THÁNH ÐỊA:

HY VỌNG ĐÃ VƯƠN LÊN

2005

     Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, viết và dịch theo tin tức liên tục của CNN và Zenit (trừ những bài có tên khác).

Tối Tăm lại bao trùm Thánh Địa

Thánh Địa – Do Thái: Cuộc Triệt Thoái Lịch Sử; Palestine: “Một Thời Điểm Trọng Đại”

Kitô hữu Ở Bêlem sống bằng nghề làm tràng hạt cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX

Hiện Tình Kitô Hữu tại Thánh Địa có Nguy Cơ Bị Triệt Tiêu

Những tu sĩ dòng Phanxicô và Thánh Địa

Cuộc Hội Nghị Quốc Tế với nhà lãnh đạo Palestine Mahmoud Abbas về tình hình Palestine

Tổng Thống Palestine Mahmoud Abbas tuyên bố: “Hòa Bình là điều khả dĩ”

Biến Động đối kháng nỗ lực hòa bình, nhưng đôi bên vẫn thiện chí cương quyết tiến lên

Do Thái chính thực trả tự do cho 500 tù nhân Palestine

Bộ Nội Các Do Thái cuối cùng đã chấp thuận việc giải tỏa vấn đề Do Thái định cư ở vùng Palestine

Những nỗ lực của đôi bên sau thỏa hiệp ngưng chiến

Cuộc Họp Thượng Đỉnh lịch sử giữa Do Thái và Palestine với thành quả: thỏa hiệp Ngưng Chiến

Những Lời Phát Biểu của Tân Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine Mahmound Abbas

Những Lời Phát Biểu của Thủ Tướng Do Thái Ariel Sharon

Thánh Địa đang xoay chiều theo đường hướng của Tòa Thánh Rôma

 

 

Tối Tăm lại bao trùm Thánh Địa

 

Thật thế, đầu năm 2005 mở ra một chân trời rất rạng ngời cho Thánh Địa khi hai vị lãnh đạo cao cấp của Do Thái là Sharon và Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine là Abbas gặp nhau vào ngày 8/2/2005, với những lời tuyên ngôn ngưng chiến và quyết tâm tiến tới hòa bình giữa đôi bên. Thế rồi, bên Do Thái, bất chấp những chống đối nội bộ, cũng đã thực hiện lời hứa quyết rút kui khỏi giải Gaza vào ngày 11-12/9/2005, sau 38 năm chiếm đóng khu vực này.

 

Tuy nhiên, bầu trời hòa bình vẫn có một cái gì đó mờ mịt mung lung làm sao ấy, cho tới khi khủng bố bạo loạn lại bắt đầy xẩy ra và tái diễn cảnh mắt đền mắt răng đền răng giữa đôi bên như đã từng xẩy ra từ mùa thu năm 2000. Đúng thế, tiến trình hòa bình như hy vọng đã vươn lên từ đầu năm 2005 sau 8 tháng lầm lì chậm bước đã bắt đầu bị khựng lại vào chiều hôm Thứ Tư 26/10/2005, khi nhóm Thánh Chiến Hồi Giáo tự nhận mình đã thực hiện cuộc tự sát khủng bố tấn công vào một khu chợ trời, 40 dặm hay 64 cây số ở miền bắc thủ đô Tel Aviv, gây thiệt mạng cho 5 người Do Thái, và làm 28 người bị thương, trong đó có 6 người trọng thương. Cũng ở hiện trường Hadera thuộc miền trung nước Do Thái này đã xẩy ra cuộc tấn công vào tháng 10/2003, sát hại 14 người ở gần một chiếc xe buýt đầy người.

 

Một nhân vật tuyên bố mình đại diện cho nhóm khủng bố tấn công cho CNN biết lý do tại sao xẩy ra vụ này là vì muốn trả đũa Do Thái đã hạ sát một trong những lãnh tụ của nhóm Thánh Chiến Hồi Giáo này hôm Thứ Hai 24/10/2005 ở vùng Tây Ngạn. Lực lượng Do Thái công nhận có làm điều ấy, tức đã hạ sát Fathalla Saadi, 26 tuổi, cùng với một số trong nhóm Thánh Chiến Hồi Giáo của anh này ở Tulkarem, là vì, cũng vào hôm Thứ Hai, lực lượng Quốc Phòng Do Thái cho biết qua một văn thư rằng Saadi đang mưu đồ thực hiện một cuộc khủng bố tấn công bao gồm “việc ôm bom tự vẫn trong vùng Do Thái trong vòng mấy ngày nữa”.

 

Trưởng ban thương thảo của Palestine là Saeb Erakat nói rằng Thẩm Quyền Palestine lên án cuộc khủng bố tấn công hôm Thứ Tư của nhóm Thánh Chiến Quân Hồi Giáo: “Chúng ta không muốn trở lại với cái vòng lẩn quẫn tội phạm. Bạo lực trả đũa bạo lực, đạn tên trả đũa đạn tên, chúng ta đã từng như thế vậy trước đây rồi. Do Thái và Palestine sẽ phải trả giá rất nặng nếu không thôi chấm dứt bạo động”.

 

Phần Do Thái, phát ngôn viên của Thủ Tường Ariel Sharon, bãi bỏ lời lên án của bên Thẩm Quyền Palestine và trực tiếp tấn công nhân vật lãnh đạo là Tổng Thống Thẩm Quyền Mahmoud Abbas, cũng mang danh là Abu Mazen, như kiểu “tội qui vu trưởng”, ở chỗ “ngồi khoanh tay chẳng làm gì cả”: “Nếu Abu Mazen không có những hành động thực sự nghiêm khắc để chấm dứt khủng bố tấn công – bằng cáh tống giam thành phần khủng bố, giải giới các nhóm võ trang – thì sớm muộn họ hãy canh chừng ông ta”.

 

Cuộc khủng bố tấn công Do Thái hôm Thứ Tư vừa rồi là những gì tái diễn hai cuộc xẩy ra trước đó trong thời gian hai bên đang cố gắng thực hiện lộ trình hòa bình ký kết với nhau từ tháng 2/2005. Ngày 28/8, một cuộc khủng bố tấn công ôm bom tự sát đã gây thương tích cho 21 người ở một tỉnh miền nam Beersheba.

 

Trước những cuộc khủng bố tấn công từ bên Palestine như thế, Do Thái đã không nhường nhịn nữa. Bởi thế, sau mấy tiếng đồng hồ Thủ Tướng Sharon thề sẽ đập tan thành phần khủng bố để trả đũa cuộc khủng bố tấn công của họ, chiều tối hôm Thứ Năm, 27/10/2005, lực lượng Do Thái đã dội bom để triệt hạ một chiếc xe chở dân quân Palestine ở phía bắc Thành Gaza, hạ sát 7 người, trong đó có một chỉ huy trưởng Thánh Chiến Quân Hồi Giáo là Shadi Mohanna và 3 phần tử trong nhóm, chưa kể 3 thường dân cũng bị lây, trong đó có 1 em trai 15 tuổi và một nam nhân lục tuổi, cùng với 14 người khác bị thương, một số bị trọng thương.

 

Vị thủ tướng Do Thái còn tuyên bố rằng ông sẽ không gặp Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine cho đến khi vị lãnh đạo Palestine tỏ ra “những hành động nghiêm trọng và tỏ tường chống lại nạn khủng bố”. Vị thủ tướng này cũng chấp thuận một số biện pháp chống khủng bố tấn công, kể cả việc hạ sát và giam giữ.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu của CNN ngày 27-28/10/2005

 

TOP

 

Thánh Địa – Do Thái: Cuộc Triệt Thoái Lịch Sử; Palestine: “Một Thời Điểm Trọng Đại”

 

Đúng như qui ước giữa hai bên, Do Thái đã thực hiện việc triệt thoái những người lính cuối cùng của mình ở Gaza hôm Thứ Hai 12/9/2005, sau 38 năm chiếm đóng, tức từ sau Trận Chiến 7 Ngày năm 1967, một trận chiến Do Thái đã bị khối Ả Rập Hồi Giáo (trong đó có cả Ai Cập) bất ngờ tấn công nhưng họ đã chẳng những nhanh chóng phản công lại còn thừa thắng xông lên chiếm đóng lãnh thổ của người Palestine cho tới nay.

 

Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine là ông Mahmoud Abbas đã đi tham quan khu cư trú Eli Sinai của người Do Thái được trao trả cho Palestine, và nói rằng việc triệt thoái của Do Thái là “một thời điểm trọng đại” nhưng họ vẫn cần phải làm nhiều điều khác nữa mới có thể làm cho nhân dân Palestine được thực sự cảm thất “hạnh phúc và tự do”.

 

Trong khi đó, nhân dân Palestine ùa vào những khu cư trú bị bỏ trống, bắn súng, hát hò và trong một số trường hợp còn bắn vào các hội đường bỏ trống của người Do Thái nữa.

 

Tổng Thống Abbas nói về những hành vi cử chỉ hớn hở hân hoan của nhân dân của mình là “Họ phải bày tỏ cảm giác của họ. Đây là một ngày lịch sử”, và thêm rằng người Palestine vẫn cần làm sao để có thể dễ dàng ra vào Gaza, tức là có thể vượt qua ranh giới đang được Do Thái kiểm soát. “Chúng tôi cần nhìn thấy được cả ở vùng Tây Ngạn nữa và chấm dứt cuộc xâm chiếm ở đó”.

 

Đúng vào lúc 7 giờ sáng Thứ Hai, 12/9/2005, cuộc triệt thoái chính thức bắt đầu. Để rồi, sau khi lực lượng Do Thái đóng cổng Kissufim lại, một phát ngôn viên của Lực Lượng Bênh Vực Do Thái IDF (Israel Defense Forces) đã lên tiếng thách thức các viên chức Palestine rằng:

 

“Từ nay trở đi, trọn trách nhiệm về những diễn biến xẩy ra ở Giải Gaza cũng như về các cuộc khủng bố tấn công phá hoại nhắm vào người Do Thái là ở trong tay Thẩm Quyền Palestine và những thiết bị của họ”.

 

Riêng về các hội đường Do Thái, hôm Chúa Nhật 11/9, hội đồng nội các Do Thái đã bỏ phiếu không hủy hoại 25 hội đường Do Thái bị bỏ lại ở Gaza, thay vào đó, xin Thẩm Quyền Palestine bảo vệ. Thế nhưng Abbas nói rằng những dinh thự ấy không phải là các hội đường nữa và sẽ bị hủy hoại “để sử dụng đất đai để thực hiện những dự án cho lợi ích hơn của nhân dân Palestine”.

 

Do Thái đã hạ cờ của mình ở Gaza xuống vào hôm Chúa Nhật 11/9/2005, dấu hiệu chấm dứt cuộc chiếm đóng sau 38 năm trường.

 

TOP

 

 

Kitô hữu Ở Bêlem sống bằng nghề làm tràng hạt cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX

Kitô hữu tại Bethlehem đang theo đuổi một tham vọng nhắm đến việc làm tràng hạt mân côi cho tất cả những ai tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới được tổ chức tại Cologne vào mùa hè này.

Để đạt được mục tiêu này, Tổ Chức Trợ Giúp Giáo Hội Thiếu Thốn, một cơ quan bác ái quốc tế trung tâm ở Đức Quốc, đã hứa cho hơn 20 ngàn đồng Âu để chuyển bằng tầu thủy hằng chục ngàn cỗ tràng hạt được làm bằng gỗ cây dầu từ Bethlehem đến Cologne, nơi tập trung giới trẻ Công giáo trên toàn thế giới vào tháng 8 cùng với Đức Thánh Cha.

Tổ chức này đã nói trong bản báo cáo gởi cho ZENIT vào ngày Thứ Tư (25/5/2005) rằng: “Các cỗ tràng hạt ấy đã được làm bởi những gia đình ở Bethlehem đang lâm cảnh túng thiếu bởi khách du lịch là nguồn lợi sinh sống của họ tất cả đều đã chẳng còn nữa”.

Tổ chức này còn cho biết thêm: ”Khách hành hương đã ít hẳn đi từ khi tình trạng náo động xẩy ra ở vùng Tây Ngạn, thậm chí cho đến nay bóng dáng hòa bình đã tái hiện rồi đó mà cũng mới chỉ có một ít du khách dám mạo hiểm tham quan bên trong những bức tường Isael vây quanh các thị trấn và những thành phố như Bethlehem chẳng hạn”.

Tổ Chức Trợ Giúp Giáo Hội Thiếu Thốn tường trình là “Tất cả tình hình này là những gì báo động thảm họa xẩy ra cho nhiều gia đình đã phải giành cả sàn nhà của mình để làm các cỗ tràng hạt, để rồi phải sống ở trên các căn lầu trong những hoàn cảnh rất ư là chật vật”.

Trong chuyến đi vừa qua, các viên chức của hội bác ái đã nghiên cứu tường tận việc hỗ trợ mà tổ chức của họ có thể cống hiến cho những Kitô hữu ở Đất Thánh. Những tin tức thu nhập được để làm thành bản tường trình mang tựa đề: “Isael: Kitô Hữu Đang Bị Khủng Hoảng – Tín Hữu Bị Áp Lực Từ Mọi Phía”.


