w

  

ĐIỂM MẶT

TÂM THỨC THỜI ĐẠI

 

  

 

Chủ Nghĩa Tương Đối Độc Đoán

 

Bài Giảng Thánh Lễ Khai Mạc Mật Nghị Hồng Y Bầu Tân Giáo Hoàng 18/4/2005

 

“Chúng ta hãy sang bài đọc thứ hai là thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô. Bài đọc này chính yếu có 3 vấn đề: trước hết là các thừa tác vụ và đặc sủng của Giáo Hội như những tặng ân của Chúa phục sinh đã về trời; rồi tới việc trưởng thành trong đức tin và trong nhận thức về Con Thiên Chúa như điều kiện và nội dung cho mối hiệp nhất của thân thể Chúa Kitô; và sau hết, việc tham dự chung vào việc tăng trưởng của Thân Thể Chúa Kitô, tức là việc biến đổi thế giới bằng mối hiệp thông với Thiên Chúa.

“Chúng ta hãy suy niệm về hai điểm. Điểm thứ nhất đó là con đường dẫn đến, như bản tiếng Ý dịch cách giản dị là ‘sự trưởng thành Chúa Kitô’. Cụ thể hơn, theo bản Hy ngữ, chúng ta cần phải nói về ‘tầm mức viên trọn của Chúa Kitô’ là tầm mức chúng ta được kêu gọi để thực sự trưởng thành trong đức tin. Chúng ta không được là trẻ con trong đức tin, trong tình trang non dại. Mà sống đức tin trẻ con nghĩa là gì? Thánh Phaolô trả lời rằng đó là ‘bị nghiêng ngả theo chiều gió chủ nghĩa’ Thật là một lời diễn tả rất ư là hợp thời!

 

“Biết bao nhiêu là chiều gió chủ nghĩa chúng ta đã từng biết đến trong mấy thập niên qua! Biết bao nhiêu là trào lưu ý hệ! Biết bao nhiêu là trường phái tư tưởng! Con tầu tư tưởng nhỏ bé của nhiều Kitô hữu thường bị xô lấn bởi những cơn sóng này, tung họ từ cực đoan này sang cực đoan kia: từ chủ nghĩa Marxít đến chủ nghĩa tự do, thậm chí đến chủ nghĩa duy tự do; từ chủ nghĩa tập thể đến chủ nghĩa cá nhân cực đoan; từ chủ nghĩa vô thần đến chủ nghĩa tôn giáo mập mờ bí hiểm; từ chủ nghĩa ngộ thức đến chủ nghĩa hòa đồng v.v.

 

“Ngày nào cũng có những thứ giáo phái mới, khiến cho những lời của Thánh Phaolô nói trở thành sự thật về việc con người bị lừa đảo, về cái tinh quái làm cho con người bị lầm lạc (x Eph 4:14). Có một đức tin minh tường, theo Kinh Tin Kính của Giáo Hội, thường bị gán cho là chủ nghĩa bảo thủ. Một khi chủ nghĩa tương đối, nói cách khác, một khi để cho mình ‘bị xô đẩy theo chiều gió chủ nghĩa’, thái độ duy nhất được cho là thích hợp với thời đại tân tiến, thì đó là lúc chủ nghĩa tương đối độc đoán được hình thành, một chủ nghĩa tương đối độc đoán cho rằng không có gì là tuyệt đối cả, và là một chủ nghĩa chỉ biết căn cứ vào cái tôi cùng với những ước muốn của cái tôi mà thôi”.

 

 

Sợ Bị Tước Đoạt Mất Tự Do

Bài Giảng Thánh Lễ Đăng Quang Giáo Hoàng 24/4/2005:

“Tới đây, tôi nghĩ về ngày 22/10/1978, ngày mà Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bắt đầu thừa tác vụ của mình tại Quảng Trường Thánh Phêrô đây. Những lời của ngài vào dịp ấy vẫn liên tục vang vọng trong tai tôi: ‘Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô!’ Vị Giáo Hoàng này đã ngỏ cùng thành phần thế lực, thành phần quyền lực của thế giới này, những thành phần sợ rằng Chúa Kitô có thể lấy đi một cái gì đó khỏi quyền lực của họ nếu họ để cho Người vào, nếu họ để cho đức tin được tự do. Phải, Người chắc chắn sẽ lấy đi một cái gì đó khỏi họ: đó là cái thế lực hư hoại, cái mạo dụng luật lệ và cái tự do để làm những gì họ thích. Thế nhưng, Người sẽ không lấy đi bất cứ điều gì liên quan đến tự do và phẩm vị của con người, hay liên quan đến việc dựng xây một xã hội chân chính.

