người bởi Đấng Sáng Lập thần linh”, một trật tự “cần phải được nhân loại thực hiện theo nỗi khát khao có được một nền công lý trọn hảo hơn bao giờ hết” (cùng nguồn vừa dẫn, khoản 78). Là thành quả của một trật tự theo dự định và mong muốn của Thiên Chúa, hòa bình chất chứa một sự thật nội tại và bất khuất, tương ứng “với niềm trông mong và hy vọng không thể cầm hãm trong chúng ta” (John Paul II, "Message for the 2004 World Day of Peace," 9).

 

4.         Được nhìn theo chiều hướng ấy, hòa bình trở nên như một tặng ân từ trời và là một ân sủng thần linh là những gì đòi hết mọi tầng lớp thi hành trách nhiệm cao cả nhất, đó là trách nhiệm làm cho lịch sử loài người – trong chân lý, công lý, tự do và yêu thương – hợp với trật tự thần linh. Bất cứ khi nào mất đi tính cách trung thành với trật tự siêu việt ấy, cũng như mất đi việc tỏ ra tôn trọng “cái văn phạm” của vấn đề đối thoại là lề luật luân lý phổ quát được in ấn nơi tâm can con người (Cf. John Paul II, "Address to the Fiftieth General Assembly of the United Nations," [5 October 1995], No. 3), bất cứ khi nào việc phát triển toàn diện con người và việc bảo vệ các thứ quyền lợi nống cốt của họ gặp trở ngại hay bị chối bỏ, bất cứ khi nào vô vàn con người ta bị buộc phải chịu đựng những thứ bất chính và bất công bất khả chấp, thì làm sao chúng ta có thể hy vọng rằng sự thiện hòa bình được hiện thực? Những yếu tố thiết yếu làm nên sự thật của sự thiện ấy bị thiếu hụt. Thánh Âu Quốc Tinh đã diễn tả hòa bình là “transquillitas ordinis”, ("De Civitate Dei," XIX, 13), tức tình trạng quân bình về trật tự. Nói như thế là ngài có ý nói rằng một tình trạng nhằm giúp cho sự thật về con người được hoàn toàn tôn trọng và hiện thực.

 

6.         Hòa bình là ước vọng không thể đè nén nơi tâm can của mỗi một người, bất kể căn tính văn hóa chuyên biệt của họ. Bởi thế, hết mọi người cần phải cảm thấy quyết tâm phục vụ sự thiện cao cả này, và cần phải cố gắng ngăn ngừa những mối liên hệ cho khỏi bị đầu độc bởi bất cứ hình thức dối trá nào. Tất cả mọi người đều là phần tử của cùng một gia đình duy nhất. Việc tôn vinh quá đáng về những cái khác biệt là những gì đụng độ với sự thật nồng cốt này. Chúng ta cần phải tái nhận thức là chúng ta có cùng một định mệnh là những gì siêu việt tối hậu, nhờ đó tối đa hóa những khác biệt về lịch sử và văn hóa của chúng ta, không phải ở chỗ kình chống nhau mà là hợp tác với thành phần thuộc về các nền văn hóa khác.  Những sự thật đơn giản này là những gì làm cho hòa bình trở thành khả dĩ; chúng là những chân lý dễ hiểu khi chúng ta lằng nghe tâm can của mình bằng những ý hướng tinh tuyền. Như thế, hòa bình mới được thấy ở một chiều hướng mới: không phải ở chỗ không xẩy ra chiến tranh, mà là một cuộc chung sống thuận hòa giữa người công dân với nhau trong một xã hội được công lý cai quản, một xã hội có được sự thiện hòa bình này cho từng người trong họ bao nhiêu có thể. Hòa bình đích thực kêu gọi mọi người hãy vun trồng những mối liên hệ phong phú và chân thành; nó phấn khích họ tìm kiếm và đi theo đường lối thứ tha và hòa giải, thanh liêm nơi việc họ đối xử với nhau, và trung thành với lời nói của mình.