Bản tường trình này cho biết rằng “tình trạng vừa nghèoi khổ, lại bị kỳ thị lẫn bạo động” là những gì khiến cho tương lai của Kitô giáo ở Thánh Địa “lơ lửng treo như một sợi chỉ”.

Ý nghĩ thực hiện chương trình làm tràng hạt này xuất phát từ cha Don Moore, một người Mỹ sống ở Giêrusalem, vị đã quyết định hành động sau khi cảm thấy xúc động trước cảnh khổ cực của các gia đình nghèo xơ xác khi việc làm ăn về tràng hạt bị thất bại.

Vị linh mục là giám đốc đặc trách các mối liên hệ liên tôn tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Kinh ở Giêrusalem này đã nhấn mạnh rằng, nếu thành công thì kế hoạch làm tràng hạt sẽ là “một bước nhẩy vọt” cho những người Kitô hữu ở Thánh Địa.

Trần Đại (dịch từ Zenit ngày 26/5/2005)

 

TOP

 

Hiện Tình Kitô Hữu tại Thánh Địa có Nguy Cơ Bị Triệt Tiêu

 

Hội bác ái toàn cầu đặt tại Đức cảnh báo: cảnh chung lộn vừa nghèo nàn, vừa kỳ thị lại bạo động là những gì đang làm cho tương lai của Kitô hữu ở Thánh Địạ "bị treo lơ lửng như sợi chỉ".

 

Cuộc khủng hoảng của Kitô hữu tại Israel “thật là trầm trọng" đến độ  theo một tổ chức có tên ACN viết tắt từ "Aid to the Church in Need" đã thăm viếng xứ sở này để  thấy tận mắt những gì họ có thể cung ứng. Nhóm này đã cho nêu lên một vài đề nghị trong một bản trình thuật gởi cho ZENIT, với nhan đề "Tại Isael: Người Công Giáo ở trong tình trạng khủng hoảng - Tín Hữu gặp áp lực từ mọi phíạ". "Việc hiện diện của Kitô hữu trong xã hội Isael đang ở trên bờ vực biến dạng vào bóng tối và có lẽ gặp cơ nguy hoàn toàn biến mất", tờ báo cáo nói bằng những từ ngữ giật gân như thế.

 

Bản trình thuật nhận định rằng: "Số người bị giảm xuống còn khoảng 150.000, thành phần Kitô hữu đang phải đối diện với tình trạng bị áp bức và kỳ thị tại trường học, nơi sở làm và ngoài cộng đồng, vì vấn đề tôn giáo, giai cấp, hoặc nguồn gốc chủng tộc." Ngoài ra, tờ trình thuật này còn nhận định thế này "hầu hết họ là người Ả Rập Palestinẹ" Hơn thế nữa, "vật giá leo thang, nhất là những vùng Palestine, cùng với nạn thất nghiệp lan tràn." Báo cáo tiếp: "Tệ hơn nữa, những cơ hội để Kitô hữu có thể lên tiếng đều bị nhận chìm trong thời khoảng 40 năm trời, tỉ lệ tín hữu ở xứ sở này đã  bị sút giảm từ 20% xuống dưới 2%." Bản trình thuật cho biết tiếp: "Xã hội đã thay đổi ngoài sức tưởng tượng – tình trạng tràn ngập của người Hồi giáo cùng với việc di dân ào ào của thành phần Kitô hữu - 400,000 tín hữu ở Isael giờ đây đang sống ở hải ngoại"

 

Về phần mình, "những người Kitô hữu quyết định ở lại quê hương càng ngày càng thất vọng trong việc tìm kiếm một niềm hy vọng mới, khi họ phải đối chọi với những vấn đề xã hội và kinh tế để tìm kiếm một tương lai lâu bên nơi quê hương cổ kính của mình." ACN đã trích lại lời của Bảo Quản Viên của Dòng Thánh Phanxicô là Cha Pierbattista Pioãaballa, vị nói rằng: "Người Tây Phương dường như không để ý đến việc nhiều Kitô hữu vẫn còn sống nơi đây và đang cần được chúng ta giúp đỡ." Bản trình thuật ACN tiên đoán rằng "nếu không có gì thay đổi nơi số phận của họï và nếu tỷ lệ di cư không giảm xuống thì người công giáo ở Thánh Địa có thể sẽ biến mất."

 

Có khoảng 18 ngàn người cư trú tại tỉnh Mughar – cách Biển Hồ Galilêa15 cây số và cách Nâarét 40 cây số – mà một nửa là người Druze, một cộng đồng theo niềm tin tưởng xuất phát từ Mohammed, một cộng đồng đã tách khỏi Hồi giáo vào khoảng thế kỷ thứ 10. Có khoảng độ 35% dân số tại Mughar là người Hồi giáo, còn lại là Kitô hữu, hầu hết là người Công giáo thuộc lễ nghi Melkite.

 

Vào ngày 11 và 12 tháng 2 vừa qua, tỉnh này đã trở thành nạn nhận của cuộc bạo động bùng lên bởi những tay bảo thủ Druze muốn chống lại cộng đồng Kitô giáo.

 

ACN đã đến thăm tỉnh lỵ này vào đầu tháng 5. Theo ghi nhận thì vào khoảng nửa đêm ngày 10 tháng 2, có khoảng 200 người đã tham dự cuộc phá phách chống lại Kitô hữu.  "Vào lúc bình minh, số kẻ tấn công đã gia tặng đến 4 ngàn ngườị. Khoảng một nửa số dân Kitô hữu trong tỉnh đã bỏ chạy để giữ lấy mạng," bản trình thuật ghi nhận như thế. "Mặc dù vẫn còn tiếp tục xẩy ra lác đác những cuộc tấn công bằng bom, Cha chánh xứ Maher Aboud đã thuyết phục được hầu hết các gia đình Kitô hữu trở về nhà họ để gầy dựng lại cuộc sống." Vị linh mục này "giảng cho họ nghe sứ điệp về lòng thứ tha và can trường bất khuất để có thể đối đầu với nhóm Druzẹ". ACN ghi nhận: "Ít là có 40 gia đình vẫn chưa trở lại, một là vì lo sợ hay là vì nhà của họ đã bị thiệt hại nặng nề theo họ không thể ở được nữa”. Vị linh mục này, người đã phục vụ tại Mughar 28 năm, đã nói những lời được trích dẫn như sau: "Chúng tôi đã từng tìm kiếm và đang tìm kiếm xem những gì chúng tôi có thể đã gây ra để đáng phải chịu cảnh như thế này mà chúng tôi vẫn không tìm thấy gì cả".

 

ACN viết: "Số mạng hẩm hiu khác loại nhau đang làm tàn rụi sinh mạng của Kitô hữu ở Bethlehem…  một thành phố đang biến nhanh đằng sau bức tường cao 8 mét do thẩm quyền người Isael dựng lên". Bức tường tách lãnh thổ Palastine khỏi Israel. Bản trình thuật giải thích rằng: "Đối với cộng đồng 60 ngàn người Kitô hữu ở vùng này, thì bức tường ấy tìm cách dập tắt đi những mầm mống mới nhú lên của việc tái phát triển về ngành thương vụ quan trọng cho cuộc sinh sống của họ – đó là ngành thương vụ về hành hương và du lịch”. Quãng đường xe chạy từ Jerusalem đến Bethlehem trước đây khoảng không hơn 5 phút lái xe. Giờ đây, với những trạm kiểm soát và thủ tục kiểm soát an ninh, thời gian đã phải mất đến 3 tiếng đồng hồ. Bản trình thuật giải thích rằng du khách thường thích nhất thực hiện những chuyến viếng thăm ngắn ngày tới Bêlem, những chuyến viếng thăm ai oán hơn nhiều đối với những ngày mà họ muốn ở lại đó mấy đêm liền. Bản trình thuật ACN nhấn mạnh rằng: “Đối với những Kitô hữu ở Bêlem thì muốn đi ra khỏi thành phố của mình này đã từng là cả một vấn đề khó khăn trong nhiều năm rồi, nay bức tường này được dựng nên lại càng gây thêm phiền phức. Nó thật sự như là hồi chuông báo tử cho những ai di chuyển từ Bethlehem và Giêrusalem."

 

Bản trình thuật này viết thêm: “Thành phần Kitô hữu ở vùng này cũng không thể lên tiếng để bênh vực lấy mình, vì họ bị chìm ngập dưới mức gia tăng số người Hồi giáo. Tình trạng này xẩy ra, cùng với tình trạng số người Kitô hữu di tản, đã đi đến chỗ trong vòng 25 năm, tỷ số Kitô hữu ở Bêlem đã bị thất thoát mất tới 50% - hiện nay, Kitô hữu chỉ ở vào khoảng 1 trong 10 ngườị" Theo thống kê cho biết thì 75% giới trẻ nói rằng, nếu được chọn, họ sẽ rời khỏi đấy trong vòng 24 tiếng đồng hồ”. Tổ chức bác ái Công giáo cảnh báo rằng: "Sự trì trệ của các ngành kinh doanh đang chất thành một gánh nặng lớn trên những gia đình Kitô hữu, và nhiều người cảm thấy rằng bức tường này sẽ là những gì thực sự giam cầm họ ngay tại tỉnh lỵ và thôn xóm của mình".

 

ACN quan sát thấy rằng, tại thành phố Ramallah, phía bắc thành Giêrusalem, tình trạng gia tăng máu tranh đấu nơi những người Hồi giáo đã gây ra một cuộc di tản khỏi một tỉnh mà cho tới năm 1948, thời điểm quốc gia Isael được thành lập, hoàn toàn là người Kitô hữu. Linh mục quản nhiệm giáo xứ Ramallah trong một thời gian dài, Cha Nâaih, vị linh mục lâu đời ở Ramallah đã giải thích rằng: "Tất cả những người Hồi Giáo đều thích tới tỉnh nàỵ. Từ từ những người Kitô hữu bỏ đi vì họ không thể sống với người Hồi Giáo. Có một số người cuồng tín không chấp nhận sự kiện chúng ta hiện hữu". Vi linh mục cũng đề cập đến nỗi cay đắng vẫn tồn tại một vài năm sau khi những người Hồi Giáo cuồng tín lấy đất của người Kitô hữu kế bên nhà thờ để xây đền thờ Hồi Giáo. Cha nói: "Họ đã đến với những xe kéo và đã tàn phá thành bình địa. Họ kéo sập các tường nhà xuống. Chúng tôi không biết được những chuyện gì đã xảy ra. Họ lấy đi tất cả. Ngay cả vị thống đốc cũng chẳng làm gì được". Cha nói thêm, từ cả hằng ngàn gia đình sinh sống ở Ramallah vào năm 1948, giờ đây chỉ còn lại vài trăm gia đình. Ngài nói thêm là có đến 40 ngàn Kitô hữu đã sang Hoa Kỳ.

 

ACN nói rằng, bất chấp tất cả mọi vấn đề gây ra cho các cộng đồng Kitô hữu như thế, vẫn còn có những dấu hiệu hy vọng thật sự. Trong khi Kitô hữu vẫn tiếp tục di tản, thì vấn đề kết hôn và sinh nở lại gia tăng, khiến cho một số người cảm thấy lạc quan về tương lai lâu dài của cộng đồng Kitô hữu này. Bản trình thuật viết: "Niềm hy vọng cải tiến các nhu cầu huấn luyện trọng yếu cũng đang được phát triển ở một số nơi".

 

“Trước cuộc chống đối liên tục một cách mãnh liệt của thẩm quyền Israel, vị linh mục Công giáo Hy Lạp, Cha Elias Chacour, hiện đang điều hành một trường học và đại học mở rộng cho 4 ngàn học sinh tại Ibillin, trong miền Galilea phía bắc Isael". Bản trình thuật thêm: được gọi là Mar Elias Educational Institutions, việc thành lập những Viện Giáo Dục Mar Elias này "là tia hy vọng cho mối giao hảo giữa Kitô hữu và Hồi hữu và để cung ứng một vài số cơ hội huấn nghệ thật tốt trong vùng này". Và “những tổ chức như Hội Đồng Jerusalem Đặc Trách Liên Hệ Do Thái - Kitô Giáo đang tìm cách đập vỡ những chướng ngại giữa những người Do Thái và Kitô hữu. Trong một ghi chú hôm  Thứ Sáu tuần trước, sau chuyến đi Đất Thánh, Marie Ange Siebrecht, vị làm đầu khu vực Trung Đông của ACN nói rằng: "Làm sao Kitô hữu có thể ở lại quê hương của mình mà lại không việc làm và tương lai. Những nơi Thánh của Kitô giáo còn có nghĩa gì nữa nếu không có Kitô hữu hiện diện ở đấy. Đây là phận vụ của chúng ta trong việc  nhân danh những người Kitô hữu này lên tiếng nói cho thế giới biết ". Siebrecht đã mời gọi quý ân nhân của ACN hãy "cầu cho Đất Thánh và hãy đi đến đó", thế nhưng nếu có đến đó, "họ phải đi với các tổ chức Kitô giáo”.