 

“Vị Giáo Hoàng này cũng nói điều đó với hết mọi người, nhất là giới trẻ. Không phải tất cả chúng ta đều hãi sợ một cách nào đó hay chăng? Nếu chúng ta để cho Chúa Kitô hoàn toàn đi vào cuộc đời của mình, nếu chúng ta trọn vẹn cởi mở bản thân mình cho Người, chúng ta có sợ rằng Người có thể sẽ lấy đi khỏi chúng ta một cái gì đó hay chăng? Chẳng lẽ chúng ta không sợ phải từ bỏ một cái gì đó quan trọng, một cái gì đó chuyên biệt, một cái gì đó làm cho đời sống hết sức tuyệt vời hay sao? Như thế chẳng lẽ chúng ta lại không liều mình đi đến chỗ làm suy giảm đi hay làm hụt hẫng mất cái tự do của chúng ta hay sao?

 

“Một lần nữa, vị Giáo Hoàng này đã nói: Không đâu! Nếu chúng ta để cho Chúa Kitô đi vào cuộc sống của chúng ta thì chúng ta chẳng những không bị mất đi một sự gì cả, không một sự gì, tuyệt đối là không có một sự gì, trái lại, nhờ đó còn làm cho cuộc của chúng ta được thanh thoát, tuyệt vời và cao cả. Không đâu! Chỉ có ở nơi mối thân tình này các cửa sự sống mới có thể rộng mở mà thôi. Chỉ có ở nơi tình nghĩa ấy khả năng cao cả của sự sống con người mới thực sự thể hiện mà thôi. Chỉ có ở trong tình nghĩa này chúng ta mới cảm thấy được vẻ đẹp và tự do mà thôi.

 

“Bởi thế, hôm nay đây, bằng quyền năng mãnh liệt và bằng niềm xác tín vững chắc, căn cứ vào kinh nghiệm bản thân lâu đời của mình, hỡi giới trẻ thân mến, tôi muốn nói cùng quí bạn rằng: Xin đừng sợ Chúa Kitô! Ngài không lấy đi một điều gì đâu, mà Người lại ban cho các bạn hết mọi sự. Khi chúng ta hiến mình cho Người, chúng ta nhận lại được gấp trăm. Phải, hãy mở cửa, mở rộng cửa cho Chúa Kitô – và các bạn sẽ tìm thấy sự sống đích thực”.

 

 

Giọt Độc Dược Nguyên Tội

 

Bài Giảng Kỷ Niệm 40 Năm Bế Mạc Công Đồng Chung Vaticanô II 8/12/2005

 

“Đoạn Sách Thánh này cho chúng ta thấy hình ảnh ra sao? Con người không tin tưởng Thiên Chúa. Bị con rắn cám dỗ, họ tỏ ra nghi ngờ rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ lấy đi một cái gì đó khỏi cuộc sống của họ, rằng Thiên Chúa là một tay đối thủ cướp mất tự do của chúng ta, và chúng ta sẽ thành một con người trọn vẹn chỉ khi nào chúng ta loại trừ Ngài đi; tóm lại, chỉ có thế chúng ta mới hoàn toàn chiếm đạt quyền tự do của mình mà thôi.

 

“Con người sống trong sự nghi ngờ là tình yêu Thiên Chúa tạo nên một thứ lệ thuộc và họ cần phải dứt mình ra khỏi sự lệ thuộc ấy nếu họ muốn hoàn toàn là mình. Con người không muốn lãnh nhận từ Thiên Chúa việc hiện hữu của họ và tầm vóc viên trọncủa đời sống họ.