 

9.         Ngày nay, hòa bình đích thực tiếp tục bị tổn thương và bị loại trừ bởi nạn khủng bố với những đe dọa và các cuộc tấn công đẩy thế giới vào một tình trạng sợ hãi và bất an. Các vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI và Gioan Phaolô II thường nêu lên trách nhiệm ghê gớm của thành phần khủng bố phải chịu, đồng thời các vị cũng lên án các sách lược bất lương và chết chóc của họ. Những hành động ấy thường là hoa trái của chủ nghĩa tuyệt mệnh là chủ nghĩa được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II diễn tả bằng những lời lẽ như sau: “Những ai sát hại bằng những hành động khủng bố thực sự là những người chán chường về nhân loại, về sự sống, về tương lai. Theo quan điểm của họ thì cần phải thù ghết và hủy diệt đi tất cả mọi sự” (Message for the 2002 World Day of Peace, 6). Chẳng những chủ nghĩa tuyệt mệnh mà còn cả chủ nghĩa cuồng tín là chủ nghĩa ngày nay thường đươc gán cho cái tên là chủ nghĩa cực bảo thủ, cũng tác dụng và khích động ý nghĩ và hoạt động khủng bố nữa. Ngay từ ban đầu, Đức Gioan Phaolô II đã thấy được cái nguy hiểm bùng phát này dưới hình thức bảo thủ cuống tín, và ngài đã nghiêm nghị lên án nó, trong khi đó ngài cảnh cáo những nổ lực muốn áp đặt hơn là trình bày cho người khác tự tình chấp nhận theo niềm xác tín của họ về sự thật. Ngài đã viết: “Việc cố gắng áp đặt lên kẻ khác bằng phương tiện võ lực những gì mình coi là chân lý là việc vi phạm tới phẩm vị của con người, và trên hết là phạm đến Thiên Chúa nơi họ là hình ảnh của Ngài” (cùng nguồn vừa dẫn).

 

 

Hòa Bình cần Dấn Thân

 

Diễn Từ Mừng tân Niên với Phái Đoàn Ngoại Giao Chư Quốc ngày Thứ Hai 9/1/2006

 

Hòa bình, than ôi, đang bị trở ngại hay phá hoại hoặc bị đe dọa ở nhiều phần đất trên thế giới. Đâu là đường lối dẫn đến hòa bình? Trong Sứ Điệp tôi gửi cho Ngày Thế Giới Hòa Bình năm nay, tôi đã nói rằng: ‘Bất cứ ở đâu và bất cứ khi nào con người nam nữ được soi động bằng ánh quang chân lý, thì họ mới có thể bắt đầu con đường hòa bình’ (đoạn 3). Hòa Bình trong chân lý”.

 

Việc dấn thân cho sự thật là linh hồn của công lý.

 

Điểm thứ nhất đó là việc dấn thân cho sự thật là linh hồn của công lý. Những ai dấn thân cho sự thật không thể nào lại không loại trừ đi luật của sức mạnh là thứ luật bắt nguồn từ dối trá và rất hay thường gây thê lương cho lịch sử của con người, quốc gia cũng như quốc tế. Cái dối trá này thường tỏ mình ra như là chân lý, nhưng thực tế bao giờ nó cũng là những gì chọn lựa và có dụng ý, vị kỷ mưu đồ mạo dụng con người, để rồi cuối cùng khống chế con người. Những chế độ chính trị trong quá khứ, song không phải chỉ có trong quá khứ, đã là một điển hình xót xa về điều này. Ngược lại, có sự thật và sự trung thực là những gì dẫn đến việc gặp gỡ người khác, dẫn đến việc chân nhận và cảm thông: sự thật không thể nào không tỏa ra qua ánh quang nổi bật của mình – rạng ngời chân lý splendor veritatis; và lòng mến yêu sự thật tự bản chất là những gì hướng tới sự hiểu biết cũng như việc tái hữu nghị một cách chính đáng và vô tư không thiên vị, cho dù có khó khăn mấy đi nữa. 