 

Trần Đại (dịch từ Zenit ngày 26/5/2005)

 

TOP

 

Những tu sĩ dòng Phanxicô và Thánh Địa

 

Dòng Anh Em Hèn Mọn đang có trách nhiệm Bảo Quản Thánh Địa với 26 địa điểm tiêu biểu cho những giai đoạn chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu và Thánh Gia.

 

Cha Artemio Vitores, đại diện viên Bảo Quản, đã từng ở Thánh Địa 34 năm. Việc Trông Giữ Thánh Địa ngày nay bao gồm 250 tu sĩ thuộc 35 quốc gia của hội dòng này.

 

Trong cuộc phỏng vấn sau đây với mạng điện toán toàn cầu Zenit, cha Vitores đã nói về việc phát triển và sứ vụ của vai trò Coi Giữ Thánh Địa qua các thế kỷ.

 

Vấn:        Thánh Phanxicô đã lưu lại ở Thánh Địa một thứ di sản ra sao?

 

Đáp:        Việc Vua Hakim Hồi giáo phá hoại Mồ Thánh vào năm 970 đã mở màn cho giai đoạn Thánh Chiến, tức là cho chiến tranh và máu đổ. Thánh Phanxicô thích chiến thắng các nơi thánh bằng cách đối thoại.

 

Qui luật thứ nhất của ngài, “Non Volata” bất bạo động, nói rằng: “Anh em đến Thánh Địa không được kiện tụng hay tranh cãi, mà phải phục vụ tất cả mọi người, và phải tỏ ra bằng đời sống của mình họ là Kitô hữu”.

 

Họ đã rao giảng vì được Thần linh tác động. Thái độ này cho phép có thể  di chuyển ở những lãnh địa Mameluk.

 

Vấn:        Như thế thì phải chăng Thánh Phanxicô là người đầu tiên sử dụng khí giới đối thoại?

 

Đáp:        Ngài là người đầu tiên sử dụng vũ khí đối thoại và yêu thương vào giai đoạn Thánh Chiến. Các tu sĩ dòng Phanxicô muốn phục vụ tất cả mọi người, cà Kitô hữu lần Hồi hữu, và cho thấy họ có một tinh thần đại đồng tân tiến trước cả thời đoạn của mình.

Việc bảo vệ các nơi thánh là lý do sâu xa cho việc hiện diện của tu sĩ dòng Phanxicô ở Thánh Địa, nơi họ đã phải hành sử qua những khó khăn và xung khắc khủng khiếp. Những tu sĩ dòng Phanxicô đã khởi xướng dịch vụ hỗ trợ về xã hội và việc huấn luyện chung quanh các nơi thánh ấy.

 

Ở sảnh đường tiếp tân của tu viện chúng tôi có 5 bức tranh tiêu biểu cho sứ vụ của các tu sĩ Phanxicô ở Thánh Địa. Trong số 5 bức này có hai bức chân dung của Robert ở Anjou và Sancha ở Majorca, những vương quốc của Naples, người đã chiếm được Nhà Tiệc Ly từ vị Vua của Ai Cập vào năm 1333, rồi trả nhà này lại cho các tu sĩ dòng Phanxicô, những vị đã thiết lập đan viện đầu tiên của mình ở đó.

 

Vào năm 1342, Đức Giáo Hoàng Clementê IV đã cơ cấu hóa sứ vụ Coi Giữ Thánh Địa của tu sĩ dòng Phanxicô.

 

Khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến Nazarét vào năm 2000, ngài đã nói rằng Thiên Chúa quan phòng đã muốn Thánh Phanxicô, vị thánh của hòa bình, của đối thoại và yêu thương, bảo vệ các nơi thánh.

 

Vấn:        Chúng ta trở lại với sứ vụ về xã hội của các tu sĩ dòng Phanxicô. Sứ vụ này bao gồm những gì?

 

Đáp:        Các tu sĩ dòng Phanxicô tìm cách cung cấp việc chỉ dẫn, hoạt động và nhà cửa. Chung quanh các nhà thờ được xây cạnh các nơi thánh, họ mở các trường dạy học, các xưởng công nghệ và nhà trọ. Nơi sứ vụ vẫn còn tiếp tục tới nay, các tu sĩ dòng Phanxicô đã là thành phần tiên phong ở miền đa số người Hồi giáo.

 

Vào năm 1520, họ mở một trường học đầu tiên, trong lúc những người Thổ từng đô hộ Thánh Địa cả 4 thế kỷ cho đến Thế Chiến Thứ I, mở trường học đầu tiên của họ vào năm 1892. Trong năm 1808, các tu sĩ dòng Phanxicô đã quyết định là những em thiếu nhi nam không phải Công giáo, tức Chính Thống giáo, không buộc phải trở lại Công giáo mới được học ở trường các vị.

 

Năm 1841, họ thiết lập trường học đầu tiên cho các em nữ ở Thánh Địa, trong lúc trường học đầu tiên của người Do Thái cho nữ giới được thiết lập vào năm 1864. và học trường đầu tiên cho nữ của người Hồi giáo vào năm 1892.

 

Từ năm 1925 đến 1948, Đại Học Thánh Địa của chúng tôi đã tiếp nhận Kitô hữu, Hồi hữu và Do Thái cho thấy trước một thứ đại kết tân thời. Vào năm 1957, các tu sĩ dòng Phanxicô đã đem vào các học đường của mình việc học hỏi Kinh Koran, tức là trước cả Công Đồng Chung Vaticanô II.

 

Các tu sĩ Phanxicô đã đóng vai trò quan trọng trong việc cổ võ các thứ ngôn ngữ. Ở các trường học thuộc giáo xứ của chúng tôi có dạy cả tiếng ý và tiếng Pháp, huấn luyện các thông dịch viên và hướng dẫn viên, trong khi đó báo chí của chúng tôi phát hành bằng tiếng Ả Rập, góp phần vào việc phục hồi nó khỏi bị hao mòn ở Palestine. Các tu sĩ Phanxicô đã mở những cơ xưởng dầu olivevà cổ võ những thế nghệ thuật và giao thương khác. Ngoài ra, các vị đã kiến thiết những nơi cư trú cho thành phần Kitô hữu nghèo túng.

 

Vấn:        Việc bảo vệ các nơi thánh bao gồm những vấn đề gì?

 

Đáp:        Việc bảo trì và phục hồi, việc nghiên cứu khảo cổ học và thánh kinh liên quan đến tính cách chân thực của các nơi thánh, việc tái kiến thiết, việc cảm nhận linh đạo của các nơi thánh ấy cùng thành quả của các nơi thánh này.

 

Vấn:        Hiện trạng điều hành đời sống ở Mồ Thánh và Đền Thờ Giáng Sinh. Có tổ chức liên tôn nào khác điều hành các địa điểm tôn giáo này hay chăng, chẳng hạn như ủy ban Kitô hữu, Hồi giáo và Do Thái được phác họa bởi Bá Tước Balfour, bí thư bộ ngoại giao Hiệp Vương Quốc vào năm 1922?

 

Đáp:        Đây là một vấn đề nhức nhối và các tôn giáo đã không thực hiện những cố gắng cần thiết để thắng vượt tình trạng phân rẽ nơi họ. Họ đã tổ chức các cuộc gặp nhau, thế nhưng, họ vẫn không bao giờ có thể thiế lập được một ủy ban liên tôn thường trực để điều hành các tôn giáo vụ mà thực tế thật sự là cần thiết, đặc biệt là ở Giêrusalem.

 

Vì tính cách đại đồng của mình, Giáo Hội Công giáo, bất chấp sự thật là những người công giáo đại diện có chưa đầy 2%, muốn trở thành một cái cầu nối một lần nữa các niềm tin khác, cả Kitô hữu lẫn ngoài Kitô giáo.

 

Vấn:        Cha đã sống ở Thánh Địa trên 30 năm. Vai trò của tôn giáo ra sao ở Thánh Địa này?

 

Đáp:        Tôi phải nói rằng chúng tôi rất tiếc đã chứng kiến thấy một thứ cực đoan hóa vai trò tôn giáo là vai trò luôn cố gắng đóng vai chính trị trong xã hội. Tình trạng khẩn trương của các đảng phái chính trị Chính Thống giáo, nhất là nơi thành phần Do Thái và Hồi giáo, là những gì cho thấy điều ấy.

 

Việc thiết lập quốc gia Do Thái mang một căn tính tôn giáo mãnh liệt, để tránh hiểu lầm, ở đây tôi không đặt vấn đề thiết lập quốc gia Do Thái, bởi thế mới đóng một vai trò theo chiều hướng ấy. Kết quả đó là các thứ hình thành chính trị của Chính Thống giáo đã có cớ xuất hiện, khiến cho vấn đề đối thoại trở nên khó khăn, cả ở bên Do Thái lẫn bên Palestine.

 

Những gì sẽ xẩy ra? Tôi lo đến tình hình của Giêrusalem. Những nhóm Do Thái Chính Thống nhận được 40% ủng hộ và đang phát triển. Bất cứ ở đâu họ nắm quyền kiểm soát họ đều áp dụng qui luật sống của họ cho sinh hoạt công cộng, như về thời gian, về di chuyển, gây ra vấn đề kỳ thị đối với những ai không theo họ. Tôi hy vọng rằng trong tương lai chúng tôi không tiến tới chỗ giới hạn lối vào cổ thành đối với những người không phải là Do Thái.

 

Vấn:        Làm sao tu sĩ dòng Phanxicô có thể tồn tại về vấn đề tài chính?

 

Đáp:        Bằng việc quyên vào vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, cũng được gọi là việc quyên góp “cho Các Nơi Thánh”, được Tòa Thánh phát động ở tất cả mọi nhà thờ trên khắp thế giới, cũng như với sự ủng hộ của tín hữu qua “Các Ủy Ban Thánh Địa” là những ủy ban trực tiếp lệ thuộc vào Việc Coi Giữ này và là những ủy ban đang lan tràn khắp thế giới. Không còn việc chính phủ cứu trợ nữa, bởi thế mà trong một số trường hợp những dự án do sứ vụ chúng tôi thực hiện chỉ nhận được nâng đỡ một cách gián tiếp vậy thôi.

 

Chính quyền Tây Ban Nha chẳng hạn tài trợ một số cho các Kitô hữu Palestine như là một thứ chính sách của vấn đề “giúp thành phần thiểu số”.

 

Chẳng hạn trường hợp intifada, chính chúng tôi lãnh trách nhiệm nâng đỡ những gia đình Kitô hữu nghèo khổ nhất, bằng việc phân phát chỉ tiêu 80 đồng âu (108 Mỹ kim) mỗi gia đình hằng tháng. Các giáo xứ của chúng tôi, vì nhiều tu sĩ Phanxicô cũng là những vị linh mục coi xứ, đã thay thế cho chính quyền Do Thái và Palestine về trách nhiệm giúp đỡ về xã hội của hai chính quyền này.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu được mạng điện tốn tồn cầu Zenit phổ biến ngày 13/3/2005

TOP

 

Cuộc Hội Nghị Quốc Tế với nhà lãnh đạo Palestine Mahmoud Abbas về tình hình Palestine

 

Hôm Thứ Ba 1/3/2005, tại Anh quốc, trong cuộc họp quốc tế về Palestine, vị tân tổng thống Abbas đã nói rằng:

 

“Điều quan trọng nhất đó là vấn đề chúng tôi sẵn sàng, vấn đề chúng tôi hoàn toàn muốn thực hiện việc an ninh nội bộ. Chúng tôi đã dàn trải các lực lượng và chúng tôi đã đi đến quyết định cuối cùng về việc hiệp nhất các khối an ninh lại với nhau, và chúng tôi sẽ tiếp tục áp dụng quyết định này”.

 

Thật vậy, cố tổng thống Palestine Yasser Arafat đã thiết lập một số tổ chức an ninh, từ cảnh sát tới lực lượng phòng vệ riêng của ông. Thế nhưng không có một bộ chỉ huy liên kết các tổ chức này nên vấn đề an ninh không được mạnh mẽ và chặt chẽ. Ngoài ra còn có cả vấn đề khác biệt giữa hai lực lượng an ninh ở Gaza và Tây Ngạn nữa, chưa kể đến tình trạng các lực lượng an ninh khác biệt tranh giành nhau.

 

Ngoài ra, vị tân lãnh đạo Palestine còn nhấn mạnh đến việc quyết tâm của người Palestine muốn cải cách việc phát triển kinh tế nữa. Thêm vào đó, ông cũng lập lại việc ông lên án vụ khủng bố tự sát mới đây ở thủ đô Do Thái Tel Aviv:

 

“Mấy ngày trước đây có những thường dân Do Thái đã trở thành nạn nhân của một cuộc tự vẫn tấn công. Chúng tôi lên án hành động này và xin lập lại rằng những lực lượng quá khích vẫn còn có ý định hủy hoại bất cứ nỗ lực hướng tới hòa bình nào. Họ loại bỏ đường lối dân chủ đang được nhân dân Palestine cương quyết theo đuổi”. Ông gọi những tay nổ bom là “những kẻ phá hoại hòa bình” và hứa sẽ mang họ ra trước công lý.