 

“Chính họ muốn từ cây biết lành biết dữ chiếm được quyền năng hình thành thế giới này, biến mình thành chúa tể, nâng mình lên tầm cấp Thiên Chúa, và chế ngự sự chết và tối tăm bằng nỗ lực riêng của mình. Họ không muốn cậy dựa vào tình yêu là những gì đối với họ không đáng tin cậy, họ chỉ tin  tưởng hoàn toàn vào kiến thức riêng của họ, vì nó ban cho họ quyền lực. Thay vì tin tưởng vào tình yêu thì họ lại tin tưởng vào quyền lực là những gì họ muốn sử dụng để tự động nắm trong tay sự sống của họ. Làm như thế là họ tin tưởng vào sự dối trá hơn là vào chân lý, do đó họ nhận chìm sự sống của họ vào cái trống rỗng, vào sự chết chóc. 

 

“Tình yêu không phải là một thứ lụy thuộc mà là một tặng ân làm cho chúng ta sống. Tự do của con người là thứ tự do của một hữu thể hữu hạn, bởi thế tự bản chất nó cũng hữu hạn. Chúng ta có thể chiếm hữu được nó chỉ như là một thứ tự do chia sẻ mà thôi, một thứ tự do hiệp thông mà thôi: Chỉ khi nào chúng ta sống một cách đúng đắn, với nhau và cho nhau, thì tự do mới có thể phát triển mà thôi.

 

“Chúng ta sống một cách đúng đắn nếu chúng ta sống theo sự thật của hữu thể chúng ta, tức là sống hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Vì ý muốn của Thiên Chúa đối với con người không phải là một thứ luật lệ bị áp đặt từ bên ngoài và là những gì kềm kẹp họ, mà là cái chuẩn mức nội tại thuộc bản tính của họ, một chuẩn mức đã được in ấn trong họ và làm cho họ trở thành hình ảnh Thiên Chúa, nhờ đó, thành một tạo vật tự do.

 

“Nếu chúng ta sống ngược với tình yêu và nghịch lại sự thật này – phản lại Thiên Chúa – thì chúng ta hủy hoại lẫn nhau và hủy hoại thế giới. Để rồi chúng ta không tìm thấy sự sống mà là tác hành theo những xu hướng của chết chóc. Tất cả những điều này là những gì lập lại các hình ảnh mãi tồn tại nơi lịch sử sa ngã từ ban đầu của con người cũng như nơi việc con người bị loại trừ khỏi vườn Địa Đường trần gian.

 

“Anh chị em thân mến, nếu chúng ta thành tâm suy nghĩ về mình và về lịch sử của chúng ta, chúng ta phải nói rằng trình thuật này đã cho thấy chẳng những lịch sử thời nguyên thủy mà còn lịch sử của mọi thời đại nữa, và tất cả chúng ta mang trong bản thân mình một giọt độc dược của cách thức suy tư được thấy rõ nơi các hình ảnh của Sách Khởi Nguyên này.

 

“Chúng ta gọi giọt độc dược này là ‘nguyên tội’. Chính trong ngày lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội này mà chúng ta thấy được mối ngầm ngờ vực là một con người không phạm tội thực sự phải nói rằng họ là một con người buồn tẻ, và đời sống của họ thiếu vắng một cái gì đó: đó là chiều kích bi thảm của việc sống tự động, đó là quyền tự do chối từ, quyền tự do đi sâu vào những vùng tăm tối của tội lỗi và tự do làm những gì mình muốn; đó là chỉ tới bấy giờ chúng ta mới có thể thực hiện tối đa tất cả những gì là to tát và sâu xa của hữu thể nam nữ chúng ta, của việc thực sự là mình; đó là chúng ta cần phải thử cái tự do của mình, cho dù có phản nghịch lại Thiên Chúa, để thực sự hoàn toàn trở thành chính bản thân mình.

 

“Tóm lại, chúng ta nghĩ rằng sự dữ căn bản là tốt, chúng ta nghĩ rằng chúng ta cần đến nó, ít là một chút, để cảm nghiệm được cái trọn vẹn của hữu thể. Chúng ta nghĩ rằng Mephistopheles – tên cám dỗ – đúng khi hắn nói rằng hắn là một quyền lực ‘luôn muốn sự dữ và luôn làm sự lành’ (J.W. von Goethe, “Fault” I,3). Chúng ta nghĩ rằng một chút mặc cả với sự dữ, khi giữ cho mình một chút tự do phạm đến Thiên Chúa, căn bản là một điều tốt, thậm chí là một điều cần thiết.