 

Việc dấn thân cho sự thật là những gì thiết lập và củng cố quyền tự do

 

Điểm thứ hai tôi muốn nói tới là thế này: việc dấn thân cho sự thật là những gì thiết lập và củng cố quyền tự do. Cái cao cả đặc thù của con người trên hết là ở khả năng nhận biết chân lý. Và con người muốn biết sự thật. Tuy nhiên, sự thật chỉ có thể đạt được trong tự do. Điều này áp dụng cho tất cả mọi sự thật, như hiển nhiên thấy nơi lịch sử của khoa học; thế nhưng nổi bật nhất là những sự thật mà trong đó chính bản thân thực sự của con người lại đang gặp nguy hiểm, những sự thật về thần linh, những sự thật về thiện ác, về những mục đích cao cả và về chân trời của cuộc sống, về những liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa. Những sự thật này không thể đạt tới mà lại không mang lại thành quả sâu xa cho đường lối sống của chúng ta. Và một khi được tự do chiếm đoạt, chúng đòi hỏi một phạm vi rộng lớn của tự do, nếu chúng được sống một cách xứng hợp với hết mọi chiều kích của đời sống con người.

Tiếc thay, ở một số Quốc Gia, thậm chí nơi những quốc gia có thể hãnh diện về truyền thống văn hóa ngàn năm thì tự do tôn giáo chẳng những không được bảo đảm mà lại còn bị vi phạm trầm trọng nữa, nhất là ở những nơi có thành phần thiểu số. Ở đây tôi chỉ xin nhắc lại những gì đã được phác họa rất rõ ràng trong Bản Hiến Chương Chung về Nhân Quyền. Các quyền lợi căn bản của con người đều là những gì giống nhau ở mọi nơi; trong đó, cần phải chú trọng tới vị trí cao cả của quyền tự do tôn giáo, vì nó bao gồm những mối liên hệ quan trọng nhất của con người, đó là mối liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa. Tôi xin nói cùng tất cả những ai có trách nhiệm với đời sống của Chư Quốc là, nếu quí vị không sợ sự thật thì quí vị chẳng lo gì tự do! Tòa Thánh, trong việc yêu cầu quyền tự do chân thực cho Giáo Hội Công Giáo ở khắp nơi cũng yêu cầu quyền tự do ấy cho hết mọi người nữa.

 

Việc dấn thân cho chân lý là những gì mở đường cho thứ tha và hòa giải

 

Giờ đây tôi sang tới điểm thứ ba, đó là việc dấn thân cho chân lý là những gì mở đường cho thứ tha và hòa giải. Cái liên kết cần thiết giữa hòa bình và việc dấn thân cho chân lý này đã làm xuất phát ra tình trạng chống đối như thế này, đó là những xác tín khác nhau về chân lý gây ra những thứ căng thẳng, hiểu lầm, tranh cãi, và nếu tất cả những tình trạng ấy càng trở nên nghiêm trọng hơn thì các niềm xác tín lại càng sâu xa hơn ở bên trong những tình trạng ấy. Theo giòng lịch sử thì những cái khác biệt ấy đã gây ra những cuộc đụng độ bạo lực, những cuộc xung đột về xã hội và chính trị, thậm chí những trận chiến tranh về tôn giáo nữa. Đó là sự thật không thể phủ nhận, thế nhưng, trong tất cả những trường hợp như thế, nó là thành quả của một chuỗi những nguyên nhân đồng phát chẳng dính dáng mấy hay chẳng dính dáng gì tới sự thật hay tôn giáo cả, mà do đó bao giờ nó cũng chỉ vì phương tiện được sử dụng không thích hợp với việc chân thành dấn thân cho chân lý hay với việc tôn trọng tự do theo đòi hỏi của chân lý. Đây là vấn đề liên quan tới Giáo Hội Công Giáo, liên quan tới những lầm lẫn trầm trọng xẩy ra trong quá khứ bởi một số phần tử của Giáo Hội cũng như bởi những tổ chức của Giáo Hội, Giáo Hội đã lên án những lầm lỗi ấy và đã không ngần ngại lên tiếng xin thứ tha. Điều này là những gì cần phải thực hiện theo đòi hỏi của việc dấn thân cho chân lý.

 

Ở đây tôi xin nhắc lại những lời lẽ khôn ngoan của Đức Gioan Phaolô II: “Không thể nào có hòa bình nếu không có công lý, không thể nào có công lý mà lại thiếu thưa tha” (Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2002). Tôi xin lập lại những lời này một cách khiêm nhượng và với lòng sâu xa yêu mến với các vị lãnh đạo chư quốc, nhất là với những nơi đau thương nhất bởi các cuộc xung đột về thể lý và luân lý và cần đến hòa bình nhất. Người ta nghĩ ngay tới nơi sinh hạ của Chúa Giêsu Kitô… tới Lebanon là nơi nhân dân nước này… và tới toàn thể Trung Đông, nhất là Iraq… tới Phi Châu, nhất là các xứ sở thuộc vùng Đại Hồ … tới nhân dân Darfur bất khả tự vệ … và tới nhiều quốc gia khác khắp thế giới đang là khấu trường cho cuộc xung đột bạo lực.