 

Ông Tổng Thư Ký LHQ Kofi Annan cũng có mặt trong phiên họp này đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc thiết lập an ninh ở vùng này: “Tóm lại, việc thiếu tình trạng an ninh sẽ là những gì làm suy yếu hết mọi sự”.

 

Thế nhưng ông cũng nhấn mạnh đến việc rút quân và giải tỏa của bên Do Thái là những gì cần thiết cho hoạt động kinh tế của Palestine, và quốc tế cần phải làm việc với Do Thái để thực hiện điều này. Ông nói: “Thái độ nổi bật hiện nay là thái độ lạc quan. Đôi bên đã tuyên bố… quyết tâm của mình trong việc cùng nhau hoạt động. Cuối cùng rồi tất cả chúng ta có thể cảm thấy được một làn sóng phong trào mới”.

 

TOP

 

Tổng Thống Palestine Mahmoud Abbas tuyên bố: “Hòa Bình là điều khả dĩ”.

 

vert.abbas.ap.jpg

Hôm Thứ Hai 28/2/2005, tờ nhật báo Độc Lập ở Hiệp Vương Quốc đã phổ biến những lời nhận định của Tổng Thống Abbas sau vụ khủng bố tấn công người Do Thái bên ngoài một hộp đêm ở thủ đô Tel Aviv hôm Thứ Sáu 25/2/2005, những lời nhận định từ cuộc phỏng vấn bằng điện thư với tờ báo này. Tờ báo cho biết họ đã gửi các câu phỏng vấn đến cho vị tổng thống này, vị tổng thống đã được đắc cử vào ngày 9/1 và nhậm chức vào ngày 15/1/2005, từ tháng trước và ông đã gửi trả lời hôm Thứ Sáu và Thứ Bảy 25-26/2/2005, tiện thể trả lời cùng một lúc vấn đề liên quan tới vụ mới khủng bố tấn công vừa rồi.

 

“Chúng tôi đã có được một cơ hội và thật là vô trách nhiệm nếu chúng tôi, những người Do Thái hay thế giới để cho nó vuột mất.

 

“Chúng tôi tin rằng giờ đây hòa bình là điều khả dĩ và chúng tôi đang sẵn sàng thương thảo với Do Thái để tiến đến một nền hòa bình chân thực và bền vững được xây dựng trên công lý và luật lệ quốc tế”.

 

Riêng về những câu hỏi liên quan trực tiếp tới vụ khủng bố tấn công vừa rồi, vị lãnh đạo Palestine cho biết: “Cần phải giải quyết vấn đề với thành phần lãnh trách nhiệm mưu sự”, ở đây ông cố ý nói đến có một chiếc gậy chọc bánh xe, như tình báo Do Thái cũng đã khám phá ra liên quan đến tổ chức khủng bố ở Syria.

 

Tổng Thống Abbas nói “điều chú trọng đệ nhất và trên hết của người Palestine’ đó là làm sao chấm dứt được tình trạng bạo động và “cảnh hỗn loạn về an ninh”, những gì Thẩm Quyền Palestine đã dồn “tất cả nỗ lực” để thực hiện và “cho tới nay đã gặt hái được những thành quả tốt đẹp”.

 

Vị tổng thống này lập lại lời kêu gọi Do Thái hãy rút các lực lượng quân sự của họ khỏi những địa điểm trước khi bắt đầu xẩy ra chiến cuộc vào tháng 9/2000 “để cho chúng tôi cơ hội bảo đảm các trách nhiệm của chúng tôi. Việc chấm dứt tình trạng bạo lực không thể bảo trì được khi những người Palestine đang bị quân đội Do Thái hằng ngày sát hại. Vấn đề chấm dứt bạo lực là một cuộc dấn thân chung của cả người Do Thái lẫn Palestine”.

 

Tổng Thống Abbas sẽ đến Luân Đôn cho cuộc hội nghị một ngày vào Thứ Ba 1/3/2005 do Thủ Tướng Hiệp Vương Quốc Tony Blair điều hợp để đẩy mạnh việc ủng hộ của quốc tế cho Thẩm Quyền Palestine. Cuộc hội nghị này sẽ có mặt của Nội Trưởng Hoa Kỳ Condoleeoãa Rice, Tổng Thư Ký LHQ Kofi Annan, các viên chức Ngân Hàng Thế Giới và các vị ngoại trưởng thuộc 25 quốc gia Âu Châu và Ả Rập.

 

TOP

 

Biến Động đối kháng nỗ lực hòa bình, nhưng đôi bên vẫn thiện chí cương quyết tiến lên

Mới hôm mùng 8/2/2005, đôi bên đã ký kết với nhau ở Ai Cập về thỏa hiệp ngưng chiến, và đã tiên báo rằng sẽ có những thứ chống đối xẩy ra. Thật thế, hôm Thứ Sáu 25/2/2005, vào lúc 11:30 giờ đêm ở địa phương (tức 4:30 chiều ở Nữu Ước), ngay khi những hộp đêm bắt đầu mở thì xẩy ra cuộc tự sát khủng bố đầu tiên trong 4 tháng vừa rồi, xẩy ra ở gần hộp đêm The Stage. Chủ tiệm là Tzahi Cohen đã cho CNN biết rằng có khoảng từ 7 đến 10 người và 4 nhân viên an ninh canh gác ở ngoài hộp đêm này khi kẻ ôm bom cho nổ bom. Nhân viên an ninh thường kiểm soát thành phần tiến vào hộp đêm, nhưng vì hộp đêm chưa mở cửa nên những ai đứng xếp hàng chưa được kiểm xét. Hậu quả của cuộc khủng bố tự sát này gây có 4 người thiệt mạng và ít là 65 người bị thương.

 

Vào sáng sớm Thứ Bảy, Thủ Tướng Sharon tham vấn với bộ trưởng quốc phòng và lực lượng an ninh, nhưng Do Thái “vẫn dấn thân” thỏa hiệp ngưng chiến đã ký kết với Thẩm Quyền Palestine, như phát ngôn viên của Sharon là Ra’annan Gissin cho biết.

 

Bên Palestine, Tổng Thống Abbas triệu tập một cuộc họp khẩn cấp với các nhân viên an ninh của mình ở Ramallah. Ông cũng phổ biến một công văn hứa quyết là Thẩm Quyền Palestine sẽ làm hết sức có thể để truy lùng những kẻ gánh trách nhiệm về vụ tấn công này.

 

Phát ngôn viên của Thủ Tướng Sharon là Gissin nói tiếp là cuộc khủng bố hôm Thứ Sáu cho thấy Thẩm Quyền Palestine cần phải nỗ lực hơn nữa để kiềm chế những tay chiến đấu và chiến đấu với nạn khủng bố hơn là cố gắng điều đình:

 

“Đối với những tên khủng bố anh không thể nào tiến đến chỗ dung hòa. Anh không thể thực hiện những thứ thỏa hiệp. Nỗ lực của Thẩm Quyền Palestine để cố gắng tiến tới việc hiểu biết hay thỏa hiệp với tổ chức khủng bố đã không thành công. Đêm nay họ đã bất thành. Nó đã bất thành trước đây rồi. Không cần phải lên án nếu Thẩm Quyền Palestine đã thực sự thực hiện những việc giải tán các tổ chức khủng bố, giam giữ những tay khủng bố, tịch thu tất cả mọi thứ khí giới bất hợp pháp, làm tất cả những gì cần theo những đòi hỏi của lộ trình hòa bình”.

 

Phát ngôn viên bên Palestine là Erakat, trước những nhận định của bên Do Thái, cũng đã lên tiếng cho biết các lực lượng Do Thái vẫn có trách nhiệm an ninh ở nhiều thành phố Tây Ngạn. Tân chính phủ Palestine mới tuyên thể nhận chức hôm Thứ Năm 24/2/2005, sẽ “không thể dung nhượng” đối với những tay chiến đấu quân và sẽ thực hiện “tất cả mọi nỗ lực” để chiến đấu với nạn bạo động. Vị này cũng cho biết lực lượng an ninh Palestine đã liên lạc với lực lượng an ninh Do Thái để phối hợp nỗ lực với nhau.

Các lực lượng an ninh của cả Do Thái lẫn Palestine đã bắt giữ 7 người tình nghi liên quan đến nội vụ khủng bố tự sát này, sau khi người sinh viên đại học 22 tuổi tên Abdallah Badran ở làng Deir al-Ghusun phía bắc Tây Ngạn, gây ra cuộc khủng bố này. Trong số 7 người này có 2 anh em của phạm nhân và 3 người cùng làng do lực lượng an ninh Do Thái vây bắt sau khi nhận diện được kẻ khủng bố. Còn 2 người khác do lực lượng Palestine bắt cũng ở Tây Ngạn có liên quan đến vụ nổ bom khủng bố này. Không một nhóm khủng bố nào lên tiếng nhận trách nhiệm như các lần trước. Tổng Thống Abbas của Palestine đã tuyên bố:

 

“Chúng tôi sẽ mang họ ra trước công lý. Chúng tôi sẽ không để cho bất cứ ai phá hoại những tham vọng của nhân dân chúng tôi… những ai thực hiện cuộc tấn công này là các kẻ khủng bố. Có một nhóm thứ ba muốn phá hoại tiến trình hòa bình này”.

 

Bên Palestine, một tân chính phủ vừa chính thức tuyên thệ nhận chức. Bộ nội các này gồm có 24 vị, đa số là thành phần chuyên nghiệp (10 tiến sĩ, 1 bác sĩ, 1 luật sư, một số kỹ sư và một số với cấp bằng cao học, 2 nữ giới), một bộ nội các đã được quốc hội công nhận với đa số phiếu (54-12 với 4 phiếu trống) theo chiều hướng thực hiện việc canh tân chính quyền được hứa hẹn lâu dài. Bộ nội các đã tuyên thệ tại tổng hành dinh của Tổng Thống Mahmound Abbas tại tỉnh Ramallah ở Tây Ngạn, mấy tiếng đồng hồ sau khi quốc hội chuẩn nhận. Bộ Nội Các này được lãnh đạo bởi Thủ Tướng Ahmed Qorei, vị đang làm thủ tướng dưới thời cố tổng thống Arafat thay Thủ Tướng Abbas xin từ chức trước đó, cũng là vị khởi xướng việc giữ lại những người bạn chí thân từ thời cố tổng thống Arafat.

 

Tổng Thống Abbas đã nhận định về 17 phần tử mới trong Nội Các như sau: “Họ là thành phần trẻ trung và chuyên nghiệp, nên tôi nghĩ rằng họ có khả năng thi hành nhiệm vụ của họ. Chúng tôi đã chọn lựa họ rất kỹ lưỡng”.

 

Những lời này của tổng thống Abbas nhấn mạnh đến tính cách chuyên nghiệp của thành phần mới (trong cả 100 chuyên gia thượng hạng được chọn từng người một) hơn là về vấn đề chính trị đã thuyết phục được thành phần lập pháp thuộc đảng Fatah của ông trong cuộc tranh luận giữa quốc hội và thủ tướng Qorei.

 

TOP

 

Do Thái chính thực trả tự do cho 500 tù nhân Palestine

 

Hôm Thứ Hai 21/2/2005, ngay sau ngày Bộ Nội Các chấp thuận dự án giải tỏa các vùng dân cư Do Thái ở trên phần đất Palestine Gaza và Tây Ngạn từ năm 1967, Do Thái đã thực sự chính thức trả tự do cho 500 tù nhân Palestine. Những vị thủ lãnh cư dân Do Thái các vùng này đã hứa quyết không tự nguyện bỏ đi, và các nhân viên an ninh đang phải tăng cường sửa soạn cho những cuộc đối đầu dữ dội xẩy ra.

Cuộc trao trả tù nhân này đã được thực hiện đúng như những gì Do Thái thỏa hiệp với Palestine trong cuộc họp thượng đỉnh mới đây ở Ai Cập. Các đoàn xe buýt chở đầy tù nhân rời nhà tù Ketziot ở sa mạc vào khoảng bình minh ngày Thứ Hai này, và đến 5 địa điểm thả người khác nhau gần biên giới Tây Ngạn và Gaza trước trưa một chút. Họ đã được hân hoan chào đón bởi đám đông thân thuộc họ hàng bạn hữu.

Thành phần được thả đợt này hoàn toàn không dính dáng gì tới những cuộc khủng bố tấn công Do Thái. Do Thái hứa sẽ thả thêm 400 tù nhân nữa trong vòng 3 tháng tới. Tiểu ban hỗn hợp Do Thái và Palestine sẽ quyết định thành phần nào sẽ được thả ra sau đợt đầu tiên này. Do Thái không đồng ý với Palestine về việc Palestine đòi phải thả ra những tù nhân bị án lâu năm, bao gồm cả thành phần khủng bố tấn công Do Thái.