 

“Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn vào thế giới bao quanh chúng ta, chúng ta có thể thấy rằng nó lại không phải là như thế; nói cách khác, sự dữ bao giờ cũng độc hại, không thăng hóa con người mà hạ giá và đầy đọa họ. Nó không làm cho họ cao cả hơn tí nào, tinh tuyền hơn hay sang giầu hơn, mà là tác hại họ và thu hẹp họ lại.

 

“Đó là những gì chúng ta thực sự cần phải học hỏi trong ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm: Con Người hoàn toàn phó mình vào bàn tay Thiên Chúa không trở thành người nộm của Thiên Chúa, một ‘con người xin vâng’ tẻ nhạt; họ không mất quyền tự do của mình. Chỉ có con người tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa mới được tự do thực sự, một thứ tự do hành thiện cao cả đầy sáng tạo.

 

“Con người hướng về Thiên Chúa không trở thành nhỏ bé hơn mà là cao cả hơn, vì nhờ Thiên Chúa và với Thiên Chúa, họ trở nên cao cả, họ trở thành thần linh, họ thực sự trở thành chính mình. Con người đặt mình trong bàn tay Thiên Chúa không tách mình khỏi người khác, khi thu mình vào việc cứu độ tư riêng; trái lại, chỉ tới lúc ấy lòng họ mới thực sự bừng tỉnh và họ trở thành một con người nhậy cảm nhờ đó nhân hậu và cởi mở”.

 

 

Cuộc Cách Mạng Mù Quáng

 

Bài Giảng Lễ Đức Mẹ Mông Triệu 15/8/2005

 

“Trong Phúc Âm, chúng ta đã nghe bài ca vịnh Ngợi Khen Magnificat, một bài thơ cao cả được Thánh Thần linh ứng phát xuất từ môi miệng của Mẹ Maria, thật sự là từ tâm can của Mẹ Maria. Bài ca vịnh tuyệt vời này phản ảnh toàn thể linh hồn, toàn thể con người của Mẹ Maria. Chúng ta có thể nói rằng bài thánh ca này của Mẹ là chân dung của Đức Maria, là hình ảnh thực sự nhờ đó chúng ta có thể thấy Mẹ một cách xác đáng. Tôi xin nhấn mạnh đến hai điểm trong bài đại ca vịnh này.

 

“Bài ca vịnh này được bắt đầu bằng chữ ‘Magnificat – Ngợi Khen’: Linh hồn tôi ‘magnifies – ngợi khen’ Chúa, tức là ‘tuyên xưng sự cao cả’ của Chúa. Mẹ Maria muốn Thiên Chúa cao cả trên trế giới này, cao cả trong đời sống của Mẹ và hiện diện giữa tất cả chúng ta. Mẹ không sợ là Thiên Chúa có thể là ‘một đối thủ’ trong đời sống của chúng ta, là với sự cao cả của mình Ngài xâm lấn tự do của chúng ta, xâm lấn cái khoảng đời để sống động của chúng ta. Mẹ biết rằng Thiên Chúa cao cả, chúng ta cũng cao cả nữa.

 

“Đời sống của chúng ta không bị đàn áp mà được nâng cao và vươn rộng: Chính vì thế mà nó trở thành cao cả trước ánh vinh quang của Thiên Chúa.

 

“Sự kiện những vị cha mẹ đầu tiên của chúng ta đã có những ý nghĩ phản nghịch lại như thế là cốt lõi của nguyên tội. Họ sợ rằng nếu Thiên Chúa quá ư là cao cả thì họ sẽ bị lấy đi một cái gì đó nơi đời sống của họ. Họ nghĩ rằng họ có thể gạt Thiên Chúa ra ngoài để lấy chỗ cho họ.

 

“Đây cũng là một chước cám dỗ cả thể của thời tân tiến, của ba hay bốn thế kỷ qua. Càng ngày càng nhiều người nghĩ và nói rằng: ‘Thế nhưng vị Thiên Chúa này không ban cho chúng ta được tự do; bằng tất cả những mệnh lệnh của mình, Ngài đã hạn chế cái khoảng đời để sống của chúng ta. Bởi thế mà Thiên Chúa cần phải biến khuất đi; chúng tôi muốn tự động và tự lập. Không có vị Thiên Chúa này chính chúng tôi mới là các vị thần linh và làm những gì chúng tôi muốn’.