 

Việc dấn thân cho hòa bình mở đường cho những niềm hy vọng mới.

 

Giờ đây, tôi xin nói đến điểm cuối cùng: đó là việc dấn thân cho hòa bình mở đường cho những niềm hy vọng mới. Ở một nghĩa nào đó thì đây là điểm đúc kết tất cả những gì tôi nói tới. Con người có khả năng biết được sự thật! Họ có một khả năng liên quan tới các vấn đề quan trọng đối với hữu thể và tác hành: là một cá nhân và là một phần tử của xã hội, hoặc một nước hay toàn thể nhân loại. Hòa bình, những gì họ có thể và cần phải dấn thân cho, không phải chỉ là tình trạng im hơi lặng tiếng cuộc đụng chạm vũ khí; hơn thế nữa, nó là một thứ hòa bình có thể phấn khích những nghị lực mới trong các mối liên hệ quốc tế, những mối liên hệ trở thành phương tiện gìn giữ hòa bình. Thế nhưng, điều này có thể xẩy ra nếu những mối liên hệ ấy đáp ứng sự thật về con người và về phẩm giá của họ. Bởi thế mà người ta không thể nói về hòa bình ở những trường hợp con người thiếu thốn cả đến những nhu cầu căn bản nhất để sống xứng với phẩm giá của họ. Ở đây, tôi nghĩ tới vô vàn con người đang chịu đựng đói khổ. Không thể nói rằng họ sống trong hòa bình, cho dù họ không ở trong tình trạng chiến tranh: thật vậy họ là những nạn nhân bất khả tự vệ của chiến tranh. Ngay sau đó là những hình ảnh buồn thảm của các trại khổng lồ khắp thế giới cho những người di tản và tị nạn, thành phần sống trong những điều kiện hết sức cố gắng để thoát khỏi số phận tệ hại song vẫn sống trong cảnh thiếu thốn thảm khốc. Chẳng lẽ những con người này không phải là anh chị em của chúng ta hay sao? Con cái của họ không vào đời có cùng những niềm mong đợi được hạnh phúc như những đứa trẻ khác hay sao? Người ta cũng có thể nghĩ tới tất cả những ai bị những điều kiện sinh sống bất xứng buộc phải di tản xa nhà cửa và gia đình, ôm niềm hy vọng có được một cuộc sống nhân bản hơn. Chúng ta cũng không bỏ qua được nạn buôn người vẫn còn là những gì hổ ngươi ô nhục trong thời đại của chúng ta. 

 

Trước những “thứ nguy ngập về nhân đạo” này cũng như những thảm trạng nhân bản khác, nhiều người thiện tâm, cùng với các tổ chức quốc tế và các cơ quan phi chính phủ khác nhau, thật sự đã tỏ ra đáp ứng. Thế nhưng vẫn cần phải cố gắng nhiều hơn nữa từ toàn thể cộng đồng ngoại giao để cương quyết trong chân lý và can đảm quảng đại khắc phục những chướng vật vẫn còn cản trở những giải quyết nhân đạo hiệu nghiệm. Và sự thật đòi hỏi là không một Quốc Gia trù phú nào chối bỏ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong việc ra tay giúp đỡ, bằng cách trích ra một cách quảng đại hơn nữa các nguồn lợi của mình. Căn cứ vào những dữ kiện thống kê sẵn có, có thể nói rằng gần một nửa số lượng khổng lồ chi phí trên thế giới cho vấn đề vũ trang quá đủ để giải thoát vô số nhiều người nghèo khỏi cảnh cơ cực. Đây là điều thách đố lương tâm nhân loại. Việc dấn thân chung của chúng ta cho sự thật có thể và cần phải mang lại niềm hy vọng mới cho những người sống dưới mức nghèo khổ, phần nhiều là do bởi những mối liên hệ chính trị, thương mại và văn hóa quốc tế, hơn là bởi những hoàn cảnh vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của họ.