Trong khi đó, cũng vào cùng ngày thứ hai này, bên Palestine ở Tây Ngạn các nhà lập pháp thuộc phong trào Fatah của Tổng Thống Abbas đã đồng ý chấp thuận một Bộ Nội Các 24 vị mới sau khi tranh luận rất lâu đòi phải có nhiều thay đổi. Một trong những bộ mặt mới trong Bộ Nội Các được chấp thuận này là Nasser Yousef nắm vai trò bộ trưởng nội vụ đặc trách các lực lượng an ninh. Cố Tổng Thống Arafat trước đây, khi Tổng Thống Abbas còn là Thủ Tướng cho ông, đã phản đối việc bổ nhiệm vị này, một cựu tướng lãnh, vì cố tổng thống này muốn giành quyền kiểm soát các lực lượng an ninh. Yousef đã thay thế cho Hakam Bilawi là người bạn nối khố của cố tổng thống Arafat. Một bộ mặt mới nữa trong Bộ Nội Các là Nasser al-Kidwa, cháu của cố tổng thống Arafat, vốn đóng vai trò đại diện Palestine ở Liên Hiệp Quốc, sẽ giữ vai trò bộ trưởng ngoại kiều thay cho Nabil Shaath, vị giữ chức phó thủ tướng.

 

TOP

 

Bộ Nội Các Do Thái cuối cùng đã chấp thuận việc giải tỏa vấn đề Do Thái định cư ở vùng Palestine

 

Hôm Chúa Nhật 20/2/2005, Bộ Nội Các Do Thái cuối cùng đã chấp thuận việc chính phủ dự định giải tỏa vấn đề dân Do Thái định cư ở những vùng đất Palestine là Gaza và Tây Ngạn là những vùng lực lượng Do Thái đã chiếm được từ cuộc phản công năm 1967. Quyết định đây đã đánh dấu lần đầu tiên chính quyền Do Thái muốn giải tỏa những nơi cư trú của người Do Thái ở miền đất được các người Palestine đòi cho quốc gia sau này của họ.

 

Thủ Tướng Sharon, sau mấy tiếng dự án này được quyết định, đã nói với thành phần lãnh đạo Do Thái Hoa Kỳ rằng đây là một trong những quyết định khá khăn nhất ông đã thực hiện. Gọi quyết định này là motä quyết định “lịch sử”, ông nói rằng nó sẽ “định đoạt tương lai của quốc gia Do Thái”.

 

Các vị bộ trưởng đã bỏ phiếu thuận 17 và chống 5 cho dự án giải tỏa, đứng đầu là bộ trưởng tài chính Benjamin Natanyahu, vượt chỉ số phiều cần phải trưng cầu dân ý theo ý đồ của thành phần chống đối. Cuộc giải tỏa này sẽ xẩy ra cho 9 ngàn người Do Thái sẽ được bắt đầu vào tháng 7/2005 và sẽ phải mất 2 tháng. Chính phủ sẽ chi 871 triệu Mỹ kim bồi thường cho các cư dân bị giải tỏa, tùy theo số người trong gia đình, tùy theo nhà thuê hay nhà mua, tùy theo mua lâu hay chóng. Sẽ có hằng ngàn quân nhân tham dự vào việc giải tỏa dân cư Do Thái này.

 

Theo một viên chức trong chính quyền Do Thái thì Thủ Tướng Sharon đã ký một sắc lệnh ấn định về trường hợp những người Do Thái ở Gaza và phía bắc Tây Ngạn sau ngày 20/7/2005 nếu vẫn còn ở những nơi đã được giải tỏa này là bất hợp pháp và bấy giờ sẽ bị võ lực bắt phải dời đi chỗ khác.

 

Cũng vào ngày chấp thuận dự án giải tỏa việc định cư của dân Do Thái ở những vùng đất Palestine này, Bộ Nội Các Do Thái đã chấp thuận vòng đai cuối cùng phân biệt Do Thái ở Tây Ngạn, một bức tường rào cản thoạt tiên để ngăn chặn các tay khủng bố Palestine nhưng dần dần được coi như việc phân ranh giới giữa Do Thái và nước Palestine sau này. Bức tường ngăn cách này sẽ kéo dài 425 dặm song mới được hoàn tất 1/3.

 

Với việc bỏ phiếu chấp thuận hai quyết định trong cùng một ngày này, chính phủ Sharon bắt đầu đơn phương vẽ lại các biên giới cuối cùng của Do Thái, một điều không một vị tiền nhiệm nào của đương kim thủ tướng cố làm kể từ khi chiếm được Tây Ngạn, Gaza và phía đông Giêrusalem vào năm 1967.

 

Riêng về vấn đề bức tường ngăn cách nếu tiếp tục sẽ làm cho 4 khu làng của 10 ngàn người Palestine (Hussan, Wadi Fukin, Nahalin and Bittir) thuộc về bên phần đất của Do Thái, tức bên Palestine sẽ mất chừng từ 6 đến 8% đất ở Tây Ngạn cho bên do Thái.

 

Vị tân lãnh đạo Palestine là Tổng Thống Mahmoud Abbas, trước việc bỏ phiếu quyết định của phe Do Thái, đã nói trong cuộc phỏng vấn với tờ nguyệt san tin tức Der Spiegel của Đức rằng Do Thái cần phải giải tỏa tất cả mọi nơi định cư cũng như cần phải chặn đứng việc xây cất bức tường ngăn cách, đồng thời cũng cho biết là Tổng Thống Bush không thể quyết định vận mạng của Palestine.

 

TOP

 

Những nỗ lực của đôi bên sau thỏa hiệp ngưng chiến

 

Sau thỏa hiệp ngưng chiến là thành quả của cuộc họp thượng đỉnh hôm Thứ Ba 8/2/2005 giữa Thủ Tướng Do Thái Ariel Sharon và Tân Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine Mahmoud Abbas, đôi bên đã bắt đầu thực hiện những gì mình hứa quyết.

 

Bên phía Palestine, một cuộc gặp gỡ giữa vị tân tổng thống và các lãnh tụ thuộc hai nhóm chiến đấu quân của Palestine, là những nhóm nhất định không đội trời chung với Do Thái, đã diễn ra ở Gaza vào đầu tuần lễ xẩy ra cuộc họp thượng đỉnh. Đó là Nhóm Hamas, một tổ chức bảo thủ Hồi giáo Palestine, bị Hoa Kỳ liệt kê vào danh sách khủng bố, và

 

Nhóm Thánh Chiến Hồi giáo Palestine, dưới quyền lãnh đạo hiện nay của Nafez Azam (hình bên), là nhóm chiến đấu quân dấn thân kiến tạo một quốc gia Palestine Hồi giáo và hủy diệt Do Thái.

 

Nhóm Hamas đã hứa ngưng việc bạo động chống người Do Thái như là một phần ngừng chiến chung của tất cả mọi nhóm chiến đấu quân, bao gồm cả nhóm quân lực thuộc phong trào Fatah của Tổng Thống Abbas, một phong trào ái quốc Palestine chính thức của Tổ Chức Giải Phóng Palestine (PLO: Palestine Liberation Organization) dấn thân để hình thành một quốc gia Palestine độc lập. 

 

Nhóm Hamas cũng đồng ý thôi những hành động trả đũa nếu những người Palestine bị người Do Thái tấn công, và sẽ tham vấn với Thẩm Quyền Palestine trước khi rat ay hành động. Nhóm này cũng muốn Do Thái ngưng lại các cuộc tấn công thành phần lãnh đạo cao cấp của mình và không xâm lấn vào các lãnh thổ của Palestine. Vị tân lãnh đạo của nhóm này là Mahmoud Zahar (hình bên) đã tuyên bố rằng: “Nếu (những người Do Thái) thôi việc tấn công của họ bằng mọi cách, nhắm người, phá hủy, chiếm cứ và những cách thức khác, chúng tôi sẽ tuyên bố chúng tôi nhất định im hơi lặng tiếng”.

 

Hôm Thứ Năm 10/2/2005, Tổng Thống Abbas đã bãi nhiệm 3 viên chức an ninh chính của mình sau khi các chiến đấu quân Palestine bắn súng cối vào các cộng đồng Do Thái ở Gaza. Ba viên chức an ninh này là Omar Ashur, tư lệnh an ninh vùng nam Gaza cùng với một số nhân viên của vị tư lệnh này, cũng như Maj. Gen. Abdel Razek Majaidem, vị thủ lãnh lực lượng Phòng Vệ An Ninh Quốc Gia, và Saeb al-Ajis, tư lệnh lực lượng cảnh sát.

 

Còn bên Do Thái, hôm Thứ Bảy 12/2/2005, đã loan báo rằng họ sẽ thả 56 người Palestine bị trục xuất khỏi nhà của mình ở Tây Ngạn về, kể cả những tay chiến đấu quân Palestine, trong đó có Ganem Swelem (hình bên) là phát ngôn viên của nhóm dính dáng đến vụ Nhà Thờ Giáng Sinh ở Bêlem gần ba năm trước. Vụ Nhà Thờ Giáng Sinh ở Bêlem vào mùa xuân năm 2002 này đã được giải quyết bằng việc đầy 13 tay “khủng bố có hạng” của Palestine bị lực lượng Do Thái công hãm từ ngày 2/4 đến 10/5/2002 ở ngôi thánh đường này sang Âu Châu đến các quốc gia Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ý, Canada, Áo và Luxembourg.

 

Nếu bên Palestine đã tỏ ra nỗ lực về vấn đề thực hiện thỏa hiệp ngưng chiến với Do Thái, bằng việc các nhóm chiến đấu quân tỏ thiện chí theo chiều hướng của Tân Tổng Thống Abbas và vị tổng thống này cũng đã rat ay bãi chức bat ay tổ ngành an ninh Palestine đã để xẩy ra vụ tấn công người Do Thái, thì bên Do Thái cũng đã chứng tỏ việc dấn thân ttheo lộ trình hòa bình, bằng việc hôm Chúa Nhật 13/2/2005, Bộ Nội Các của họ đã chấp thuận một danh sách 500 tù nhân Palestine được trả tự do vào những ngày tới đây, và mấy trăm nhân công Palestine (120 ngàn trước khi cuộc chiến bùng nổ vào tháng 9/2000) trở lại làm việc ở Do Thái.

Thành phần tù nhận được phe Do Thái thả ra là những người không dính dáng đến các vụ tấn công Do Thái và đã trải qua 2/3 án tù của họ. Thành phần bạo động cũng sẽ được thả ra sau này nếu vấn đề ngưng chiến giữa hai bên được tuân giữ.

Ngoài ra, Do Thái tiếp tục thả thêm 400 tù nhân Palestine trong vòng 3 tháng. Tuy nhiên, một trong những vị bộ trưởng thuộc nội các Palestine là Saeb Erakat đã chỉ trích Do Thái là Do Thái thi hành việc thả tù bình này một cách đơn phương không nói chi với Palestine cả: “Chúng tôi kêu gọi chính quyền Do Thái là vào lần thả tới sẽ được thực hiện một cách hoàn toàn thỏa thuận giữa đôi bên, qua tiểu ban hỗn hợp phái bộ sẽ gặp nhau ngày mai”.

Con số thành phần tù binh được thả chỉ chiếm một phần nhỏ trong khoảng 8 ngàn tù nhân Palestine bị phe Do Thái giam nhốt trong tù. Những người Palestine yêu cầu tất cả được thả ra, nhưng bên Do Thái nhấn mạnh là với một số luật trừ, nhất là với thành phần tù nhân “tay nhuốm máu”.

Ngoài ra, quân đội Do Thái cũng cho biết là thi thể của 15 người Palestine bị giết chết năm ngoái trong vụ tấn công các khu cư dân Do Thái cùng khu quân sự của họ ở Gaza sẽ được trả lại cho bên Palestine ở Gaza vào Thứ Hai 14/2/2005 để được chôn táng.

Cũng vào hôm Chúa Nhật, vị đệ nhất trợ tá của Thủ Tướng Sharon là Raanan Gissin, đã cho biết rằng các cơ quan công lực sẽ triệt để không dung tha cho những tay Do Thái cực đoan, sau khi một vị bộ trưởng trong Nội Các nhận được lời đe dọa sát hại con cái của ông và một viên chức cao cấp khác có chiếc xe bị rạch nát bánh.

Những hành động tấn công ấy là những gì tỏ ra phản ứng bất thuận với thỏa hiệp của Thủ Tướng Sharon với phe Palestine tuần trước. Chính bản thân Thủ Tướng Sharon cũng bị đe dọa, đến độ có thể xẩy ra một tay Do Thái ôm bom tự sát tấn công cả ông lẫn đám hộ vệ của ông.