 

“Đó cũng là quan điểm của Người Con Hoang Đàng, người con không nhận ra rằng hắn được ‘tự do’ chính là vì hắn được ở trong nhà cha của hắn. Hắn ra đi đến những miền đất xa xôi để phung phí gia tài của mình. Cuối cùng, hắn nhận ra rằng chính vì hắn ra đi quá xa với nhà cha của hắn mà thay vì được tự do hắn lại trở thành nô lệ; hắn đã hiểu rằng chỉ nhờ trở về nhà cha của mình hắn mới thực sự có tự do, sống một cuộc đời hoàn toàn tốt đẹp thôi.

 

“Đó là những gì đang xẩy ra cho thời đại tân tiến của chúng ta đây. Trước đây, nó nghĩ và tin rằng, bằng việc loại trừ Thiên Chúa ra rìa và trở nên tự động, chỉ sống theo những ý nghĩ riêng tư và bản năng của chúng ta, chúng ta mới thực sự được tự do làm những gì chúng ta muốn mà không ai có thể truyền khiến chúng ta cả.

 

“Thế nhưng, khi Thiên Chúa biến khuất, con người nam nữ không trở nên cao cả hơn; thật vậy, họ đã mất đi phẩm vị thần linh của mình; khuôn mặt của họ đã mất đi vinh quang của Thiên Chúa. Cuối cùng họ trở thành những sản vật thuần túy của một cuộc cách mạng mù quáng, và như thế, họ có thể được sử dụng và bị lạm dụng. Đó chính là những gì kinh nghiệm của thời đại chúng ta đã cho chúng ta thấy rõ như vậy. 

 

“Nếu chỉ có Thiên Chúa là cao cả thì nhân loại cũng cao cả nữa. Với Mẹ Maria, chúng ta phải bắt đầu hiểu rằng vấn đề là như thế. Chúng ta không được lìa xa Thiên Chúa nhưng hãy làm cho Thiên Chúa hiện diện; chúng ta phải bảo đảm là Ngài là Đấng cao cả trong đời sống của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta mới có thể trở thành thần linh; tất cả mọi vinh hiển của phẩm vị thần linh bấy giờ mới là của chúng ta. Chúng ta hãy áp dụng điều này vào đời sống riêng của chúng ta.

 

“Vấn đề cần thiết là Thiên Chúa phải là Đấng cao cả giữa chúng ta, trong đời sống chung riêng.

 

“Trong đời sống công cộng, Thiên Chúa cần phải hiện diện, chẳng hạn, ở các dinh thự công, và Ngài cần phải hiện diện trong đời sống cộng đồng, vì nếu có Thiên Chúa hiện diện, chúng ta mới có đường hướng, một đường hướng chung; bằng không, không thể nào ổn định những cuộc tranh chấp, vì phẩm vị chung của chúng ta không còn được nhìn nhận nữa.

 

“Chúng ta hãy làm cho Thiên Chúa cao cả trong đời sống chung riêng. Có nghĩa là giành chỗ cho Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta hằng ngày, bắt đầu bằng việc nguyện cầu ban sáng, rồi dâng lên Thiên Chúa thời gian, dâng lên cho Chúa các Ngày Chúa Nhật. Chúng ta không phí phạm thời giờ tự do của mình nếu chúng ta dâng nó cho Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa đi vào thời gian của chúng ta thì mọi lúc đều trở thành cao cả, rộng chỗ hơn, dồi dào hơn”.

 

 

Chủ Nghĩa Tuyệt Mệnh Và Chủ Nghĩa Cuồng Tín

 

Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 1/1/2006

 

“Ngày nay, hòa bình đích thực tiếp tục bị tổn thương và bị loại trừ bởi nạn khủng bố với những đe dọa và các cuộc tấn công đẩy thế giới vào một tình trạng sợ hãi và bất an. Các vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI và Gioan Phaolô II thường nêu lên trách nhiệm ghê gớm của thành phần khủng bố phải chịu, đồng thời các vị cũng lên án các sách lược bất lương và chết chóc của họ. Những hành động ấy thường là hoa trái của chủ nghĩa tuyệt mệnh là chủ nghĩa được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II diễn tả bằng những lời lẽ như sau: ‘Những ai sát hại bằng những hành động khủng bố thực sự là những người chán chường về nhân loại, về sự sống, về tương lai. Theo quan điểm của họ thì cần phải thù ghết và hủy diệt đi tất cả mọi sự’ (Message for the 2002 World Day of Peace, 6).

