TÌNH HÌNH THẾ GIỚI 2004

Thế giới cần phải chế ngự sự dữ nơi 4 thách đố khẩn trương hiện đại bằng sự lành ...

(ĐTC GPII với phái đoàn lãnh sự chư quốc bang giao với Tòa Thánh dịp đầu năm mừng chúc tân niên theo truyền thống)


Theo thông lệ hằng năm, thường vào tuần lễ thứ hai của tân niên, (năm 2002 vào ngày Thứ Hai mùng 10/1, năm 2003 vào ngày Thứ Hai 13/1/2003, năm 2004 vào ngày Thứ Hai 12/1, và năm 2005 này vào Thứ Hai 10/1), Phái Đoàn Ngoại Giao Các Nước có bang giao vIớ Tòa Thánh đến chúc xuân ĐTC GPII, vị thủ lãnh của Quốc Đô Vatican, và được Ngài chúc lại.

Từ khi ĐTC GPII bắt đầu giáo triều của mình năm 1978, Tòa Thánh mới bang giao với 85 quốc gia, cho tới nay đã lên đến 174 nước. Hai nước cuối cùng thiết lập bang giao với Tòa Thánh vào năm 2002 đó là tân cộng hòa Đông Timor và tiểu vương quốc Ả Rập Qatar. Trong số phái đoàn ngoại giao hôm nay, có vị lãnh sự của Liên Bang Nga chưa hoàn toàn thiết lập bang giao, và vị giám đốc của văn phòng đại diện Tổ Chức Giải Phóng Palestine.

Như mọi năm, ĐTC đã cùng họ ôn lại tổng quan Tình Hình Thế Giới trong một năm qua, nhưng bao giờ Ngài cũng nêu lên nhận định của mình về tình hình thế giới này và kêu gọi cộng đồng thế giới cùng nhau xây dựng hòa bình theo tinh thần và chiều hướng của Sứ Điệp Hòa Bình đầu năm của Ngài. Sau đây là nguyên văn bài diễn từ đầu năm của ngài với phái đoàn lãnh sự chư quốc bang giao với Quốc Đô Vatican.
 

Thưa các Vị Lãnh Sự,
Quí Bà và Quí Ông,

1.     Cái niềm vui trầm lắng đánh dấu mùa thời gian Giáo Hội đang sống lại mầu nhiệm hạ sinh của Đấng Emmanuel cũng như mầu nhiệm về gia đình khiêm hạ của Người ở Nazarét, là một phần đáng kể của cuộc gặp gỡ này, cuộc gặp gỡ hằng năm giữa tôi và quí vị, những tôn vị Lãnh Sự và các phần tử của ngoại giao đoàn được ủy nhiệm làm việc với Tòa Thánh. Trong việc tụ họp nơi đây hôm nay, quí vị, một cách nào đó, thể hiện đại gia đình Chư Quốc.

Cuộc gặp gỡ đầy vui mừng và mong đợi lâu dài này được mở đầu bằng những lời vị Niên Trưởng của quí vị là Giáo Sư Giovanni Galassi, Lãnh Sự nước San Marino, chúc mừng tốt đẹp, trân trọng và cảm mến đối với việc quan tâm đến toàn cầu của tôi. Tôi cám ơn những lời lẽ tốt đẹp của ông và đáp lại tôi cũng nguyện chúc cho tất cả quí vị cũng như gia đình thân yêu của quí vị được an bình và hoan lạc, cho đất nước quí vị là đại diện được hòa bình và thịnh vượng.

Tôi đặc biệt gửi lời chào mừng và nguyện chúc tốt đẹp tới 37 vị Lãnh Sự bắt đầu sứ vụ của mình tại Tòa Thánh Phêrô trong năm qua cũng như tới các phần tử thuộc gia đình của các vị lãnh sự ấy.

2.     Những cảm tình vui mừng này, tiếc thay, bị che phủ bởi tai ương khủng khiếp xẩy ra vào ngày 26/12 là những gì đã giáng họa xuống cho những quốc gia khác nhau ở Đông Nam Á, kéo dài tới cả những miền duyên hải ở Đông Phi Châu. Nó làm cho năm vừa qua đi đây một kết thúc đớn đau: một năm còn bị hoạn nạn bởi những tai họa thiên nhiên khác nữa, như những cơn lốc tàn hại ở Ấn Độ Dương và Antilles, và nạn châu chấu đã làm hoan tàn những miền rộng lớn ở miền Tây Bắc Phi Châu. Những thảm trạng khác cũng giáng xuôág trên năm 2004, như các hành động khủng bố dã man đẫm máu ở Iraq và các quốc gia khác trên thế giới, cuộc tấn công tàn bạo ở Ma Ní (Tây Ban Nha), cuộc khủng bố tàn sát ở Beslan (Nga), những hành động bạo lực phi nhân bản hành hạ nhân dân ở Darfur (Sudan), những hành động hung dữ tàn bạo diễn ra ở vùng Đại Hồ ở Phi Châu.