Trước tình hình chống đối bên Do Thái của mình liên quan đến dự án tháo giải ở phần đất Palestine Gaza và Tây Ngạn, Thủ Tướng Sharon đã tuyên bố hôm Thứ Ba 15/2/2005 rằng ông “sẽ làm mọi cách trong tầm tay để tránh cuộc rạn nứt trong nước”.

Thật vậy, trong cuộc họp báo do Hiệp Hội Báo Chí Hải Ngoại tổ chức, nói bằng tiếng Anh, Thủ Tướng Sharon đã nói rằng dự án giải tỏa các địa điểm cư dân Do Thái ở những phần đất Palestine là “một trong những hành động khó khăn nhất tôi gặp phải trong nhiệm kỳ làm thủ tướng của tôi”.

Về những đe dọa tác hại ông cùng chính phủ của ông đã từng được điều tra từ khi biết được vào tháng 9/2004, vị thủ tướng này cho biết rằng: “Tình trạng an toàn bản thân cá nhân tôi không chi phối được tôi cũng chẳng ảnh hưởng gì tới dự án của tôi hết. Tôi không quan tâm gì và tôi đã quyết định thi hành quyết định của chính quyền. Những thứ đe dọa như thế là những gì bất khả chấp. Trong suốt cuộc đời của mình tôi không bao giờ chịu thua đe dọa cả và tôi không có ý định giờ đây bắt đầu”.

Vào năm 1995, vị Thủ Tướng Do Thái bấy giờ là Yitzhak Rabin bị bắn chết ở một cuộc biểu tình hòa bình ở thủ đô Tel Aviv bởi một người Do Thái cực kỳ ái quốc là Yigal Amir, một cuộc ám sát đã làm cho các cơ quan an ninh Do Thái phải lấy làm bàng hoàng sửng sốt. Tay ám sát uất hận vì vị thủ tướng bấy giờ ủng hộ Hòa Ước Oslo là hòa ước có ý định bán đất lấy hòa bình với những người Palestine.

Thủ Tướng Sharon nói Do Thái sẽ điều hợp với Thẩm Quyền Palestine để thực hiện dự án của ông trong việc giải tỏa 21 địa điểm cư trú của người Do Thái ở Gaza, một sự điều hợp vị thủ tướng này không có được dưới thời cố lãnh tụ Palestine Yasser Arafat. Một số nhóm của thành phần cư trú nơi sẽ bị giải tỏa trước đây ủng hộ Sharon nay cho ông là tên phản trắc.

Cũng vào hôm Thứ Ba 15/2/2005, Thủ Tướng Sharon đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc điều hợp giữa đôi bên như thế này:

“Tôi nghĩ rằng nó là vấn đề rất quan trọng đối với chúng tôi, bởi vì, trước hết, tôi muốn rằng miền mà chúng tôi rút bỏ trong tương lai sẽ không lọt vào tay phái Hamas hay Thánh Chiến Hồi giáo hoặc bất cứ một tổ chức khủng bố cực đoan nào, mà là vào tay của Thẩm Quyền Palestine”.

Trong khi đó, Tân Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine Mahmoud Abbas đã trình bày một tân Nội Các cho phong trào Fatah của ông để được chấp thuận vào hôm Thứ Ba 15/2/2005. Tổng Thống Abbas chỉ bổ nhiệm 3 người mới mà thôi cho các bộ nội vụ, hải ngoại và thông tin, ngoài ra tất cả đều còn y nguyên.

 

TOP

 

Cuộc Họp Thượng Đỉnh lịch sử giữa Do Thái và Palestine với thành quả: thỏa hiệp Ngưng Chiến

 

Đúng như đã được dự định, hai vị lãnh đạo cao cấp của hai bên Do Thái là Thủ Tướng Ariel Sharon và Tân Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine Mahmound Abbas đã gặp nhau hôm Thứ Ba 8/2/2005, tại Sharm El-Sheikh Ai Cập, và kết quả đã đi đến chỗ quyết định ngưng chiến.

 

Tân Tổng Thống Abbas cho biết sau cuộc họp thượng đỉnh này rằng: “Chúng tôi đã đồng ý với Thủ Tướng Sharon ngưng tất cả mọi thứ bạo lực phạm đến nhân dân Do Thái cũng như nhân dân Palestines ở bất cứ nơi nào”.

 

Ngay sau lời tuyên bố này của vị tân tổng thống phe Palestine, nhóm khủng bố Hamas bảo thủ Hồi giáo đã phổ biến một bản văn cho biết đó không phải là một đảng phái đồng ý mà chỉ là chủ trương của Thẩm Quyền Palestine mà thôi.

 

Cuộc họp thượng đỉnh lịch sử, sau hơn 4 năm này, đã diễn ra tại khu nghỉ mát Biển Đỏ Sharm el-Aheikh, một cuộc họp được điều hành bởi chính Tổng Thống Ai Cập Hosni Mubarak và Quốc Vương Jordan Abdullh II.

 

Thủ Tướng Sharon cho biết: “Chúng tôi thực sự hy vọng hôm nay sẽ là ngày đánh dấu một cuộc tái bắt đầu tiến trình hướng về một tương lai tốt đẹp hơn giúp chúng ta tới chỗ tương kính và sống bình an ở Trung Đông”.

 

Vị Tân Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine Abbas cũng có cùng một nhận định: “Một cơ hội mới cho hòa bình được phát hiện”.

 

Hai nước Jordan và Ai Cập, theo các viên chức ngoại giao cho biết, đã tuyên bố là chính phủ của họ sẽ tái thiết lập các vị lãnh sự với Do Thái sau 4 năm rút lui. Cả hai quốc gia này đều giữ bản hiệp ước hòa bình với nước Do Thái, song đã rút các vị lãnh sự của họ về sau khi xẩy ra cuộc xung đột giữa Do Thái và Palestine gia tăng vào tháng 9/2000.

 

Chính tại địa điểm của cuộc họp thượng đỉnh lần này cũng là cuộc họp thượng đỉnh của hai khối này vào tháng 10/2000. Bấy giờ có khoảng 100 người, hầu hết là Palestine đã bỏ mạng trong 3 tuần lễ bạo động chung quanh cuộc họp thượng đỉnh lần ấy, lần được Tổng Thống Bill Clinton làm trung gian và diễn tiến giữa Thủ Tướng Do Thái Ehud Barak và cố lãnh đạo gia Palestine Yasser Arafat, với thành quả là “một bản văn cố ý” chấm dứt chiến tranh không chữ ký, và các cuộc đụng độ giữa hai bên ở Gaza và Tây Ngạn cứ tiếp tục càng ngày càng kinh hoàng dường như không lối thoát.

 

Tổng Thống George Bush cũng đã gặp các vị lãnh đạo Khối Ả Rập vào tháng 6/2003 trong chuyến đi bao gồm cả cuộc gặp gỡ ở Jordan hai vị thủ tướng hai bên là Sharon và Abbas (bấy giờ đang làm thủ tướng). Tổng Thống Bush, trong cuộc họp Nội Các hằng tuần hôm Thứ Hai 7/2/2005 vừa rồi tỏ ra mong gặp gỡ riêng từng vị lãnh tụ của hai khối này vào mùa xuân tới đây, (như nội trưởng Rica đã cho biết sau khi bà gặp riêng từng vị này hôm Chúa Nhật và Thứ Hai vừa qua), và bày tỏ nhận định của mình về hai nhà lãnh tụ này như sau:

 

“Tôi đã lấy làm cảm phục việc Thủ Tướng Abbas từng dấn thân dẹp bỏ nạn khủng bố. Tôi cũng lấy làm cảm phục về sự kiện Do Thái giúp cho những người Palestine thực hiện việc bầu cử, thực hiện đường lối để bảo đảm dân chúng có thể đến các trạm phiếu”.

 

Cuộc họp hôm Thứ Ba 8/2/2005 lần này là lần đầu tiên giữa Thủ Tướng Sharon và Tân Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine Abbas từ sau khi vị này trúng cử thay thế cố lãnh tụ Arafat.

 

Sau cuộc bấu cử cho Abbas, hai bên đã tin tưởng thực hiện những gì có thể liên quan đến tình hình an ninh, đến tù nhân Palestine cũng như đến việc rút quân của Do Thái khỏi các vùng của Palestine. Trong khi tân Tổng Thống Abbas đã dàn lực lượng an ninh trong các lãnh thổ của Palestine để ngăn chặn các cuộc khủng bố tấn công của bên ông thì các viên chức Do Thái đã chấp thuận việc thả một số tù nhân Palestine. Tuần vừa rồi, tiểu ban Nội Các Do Thái đã chấp thuận chấm dứt việc sát hại những tay hiếu chiến Palestine đáng ngờ vực cũng như việc rút quân khỏi 5 thành phố ở Tây Ngạn.

 

Sau đây là những lời phát biểu của hai vị lãnh tụ hai bên trong cuộc họp Thượng Định lịch sử hướng về một tương lai hòa bình ở Thánh Địa và Trung Đông này.

 

TOP

 

Những Lời Phát Biểu của Tân Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine Mahmound Abbas: "Đây là cao điểm để nhân dân chúng ta hoan hưởng hòa bình và quyền được sống một cuộc đời bình thường, như tất cả mọi dân tộc khác trên thế giới".

 

Nhân danh Thiên Chúa, kính thưa ngài Tổng Thống Hosni Mubarak, Quốc Vương Abdullah Đệ Nhị, Thủ Tướng Ariel Sharon, và cùng chư vị nữ nam thân mến, trước hết tôi xin được bắt đầu bằng việc bày tỏ lòng biết ơn cùng cảm mến của tôi với Tổng Thống Mubarak cũng như nước Cộng Hòa Ả Rập Ai Cập về việc điều hành cuộc họp này như là một thứ tiếp nối nơi vai trò hiệu năng của Ai Cập trong vấn đề bảo trợ cho tiến trình hòa bình trong miền của chúng ta. 

 

Tôi cũng cám ơn Quốc Vương Abdullah về nỗ lực của vua cũng như các nỗ lực của Vương Quốc Hashemite của Jordan đối với việc này nữa. Và tôi xin chúc mừng Quốc Vương và Nữ Hoàng Rania đã sinh được một hoàng tử là Hashim cũng như chúc mừng ngày vào đời của hoàng tử này.

 

Chúng tôi đã đồng ý với Thủ Tướng Ariel Sharon ngưng tất cả mọi hành động bạo lực phạm đến nhân dân Do Thái cũng như nhân dân Palestine ở bất cứ nơi nào. Tình trạng bình lặng và yên hàn sẽ được diễn ra, và tại mảnh đất của chúng tôi, bắt đầu từ hôm nay, là mở màn cho một tân kỷ nguyên. Việc mở màn cho hòa bình và hy vọng này, những gì được loan báo hôm nay đẩy mãnh việc áp dụng khoản đầu tiên của lộ trình hòa bình do khối tứ tượng thiết lập. Nó cũng là một bước tiến, và là một bước tiến căn bản, một bước tiến quan trọng mang lại một cơ hội mới để phục hồi tiến trình hòa bình cùng cái đà của nó, hầu nhân dân Palestine và Do Thái lấy lại được niềm hy vọng và tin tưởng vào cơ hội có thể chiếm đạt hòa bình.

 

Tôi tin rằng tất cả chúng ta hiểu được các thứ trách nhiệm lớn lao của mình và liên kết trách nhiệm để nắm lấy cơ hội khả dĩ này và phát triển nó. Điều này có thể đạt được bằng hoạt động khẩn trương phục hồi tinh thần đồng hữu và hỗ tương cùng tránh những bước tiến đơn phương.

 

Bắt đầu từ giây phút này, chúng ta cần phải bảo vệ những gì chúng ta đã loan báo, cung cấp những đường lối xứng hợp đối với việc áp dụng thực hành. Những gì chúng ta đồng ý hôm nay đây chỉ là khởi điểm cho một tiến trình ghép nối khoảng cách biệt và khác biệt giữa tất cả chúng ta.

 

Chúng ta khác nhau về một số vấn đề. Điều này bao gồm vấn đề định cư, thả tù nhân, bức tường cản đóng các cơ cấu ở Giêrusalem. Chúng ta không thể giải quyết tất cả tất cả mọi vấn đề này hôm nay, thế nhưng các chủ trương của chúng ta đối với những vấn đề ấy đã rõ ràng minh bạch và mạnh mẽ. Việc gia tăng nỗ lực của chúng ta sẽ dẫn chúng ta tới chỗ áp dụng một điều đòi buộc khác trong lộ trình hòa bình, một điều đòi buộc đang đặt lại vấn đề thương lượng về vị thế cuối cùng để chấm dứt việc Do Thái chiếm đóng vào năm 1967, về lãnh thổ Palestine và giải quyết tất cả mọi thứ liên quan tới vị thế cuối cùng này, như thành Giêrusalem, thành phần tị nạn, những nơi định cư cùng các thứ khác được bao gồm ở vị thế cuối cùng ấy cũng như bao gồm những thương lượng theo các điều liên quan tới lộ trình hòa bình được đề cập tới ngay trong lộ trình hòa bình.