 

“Chẳng những chủ nghĩa tuyệt mệnh mà còn cả chủ nghĩa cuồng tín là chủ nghĩa ngày nay thường đưoơc gán cho cái tên là chủ nghĩa cực bảo thủ, cũng tác dụng và khích động ý nghĩ và hoạt động khủng bố nữa. Ngay từ ban đầu, Đức Gioan Phaolô II đã thấy được cái nguy hiểm bùng phát này dưới hình thức bảo thủ cuống tín, và ngài đã nghiêm nghị lên án nó, trong khi đó ngài cảnh cáo những nổ lực muốn áp đặt hơn là trình bày cho người khác tự tình chấp nhận theo niềm xác tín của họ về sự thật. Ngài đã viết: ‘Việc cố gắng áp đặt lên kẻ khác bằng phương tiện võ lực những gì mình coi là chân lý là việc vi phạm tới phẩm vị của con người, và trên hết là phạm đến Thiên Chúa nơi họ là hình ảnh của Ngài’ (cùng nguồn vừa dẫn).

 

“Quan sát kỹ lưỡng thì cả chủ nghĩa tuyệt mệnh và chủ nghĩa cực bảo thủ được chúng ta đang nói đến đây đều có cùng một thứ liên hệ sai lầm đối với sự thật, ở chỗ, thành phần tuyệt mệnh chối bỏ chính sự hiện hữu của sự thật, trong khi thành phần bảo thủ cuồng tín chủ trương có thể áp đặt sự thật bằng võ lực. Cho dù có nguồn gốc và bối cảnh văn hóa khác nhau, cả hai đều cho thấy thái độ nguy hiểm tỏ ra khinh thường con người và sự sống con người, trên hết là chính Thiên Chúa. Thật vậy, cái thành quả thê thảm chung này xuất phát từ một thứ méo mó đối với sự thật trọn vẹn về Thiên Chúa: chủ nghĩa tuyệt mệnh thì chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa cùng với việc hiện diện quan phòng của Ngài trong lịch sử, trong khi chủ nghĩa bảo thủ cuồng tín lại bôi nhọ dung nhan yêu thương của Ngài, thay thế Ngài bằng những thứ ngẫu tượng được tạo nên theo hình ảnh riêng của nó. Khi phân tích những căn nguyên gây ra hiện tượng khủng bố hiện nay, cần phải cứu xét tới chẳng những các căn nguyên về chính trị và xã hội của nó mà còn cả những động lực sâu xa của nó về văn hóa, tôn giáo và ý hệ nữa”.

 

 

‘Pompa Diabuli’ Phản Văn Hóa

 

Bài Giảng về Phép Rửa Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa ở Nguyện Đường Sistine 8/1/2006

 

“Phải, phép rửa là bí tích tháp nhập chúng ta vào mối hiệp thông với Chúa Kitô và bởi thế là bí tích hiến ban sự sống, hiến ban chính sự sống. Bởi thế chúng ta đã làm sáng tỏ cuộc đối thoại ban đầu của chúng ta với Người ở nơi đây, tại lối vào Nguyện Đường Sistine này.

 

“Giờ đây, sau khi làm phép nước là một cuộc đối thoại rất quan trọng thứ hai. Nội dung của cuộc đối thoại thứ hai này đó là Phép Rửa, như chúng ta thấy, là một tặng ân; tặng ân của sự sống. Thế nhưng là một tặng ân cần phải được chấp nhận, cần phải được sống với.

 

“Tặng ân tình thân hữu bao hàm ‘việc chấp nhận’ bạn bè và ‘việc phủ nhận’ tất cả những gì bất hợp với tình bạn này, với tất cả những gì bất xứng với sự sống của gia đình Thiên Chúa, với sự sống thật trong Chúa Kitô. 