Những biến cố này đã gây ra rất nhiều sầu thương và buồn khổ, và chúng ta cảm thấy một mối quan tâm thảm thiết cho tương lai của nhân loại, phải chăng là vì sự kiện từ cái nôi ở Bêlem chúng ta đã nhận được một sứ điệp, vừa thần linh lẫn nhân loại, về sự sống cũng như về một niềm hy vọng vững chắc hơn, ở chỗ, nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đến thế gian làm anh em của hết mọi con người nam nữ, và sống bên chúng ta, chính Thiên Chúa đã xin chúng ta đừng thất đảm, nhưng hãy thắng vượt hết mọi khó khăn, dù có to tát đến đâu chăng nữa, bằng việc củng cố những mối liên hệ chung của nhân loại chúng ta và bằng việc làm cho những mối liên hệ ấy quan hệ hơn tất cả mọi quan tâm khác.

3.     Việc hiện diện của quí vị nơi đây, với tư cách là những vị đại diện cho hầu hết các dân tộc trên trái đất này, hiện ngay lên trước mắt chúng ta một hoạt cảnh rộng lớn về nhân loại với những vấn đề trầm trọng và rắc rối của nó, cũng như với các niềm hy vọng vĩ đại và không nản lòng của nó. Giáo Hội Công Giáo, vì bản chất đại đồng của mình, bao giờ cũng trực tiếp dấn thân cho những lý tưởng lớn lao được con người nam nữ thuộc thời đại chúng ta tranh đấu và hy vọng. Giáo Hội không coi mình là một kẻ xa lạ với dân tộc nào, vì bất cứ nơi nào có Kitô hữu thì toàn thân của Giáo Hội được kêu gọi nhập cuộc; thật vậy, bất cứ nơi đâu có một cá nhân nào, chúng ta đều cảm thấy một mối liên hệ về huynh đệ. Bằng việc hiện diện của mình cũng như bằng mối quan tâm về tương lai của con người nam nữ ở khắp nơi, Tòa Thánh biết rằng Tòa Thánh có thể tin tưởng vào Quí Vị Lãnh Sự trong việc cống hiến một dịch vụ quan trọng, vì nó chính là sứ vụ của các nhà ngoại giao trong việc cần phải trổi vượt lên trên các biên giới và đem các dân tộc cùng chính quyền lại với nhau trong niềm mong ước hợp tác một cách hòa hợp, trong sự cẩn thận tôn trọng các khả năng của nhau, nhưng đồng thời cũng trong việc tìm cầu cho một công ích cao cả hơn.

4.     Trong Sứ Điệp tôi gửi cho Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay, tôi đã kêu gọi tín hữu Công giáo cũng như tất cả mọi con người nam nữ thiện tâm hãy chú trọng tới lời kêu gọi của Vị Tông Đồ Phaolô là “Đừng để chế ngự bởi sự dữ, nhưng hãy chế ngự sự dữ bằng sự lành”: “vince in bono malum” (Rm 12:21). Những lời này chất chứa một sự thật sâu xa, ở chỗ, nơi lãnh vực luân lý và xã hội, sự dữ mang bộ mặt vị kỷ và hận thù, một bộ mặt có tinh chất tiêu cực; nó chỉ có thể chế ngự bằng yêu thương là những gì có tính cách tích cực của việc ban phát quảng đại và bất vụ lợi, thậm chí cho tới độ tự hy hiến bản thân mình. Đó là tâm điểm của mầu nhiệm Chúa Kitô hạ sinh: Để cứu loài người khỏi cái vị kỷ của tội lỗi và hệ quả sự chết của nó, chính Thiên Chúa, nơi Đức Kitô, đã ưu ái trọn vẹn đi vào cuộc đời, đi vào lịch sử của loài người, hầu thăng hóa nhân loại tới một chân trời của một sự sống còn cao cả hơn nữa.

Đó là sứ điệp, sứ điệp “hãy chế ngự sự dữ bằng sự lành”, mà hôm nay tôi muốn ngỏ cùng quí vị Lãnh Sự, và qua quí vị, ngỏ cùng nhân dân thân yêu được quí vị đại diện và ngỏ cùng Chính Quyền của quí vị. Sứ điệp này cũng đặc biệt áp dụng cho các mối liên hệ quốc tế nữa, và nó có thể là chỉ nam cho tất cả mọi người trong việc đương đầu với những thách đố to lớn trước mắt nhân loại hôm nay đây. Ở đây tôi xin nêu lên một số những thách đố đáng kể hơn:

5.     Thách đố thứ nhất là thách đố về sự sống. Sự sống là tặng ân đầu tiên Thiên Chúa ban cho chúng ta, nó là nguyên tố đầu tiên con người có thể hoan hưởng. Giáo Hội được kêu gọi để loan truyền “Phúc Âm Sự Sống”. Và nhiệm vụ trọng yếu của Quốc Gia chính là việc bảo toàn và đề cao sự sống con người.