 

Thưa ngài Tổng Thống, ngài Quốc Vương và ngài Thủ Tướng, mới chưa đầy một tháng trước đây, nhân dân Palestine đã đi tới các thùng phiếu để bầu tổng thống Palestine, được tổ chứa sau cuộc ra đi của Tổng Thống Yasser Arafat. Nơi việc làm dân chủ quan trọng này, nhân dân Palestine, qua việc bầu cử của mình, đã thể hiện chiều hướng hòa bình chân chính của mình là những gì sẽ đưa đến việc chấm dứt những đòi hỏi của chiến tranh, bạo lực và xâm chiếm. Hòa bình tức là thiết lập một quốc gia Palestine, hay một quốc gia dân chủ Palestine độc lập cùng với Quốc Gia Do Thái, như được đề cập tới trong dự án lộ trình hòa bình.

 

Tại thành phố Sharm el-Sheikh này đây, thành phố hòa bình, đại diện cho Tổ Chức Giải Phóng Palestine (PLO: Palestinian Liberation Organization) và Thẩm Quyền Palestine, chúng tôi xin lập lại việc chúng tôi gắn bó với những khoản liên quan tới tiến trình hòa bình cũng như tới những giải quyết hợp pháp của quốc tế cùng những giải quyết được chấp thuận bởi PLO, chính phủ Palestine, chính phủ Do Thái và bởi cả lộ trình hòa bình nữa.

 

Tôi cũng xin xác định chủ ý của chúng tôi trong việc tôn trọng tất cả những trách nhiệm của mình và trong việc áp dụng tất cả mọi việc dấn thân của chúng tôi. Chúng tôi sẽ không bỏ qua một nỗ lực nào để bảo vệ cơ hội hòa bình vừa phát hiện này, những nỗ lực được thực hiện qua những gì chúng tôi đã tuyên bố ở đây hôm nay. Chúng tôi hy vọng rằng chư huynh ở nước Cộng Hòa Ả Rập Ai Cập và Vương Quốc Hashemite Jordan sẽ tiếp tục những nỗ lực tốt đẹp của họ, và chúng tôi hy vọng rằng khối tứ tượng (biệt chú của người dịch: Liên Hiệp Quốc, Mỹ, Nga, Khối Hiệp Nhất Âu Châu), một khối tứ tượng quốc tế, sẽ tái thực thi trách nhiệm của mình để đẩy mạnh tình trạng tiến bộ Palestine và Do Thái, bằng cách tái thiết tiến trình hòa bình liên quan cả đến Syria và Labanon nữa.

 

Đây là lúc cao điểm nhân dân Palestine cần phục hồi lại quyền tự do và nền độc lập của mình. Đây là cao điểm chấm dứt các thập niên, những thập niên dài khổ đau. Đây là cao điểm để nhân dân chúng ta hoan hưởng hòa bình và quyền được sống một cuộc đời bình thường, như tất cả mọi dân tộc khác trên thế giới ở dưới một chủ quyền theo pháp luật, một thẩm quyền duy nhất và một khí giới duy nhất có tính cách đa dạng về chính trị.

 

Chúng tôi hướng về ngày đó và hy vọng nó sẽ mau đến bao nhiêu có thể để ngôn ngữ của những cuộc thương thảo thay thế cho ngôn ngữ đạn bom, ngày mà đời sống xóm làng và sinh hoạt với nhau sẽ diễn ra thay vì chiến tranh; để cống hiến cho cháu chắt của chúng ta và các thế hệ mai hậu của chúng ta, cả nhân dân Palestine lẫn Do Thái, một ngày mai khác hắn, một ngày mai hứa hẹn.

 

Đây là một cơ hội mới. Một cơ hội mới hòa bình đạt được hôm nay đây ở thành phố hòa bình này. Tất cả chúng ta hãy hứa quyết bảo vệ cơ hội này để có thể thấy được hy vọng hòa bình trở thành sự thật hằng ngày chân thực nơi miền này.

 

Xin cám ơn rất nhiều.

 

 TOP

 

Những Lời Phát Biểu của Thủ Tướng Do Thái Ariel Sharon: "Chỉ có khi nào loại trừ đi bạo lực chúng ta mới có thể cống hiến hy vọng cho hòa bình mà thôi".

 

…….. (phần chào chúc mở đầu tương tư như của lãnh tụ Palestine Abbas)

 

Năm chúng ta tin tưởng đây sẽ đánh dấu một khúc quanh quan trọng nơi tính chất của đời sống của tất cả mọi dân tộc ở miền này, nhất là nhân dân Palestine và nhân dân Do Thái. Và chúng ta thực sự tin tưởng cơ hội này sẽ không bị bỏ lỡ. Chúng ta có cơ hội để quay lưng lại với con đường đổ máu đã từng áp đặt trên chúng ta 4 năm qua. Chúng ta có dịp để bắt đầu bước đi trên một con đường mới lần đầu tiên, cho tới nay, sau cả một thời gian rất dài. Chúng ta thấy được những dấu hiệu của một niềm hy vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn cho con cái cháu chắt của chúng ta.

 

Chúng ta cần phải cẩn trọng tiến lên. Đây là một dịp rất ư là mong manh và chúng ta biết rằng có những thành phần cực đoan đang chờ chực để phá vỡ cơ hội này, thế nhưng tùy ở chúng ta trong việc bảo đảm rằng họ không thể nhận chìm cơ hội này vào máu huyết. Nếu chúng ta không làm sao để có thể nắm lấy cơ hội này bay giờ đây thì họ sẽ thành đạt, song chúng ta được được để họ làm thế.

 

Hôm nay đây, tại nơi này, tất cả chúng ta cần phải tuyên bố rằng không để cho bạo lực thắng thế. Bạo lực sẽ không được phép sát hại hy vọng. Tất cả chúng ta cần phải nhất định không thực hiện một giai đoạn yên tĩnh phù du thoáng qua, trái lại, tất cả chúng ta cần phải không ngừng và hăng say phá vỡ guồng máy khủng bố một lần vĩnh viễn. Chỉ có khi nào loại trừ đi bạo lực chúng ta mới có thể cống hiến hy vọng cho hòa bình mà thôi. Chúng ta không được phép để vuột khỏi bàn tay của chúng ta cơ hội này, niềm hy vọng này, cơ hội để thực sự khởi đầu lại này.

 

Và đó là lý do tại sao chúng tôi đã từng hoạt động rất hăng say và hết sức dứt khoát trong việc tái lập mối liên hệ của chúng tôi với bên Palestine. Trong mấy ngày vừa rồi chúng tôi đã có được những kiến thức mới về những con số phản nghịch với người Palestine của chúng tôi, một kiến thức có thể mang lại hòa bình và yên ổn cho cả hai dân tộc.

 

Trong cuộc gặp gỡ của tôi với Ông Abbas hôm nay, tôi đã tiến đến chỗ đồng ý rằng người Palestine sẽ chấm dứt tất cả mọi hoạt động của thành phần Palestine bạo lực, ở hết mọi nơi. Ngược lại, Do Thái sẽ chấm dứt những cuộc hành quân của mình chống lại người Palestine ở tất cả mọi địa điểm. Chúng tôi thực sự tin tưởng và hy vọng rằng kể từ hôm nay một tân kỷ nguyên sẽ được khai mào trong yên hàn và bình lặng.

 

Ngoài ra, chúng tôi đã đồng ý về những dàn xếp mới mẻ về an ninh đối với các địa điểm của người Palestine. Tôi đã tường trình cho Chủ Tịch Abbas về một loạt những đường lối xây dựng niềm tin tưởng. Chúng tôi sẽ thả ra tất cả những đợt tù nhân và chúng tôi sẽ thiết lập một tòa án mới để giải quyết vấn đề dàn xếp việc thả các tù nhân sau này.

 

Chúng ta thực sự hy vọng rằng chúng ta sẽ có được một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên sẽ mang lại một đổi thay thực sự để làm căn bản xứng hợp và vững chắc cho những mối liên hệ mới giữa chúng ta. Tôi cương quyết áp dụng dự án giải gỡ đã được tôi khởi xướng. Dự án này đã được khởi xướng như là một bước tiến đơn phương của chúng tôi, thế nhưng, nếu thực sự có sự đổi thay về phía Palestine, thì việc giải gỡ này có thể mang lại hòa bình và thực hiện như là điểm khởi sự mới cho dự án được hợp tác và thành đạt.

 

Dự án giải gỡ này có thể sẽ mở đường cho việc thực hiện lộ trình hòa bình được chúng ta dấn thân thực hiện và muốn mang ra thi hành. Chúng tôi đang sửa soạn để đảm nhận tất cả những gì chúng tôi đã chấp nhận và biến chúng thành hành động chứ không phải lời nói. Đó là con đường duy nhất chúng ta có thể đạt đến chỗ có hai quốc gia sống trong hòa bình và yên hàn bên nhau.

 

Được ngài cho phép, ở đây tôi xin được ngỏ lời cùng các người công dân của cả hai dân tộc chúng ta.

 

Với người láng giềng Palestine của chúng tôi, tôi xin hứa với quí vị rằng chúng tôi thực sự có ý tôn trọng quyền quí vị được sống độc lập và xứng đáng. Tôi đã nói điều này rồi. Do Thái không có ý tiếp tục cai trị quí vị và vận mệnh của quí vị.

 

Chúng tôi, ở Do Thái, đã từng có thể, mặc dù đớn đau, bỏ đi giấc mơ của mình, nhãn quan của mình, và chúng tôi biết rằng chúng tôi cần phải thực hiện một số điều khác nhau để thực hiện con đường mới đang được phác họa này. Chúng tôi tin tưởng rằng cả quí vị nữa cũng có thể vận dụng sức lực để cụ thể hóa việc từ bỏ một số quan điểm của mình để sống trong an bình và tương kính bên chúng tôi.

 

Với công dân Do Thái, tôi muốn nói là, chúng ta đã trải qua rất nhiều năm khốn khó, mà chúng ta đã đứng vững trong những kinh nghiệm khốn khó nhất, thế nhưng giờ đây chúng ta đang có được tương lai đây trước mắt chúng ta. Chúng ta biết rằng những gì đang đợi chờ chúng ta không phải là những gì dễ dàng và chúng ta cũng biết rằng có vấn đề bất đồng thực sự về những điều ấy. Tuy nhiên, chúng ta không được bỏ lỡ cơ hội để cố gắng mang ra thực hiện những gì chúng ta mong đợi từ rất nhiều năm qua, đó là tình trạng an ninh, yên ổn và hòa bình.

 

Và lời kêu gọi cuối cùng của tôi giờ đây xin được gửi tới các vị điều hợp của chúng tôi, cũng như quí vị lãnh đạo các quốc gia Ả Rập trong vùng: Chúng ta hãy nắm tay, chúng ta hãy xích lại gần nhau và mang đến một bầu khí mới cởi mở cùng nhân nhượng. Hôm nay chúng ta có thể ngăn chặn trận lụt của thành phần cực đoan có thể khiến tất cả chúng ta bị cuốn đi theo cơn lốc máu huyết và bạo lực. Tôi thực sự hy vọng rằng chúng ta có thể nói với các dân tộc ở Trung Đông rằng đang có những tia sáng hy vọng đầu tiên phát hiện ở nơi đây rồi. Tôi hy vọng là tất cả mọi người chúng ta đều có thể sống trong tự do, hy vọng, thịnh vượng và an bình.

 

Chớ gì tất cả chúng ta xứng đáng với cơ hội cao cả đang tự hiến mình cho chúng ta đây.

 

TOP

 

Thánh Địa đang xoay chiều theo đường hướng của Tòa Thánh Rôma

 

Nhận định của thoidiemmaria (3 đoạn in nghiêng đầu): Trong bài diễn từ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II với phái đoàn ngoại giao quốc tế dịp trao chúc tân niên theo thông lệ vào ngày 10/1/2005, ngài đã đề cập tới tình hình thế giới và nhận định về Thánh Địa là “Ở Trung Đông, mảnh đất rất thân thương và linh thánh đối với các tín hữu tin tưởng Vị Thiên Chúa của Abraham, tình trạng đụng độ võ trang dường như đang giảm bớt, hy vọng có một cuộc giải quyết về chính trị theo chiều hướng đối thoại và thương thảo” (khoản số 7).

 

Thật thế, kể từ sau hai cái chết của hai nhà lãnh tụ của khối Palestine là Sheikh Ahmed Yassin (3/2004), nhà sáng lập đảng Hamas là đảng nổi tiếng về những cuộc khủng bố tấn công Do Thái nhất, nên đã bị Do Thái sát hại vào sáng ngày 22/3/2004, và Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine Yasser Arafat 75 tuổi hôm 11/11/2004 vị bệnh, tình hình Thánh Địa tự nhiên dịu hẳn xuống. Tại sao có sự trùng hợp này, hai nhân vật đầu não bên Palestine vừa nằm xuống thì mọi sự trở nên lắng dịu hơn?!?