”Như thế, cuộc đối thoại thứ hai này mới bao gồm 3 ‘không’ và 3 ‘có’. Chúng ta nói ‘không’ và từ bỏ chước cám dỗ, tội lỗi và ma qủi. Chúng ta biết những cái ấy rõ ràng, nhưng có lẽ vì chúng ta đã nghe thấy chúng quá thường, những lời có thể không có nghĩa lắm với chúng ta.

 

“Nếu thế thì chúng ta cần phải nghĩ sâu xa hơn một chút nữa về nội dung của những ‘cái không’ này. Chúng ta nói ‘không’ với những gì đây? Đó là cách duy nhất để chúng ta hiểu được những gì chúng ta muốn nói ‘có’ vậy.

 

“Thời Giáo Hội cổ xưa những ‘cái không’ này được tóm gọn trong một câu dễ hiểu cho người thời ấy, ở chỗ, họ nói rằng họ từ bỏ ‘pompa diabuli’, tức là từ bỏ những hứa hẹn cho một cuộc sống sung mãn, một cuộc sống hiển nhiên xuất phát từ thế giới dân ngoại, từ tình trạng buông thả của thế giới này, từ cách sống theo ý thích của mình.

 

“Bởi thế đó là ‘cái không’ đối với một thứ văn hóa bề ngoài là cuộc sống sung mãn, đối với những gì thật ra là một thứ ‘phản văn hóa’ của sự chết. Đó là ‘cái không’ cho những cảnh sống lấy làm vui thích với những gì là chết chóc, dã man tàn bạo và bạo lực.

 

“Chúng ta hãy nhớ những gì được tổ chức ở Hí Trường Colosseum hay ở đây, nơi những vườn thượng uyển của Nero, nơi người ta được đặt trên lửa như những cây đuốc sống. Dã man và bạo lực đã trở thành trò tiêu khiển, một thứ vui thú thật là trụy lạc, một thứ ý nghĩa thực sự của đời sống.

 

“’Cái pompa diabuli’ này, ‘cái phản văn hóa’ này của sự chết là một thứ vui thú băng hoại, nó là thứ yêu thích gian manh và lường gạt, và lạm dụng thân xác như là một thứ hàng hóa và một thứ trao đổi buôn bán.

 

“Và nếu giờ đây chúng ta nghĩ về nó chúng ta có thể nói rằng, trong cả thời đại của chúng ta nữa, chúng ta cũng cần phải nói ‘không’ với thứ văn hóa sự chết đang quá ư là thịnh hành.

 

“Nó là một thứ ‘phản văn hóa’, chẳng hạn, được biểu lộ nơi thuốc phiện, nơi cuộc thoát ly thực tại để lọt vào những gì là ảo ảnh, những gì là hạnh phúc giả tạo được thể hiện nơi gian trá, lọc lừa, bất công và khinh miệt kẻ khác, khinh khi tình đoàn kết, và khinh thường trách nhiệm đối với người nghèo và thành phần khổ đau; nó được thể hiện nơi một thứ tình dục trở thành thứ hoan hưởng hoàn toàn vô trách nhiệm, thứ tình dục làm cho con người thành một ‘vật’, có thể nói, không còn coi con người xứng đáng với một tình yêu thương cá vị cần phải thủy chung, mà là con người nên như một thứ hàng hóa, một vật thuần túy.

 

“Chúng ta hãy nói ‘không’ với thứ hứa hẹn hạnh phúc bề ngoài này, với ‘cái pompa’ của những gì có vẻ là sự sống nhưng thật ra chỉ là khí cụ của sự chết, và với cái ‘thứ phản văn hóa’ này, để vun trồng thứ văn hóa sự sống thay vào đó. Đó là lý do, tiếng ‘có’ của Kitô Giáo, ngay từ thời xưa tới thời của chúng ta đây, là một tiếng ‘có’ mạnh mẽ đối với sự sống. Nó là tiếng ‘có’ của chúng ta đối với Chúa Kitô, ‘tiếng có’ của chúng ta với Cuộc Chiến Thắng sự chết và là tiếng ‘có’ đối với sự sống trong thời gian cũng như trong vĩnh hằng”.

 

 

PP_038.jpg