 

Thế rồi, biến cố cựu Thủ Tướng Palestine Mahmoud Abbas được tín nhiệm bầu (9/1/2005) làm tổng thống kế nhiệm vị vừa qua đời cũng cho thấy chiều hướng và lòng mong muốn mới của chung nhân dân Palestine. Bởi vì, vị tân tổng thống này đã đụng độ với cựu tổng thống Sharon về đường lối chống khủng bố của ông (đáng kể nhất là đảng Hamas), đến nỗi ông đã xin từ chức ngày 6/9/2003 và được thay thế bởi thủ tướng Ahmed Qorei. Cuộc đụng độ về quyền lực giữa cố tổng thống Arafat và cựu thủ tướng Abbas gay go đến nỗi, khối Do Thái, vào tháng 9/2004, đã có ý định triệt hạ đương kim tổng thống Arafat, vì phe Do Thái cho rằng vị tổng thống ấy ủng hộ và che chở cho các nhóm khủng bố tấn công Do Thái, bởi đó không thể nào thực hiện được lộ trình hòa bình mong muốn.

 

Tối Thứ Năm 27/1/2005, thời điểm của một ngày dân Iraq trên khắp thế giới (trừ ở nội địa) bắt đầu thực hiện cuộc tuyển cử cho một Tân Iraq tự do dân chủ, thì tại Do Thái, Thủ Tướng Sharon đã phát biểu trong một hội nghị ở Tel Aviv của các nhà thầu khoán và xây cất rằng:

 

“Chúng ta đang hết sức chú trọng theo dõi những diễn tiến mới đây ở Thẩm Quyền Palestine. Dường như có một đường hướng tích cực đang diễn tiến nơi thẩm quyền này liên quan tới vấn đề cuộc chiến về khủng bố và vấn đề tiến hành tiến trình ngoại giao.

 

“Nếu nhân dân Palestine thực hiện toàn diện việc ngưng nạn khủng bố, bạo động và xúi bẩy, chúng ta mới có thể tiến triển nơi những mối liên hệ để áp dụng lộ trình hòa bình. Thậm chí có thể cùng với họ điều hợp những hoạt động khác nhau liên quan tới dự án tháo gỡ”.

 

Vị thủ tướng này đang có ý định thực hiện dự án của mình một cách đơn phương trong việc rút người Do Thái khỏi giải Gaza và những phần đất ở Miền Tây Ngạn vào giữa năm nay, và hoạt động với người Palestine thực hiện lộ trình hòa bình do khối tứ tượng (Nga, Khối Hiệp Nhất Âu Châu, Mỹ và Liên Hiệp Quốc) phác họa nhắm đến chỗ thiết lập một quốc gia Palestine tương lai.

 

Trong nỗ lực tiến hành tiến trình hòa bình này, tân Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine mới nhậm chức là Mahmoud Abbas đã bắt đầu dàn 2 ngàn lực lượng an ninh chung quanh vùng bắc giải Gaza vào hôm Thứ Sáu 21/1/2005 để ngăn chặn các cuộc tấn công Do Thái.

 

Tổng Thống Abbas cũng làm áp lực nhóm Hamas và các nhóm háo chiến Palestine khác tham dự vào một cuộc ngừng chiến, với lập luận rằng Do Thái sẽ không tiến đến chỗ thực hiện dự án tháo gỡ khỏi giải Gaza nếu bị thành phần háo chiến Palestine tấn công.

 

Thủ Tướng Do Thái Sharon nhận định tiếp: “Tôi tin rằng những điều kiện đã được kiến tạo là những gì khiến chúng ta có thể tiến đến chỗ vượt thoát đi làm lịch sử nơi những mối liên hệ giữa chúng ta, một cuộc vượt thoát dẫn chúng ta tiến tới chỗ yên lặng và an ninh”.

 

Phát ngôn viên của tân tổng thống Palestine là Hassan Abu Libdeh, hôm Thứ Bảy 29/1/2005, đã cho biết Thủ Tướng Do Thái Sharon và tân Tổng Thống Palestine sẽ gặp nhau vào ngày 8/2/2005. Tuy nhiên, phát ngôn viên này thêm rằng ngày hẹn này còn tùy thuộc vào thành quả của những cuộc nói chuyện giữa các viên chức đại diện cho hai vị lãnh đạo này.

Thủ Tướng Sharon và tân Tổng Thống Abbas đã gặp nhau vào năm 2003 khi đó Abbas còn làm Thủ Tướng của chính phủ Arafat, để đẩy mạnh dự án hòa bình nhưng không thành.

Hai vị bộ trưởng quốc phòng hai bên là Shaul Mofaz của Do Thái và Mohammed Dahlan của Palestine sẽ gặp nhau vào chiều Thứ Bảy để bàn về vấn đề rút quân của Do Thái khỏi những trung tâm dân cư Palestine.

 

Hôm Chúa Nhật 30/1/2005, ngày chính thức bầu cử cho một Tân Iraq dân chủ, vị bộ trưởng quốc phòng của Do Thái là Shaul Mofaz, sau khi gặp trưởng ban an ninh Palestine đã nói trên đài phát thanh Do Thái rằng vấn đề rút quân khỏi các thành phố ở Tây Ngạn là Ramallah, Tulkarem, Qalqilya và Jericho vào Thứ Tư 2/2/2005 này: “Đó là vấn đề của ngày giờ. Chúng tôi chưa đi đến chỗ kết luận xem các tỉnh nào hay khi nào. Rất có thể là ở một số tỉnh Palestine, việc trao trả trách nhiệm sẽ xẩy ra trong vòng những ngày tới đây. Chúng tôi cần phải gặp nhau một lần nữa để đúc kết các vấn đề này”.

Ngoài ra, hai vị này cũng bàn đến cả những vấn đề thiết lập niềm tin tưởng lẫn nhau, như việc có thể thả các tù nhân Palestine và chấm dứt những cuộc lùng bắt và sát hại những người Palestine của phe Do Thái. Họ còn bàn đến cả cuộc gặp gỡ được dự trù vào ngày 8/2/2005 giữa Thủ Tướng Sharon và tân Tổng Thống Palestine Abbas.

 

Trong khi ở Iraq việc kiểm phiếu đang diễn tiến thì tình hình Thánh Địa cũng đang được biến chuyển có vẻ thuận lợi cho hòa bình của đôi bên ở đây. Tân Bộ Trưởng Nội Vụ Condoleeoãa Rice đã đến Do Thái hôm Chúa Nhật 6/2/2005 trước cuộc họp thượng đỉnh Do Thái – Palestine trong tuần. Bà sẽ gặp Thủ Tướng Do Thái Sharon hôm Chúa Nhật và Tân Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine Abbas hôm sau. Trong chuyến xuất ngoại đầu tiên này, vị nữ tân bộ trưởng nội vụ thay ông Colin Powell đây sẽ gặp cả các vị lãnh đạo ở Âu Châu nữa, trong đó có Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào Thứ Ba 8/2/2005, vị vẫn đang đang được điều dưỡng ở bệnh viện, nên bà chỉ được gặp Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano và ĐTGM Giovanni Lajolo để bàn về vấn đề hòa bình ở Trung Đông và tự do tôn giáo ở Iraq.

 

Chính phủ Bush tỏ ra tích cực hơn trong vai trò thực hiện tiến trình hòa bình Trung Đông sau cái chết của nhà lãnh tụ Palestine Yasser Arafat cũng như sau cuộc bầu Abbas làm tổng thống thay cho nhà lãnh tụ ấy.

 

Trong Bài Diễn Văn ngỏ cùng quốc dân tuần trước, Tổng Thống Bush đã xin Quốc Hội tài trợ cho 350 triệu Mỹ kim để hỗ trợ cho các cuộc cải cách về chính trị, kinh tế và an ninh của Palestine, cùng bày tỏ niềm hy vọng thấy được “hai quốc gia độc lập, Do Thái và Palestine, sống hòa thuận bên nhau”.



Nhận định của thoidiemmaria: Tóm lại, hai bên Do Thái và Palestine đã bắt đầu ngồi lại nói chuyện với nhau được là điều rất tốt, đúng như đường lối hòa giải và kết đoàn của Giáo Hội nói chung và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói riêng mong muốn các phe đối lập trong cuộc giải quyết những thứ xung khắc với nhau bằng thương thảo hơn là bằng võ lực.

"Việc thiếu nhất tâm nơi vấn đề của Do Thái và Palestine tiếp tục là một yếu tố thường xuyên bất ổn cho toàn vùng đất này, chưa kể đến những đau khổ khôn xiết giáng xuống trên nhân chúng Do Thái và Palestine. Tôi sẽ không thôi lập lại với các vị lãnh đạo hai quốc gia này là giải pháp võ lực, việc bên này sử dụng nạn khủng bố còn bên kia thì trả đũa, việc hạ nhục đối phương, việc tuyên truyền thù hận chẳng dẫn đi đến đâu cả. Chỉ khi nào biết tôn trọng những ước vọng hợp lý của nhau, khi nào ngồi lại thương thảo với nhau, và khi nào cộng đồng thế giới thực hiện việc dấn thân cụ thể mới có thể bắt đầu giải quyết được vấn đề. Một thứ hòa bình chân thực và bền vững không thể nào trở thành một thứ thuần quân bằng giữa các lực lượng trong cuộc; hoà bình trước hết là hoa trái của hành động luân lý và pháp lý" (ĐTC GPII với phái đoàn lãnh sự chư quốc thế giới trong dịp trao chúc tân niên hằng năm ở Vatican ngày 12/1/2004).

"Khi suy tư về việc thứ tha, tâm trí chúng ta tự nhiên nghĩ đến một số trường hợp xung khắc không ngừng nuôi dưỡng những mối hận thù sâu đậm và chia rẽ, cùng với thảm cảnh cá nhân cũng như đoàn thể liên tục diễn ra hầu như không thể chấm dứt được. Tôi muốn đặc biệt nói đến những gì đang xẩy ra ở Thánh Địa, nơi ân phúc cho việc Thiên Chúa gặp gỡ loài người ấy là nơi Chúa Giêsu, Vua Bình An, đã sinh sống, tử nạn và phục sinh từ trong cõi chết. Tình hình quốc tế rắc rối hiện nay lại càng thúc đẩy việc cần phải giải quyết vấn đề xung khắc giữa Ả Rập và Yến Duyên, một tình trạng xung khắc xẩy ra cho tới nay đã trên 50 năm… Quyền lợi và đòi hỏi của mỗi bên có thể được cứu xét một cách xứng hợp và phân xử một cách quân bình, trừ phi họ muốn chấp nhận công lý và hòa giải" (Sứ Điệp Hòa Bình 2002, khoản số 11).

"Có lẽ ngày nay không đâu có một nhu cầu hiển nhiên về việc sử dụng xác đáng thẩm quyền chính trị cho bằng ở tình hình thê thảm của Trung Đông và Thánh Địa. Từ ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác, hậu quả chồng chất của việc loại trừ nhau một cách gay cấn, cùng với một chuỗi không ngừng tình trạng bạo loạn và trả đũa đã làm tiêu tán hết mọi nỗ lực cho đến nay trong việc dấn thân đối thoại nghiêm cẩn về những vấn đề thực sự xẩy ra. Tính cách mỏng manh của tình hình này còn được lồng vào một cuộc đụng độ về lợi lộc giữa những phần tử của cộng đồng quốc tế. Cho đến khi những ai hữu trách biết thực hiện một cuộc cách mạng thực sự nơi đường lối họ sử dụng quyền lực của mình và quan tâm tới nền an ninh của phúc hạnh dân chúng, thì khó mà nghĩ được làm sao có thể tiến đến vấn đề hòa bình. Cuộc đối chọi sát hại nhau khiến cho Thánh Địa hằng ngày biến động và gây ra cuộc xung đột nơi những lực lượng hình thành tương lai tức thời của Trung Đông rõ ràng cho thấy rằng những con người nam nữ bằng một niềm xác tin cần phải áp dụng những chính sách một cách mạnh mẽ theo nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền. Những chính sách này có lợi khôn sánh cho hết mọi người hơn là tình trạng tiếp tục xung đột nhau. Có thể bắt đầu thực hiện chính sách ấy dựa trên căn bản của một sự thật chắc chắn giải thoát hơn là tuyên truyền, nhất là khi việc tuyên truyền này góp phần che đậy những ý hướng bất khả chấp nhận" (Sứ Điệp Hòa Bình 2003, khoản số 7).

 

"Hòa bình không thể nào có nếu thiếu thứ tha! Tôi xin lập lại điều này một lần nữa ở đây, khi Tôi đặc biệt nghĩ đến tình trạng khủng hoảng liên miên ở Palestine và Trung Đông: sẽ không thể nào tìm được một giải pháp cho các thứ vấn đề rắc rối nghiêm trọng gây khổ đau dai dẳng cho các dân ở vùng này cho tới khi thực hiện một quyết định vượt trên lý lẽ của một thứ công lý căn bản và hướng về lý lẽ của lòng thứ tha" (Sứ Điệp Hòa Bình 2004, khoản số 10)
 

TOP