Thách đố xẩy ra cho sự sống vẫn đang leo thang và khẩn trương trong những năm gần đây. Nó đặc biệt liên quan tới lúc bắt đầu của sự sống, khi mà con người ta đang yếu đuối nhất và cần được bảo vệ nhất. Những quan điểm đối nghịch đã từng được đề ra liên quan tới vấn đề phá thai, vấn đề trợ truyền sinh, vấn đề sử dụng các thân bào từ phôi bào để nghiên cứu khoa học, và vấn đề tạo sinh sao bản. Chủ trương của Giáo Hội đã rõ ràng, một chủ trương hợp với lý trí và khoa học. Phôi bào con người là một chủ thể được đồng hóa với một con người sẽ được sinh ra theo tiến trình phát triển của mình. Bởi thế, bất cứ vi phạm nào xẩy đến cho nguyên tính và phẩm vị của phôi bào này đều là những gì bất khả chấp về luân thường đạo lý. Cũng thế, bất cứ hình thức nghiên cứu khoa học nào sử dụng phôi bào thuần túy như là một thứ mẫu chất thí nghiệm đều bất xứng với con người. Việc nghiên cứu khoa học nơi ngành di giống cần phải được khích lệ và cổ võ, thế nhưng, cũng như mọi hoạt động khác của loài người, nó không thể nào được miễn chước khỏi những qui lệnh của luân lý; ngoài ra, việc nghiên cứu sử dụng các thân bào tăng trưởng là những gì đang mang lại hứa hẹn thành đạt đáng kể.

Thách đố xẩy ra cho sự sống cũng xuất phát liên quan đến chính cung thánh của sự sống là gia đình. Ngày nay, gia đình thường bị đe dọa bởi những áp lực về xã hội và văn hóa là những gì có khuynh hướng làm suy yếu đi tính chất bền vững của nó; thế nhưng, ở một số quốc gia, gia đình còn bị đe dọa bởi việc lập pháp nữa, một thứ lập pháp có những lúc trực tiếp làm khó dễ cấu trúc tự nhiên của gia đình, một cấu trúc là và cần phải là cấu trúc của mối hiệp nhất giữa một người nam và một người nữ bắt nguồn từ hôn nhân. Gia đình, nguồn mạch phong phú của sự sống và là điều kiện nống cốt bất khả thay thế cho hạnh phúc của các đôi phối ngẫu, cho việc nuôi dưỡng con cái cũng như cho tình trạng phúc hạnh của xã hội, và thực sự cho cả vấn đề thịnh vượng về vật chất của quốc gia, không bao giờ được suy yếu đi bởi những thứ luật lệ phát xuất từ một nhãn quan thiện cận và bất bình thường về con người. Cần phải làm cho kiến thức chính đáng, nguyên vẹn và cao thượng về tình yêu con người được ưu thắng, một tình yêu thể hiện một cách nguyên thủy và ngời sáng nơi gia đình. “Vince in bono malum”.

6.     Thách đố thứ hai đó là thách đố về lương thực. Thế giới này, một thế giới được Đấng Hóa Công của nó làm cho phì nhiêu phong phú, có một số lượng đầy đủ cùng với những thực phẩm khác nhau cho tất cả mọi dân cư của nó, hiện nay cũng như mai hậu. Tuy nhiên, thống kê về tình trạng đói khổ trên thế giới lại thê thảm: cả hằng trăm triệu con người đang trải qua cảnh mạo dưỡng trầm trọng, và mỗi năm có cả hằng triệu trẻ em chết vì đói hay bởi ảnh hưởng của đói.

Thật vậy, tình trạng báo động hiện nay có lúc đã tăng lên, và các tổ chức lãnh đạo quốc tế đã đề ra những mục tiêu quan trọng, ít là nhắm đến việc giảm bớt tình trạng khẩn cấp. Những dự án cụ thể cũng đã được tiến hành, chẳng hạn như những dự án được bàn đến tại Cuộc Họp ở Nữu Ước về tình trạng đói khổ và nghèo khổ hôm 20/9/2004. Tôi đã xin ĐHY Angelo Sodano, Quốc Vụ Khanh của Tòa Thánh, đại diện tôi ở cuộc họp này, như cách bày tỏ việc Giáo Hội hết sức quan tâm tới vấn đề thảm thương ấy. Nhiều hiệp hội không phải của chính quyền cũng đã quảng đại dấn thân trợ giúp. Tuy nhiên, tất cả những việc làm ấy cũng chưa đủ. Việc đáp ứng tương xứng cho nhu cầu này, một nhu cầu đang leo thang và khẩn trương, cần đến một cuộc vận động hóa ý thức quần chúng rộng lớn về luân lý; điều này cũng được áp dụng nhất là cho các nhà lãnh đạo chính trị, đặc biệt ở những quốc gia đang hoan hưởng một tiêu chuẩn sống đầy đủ hay thậm chí giầu thịnh.

Về vấn đề này, tôi xin nhắc lại một nguyên tắc quan trọng trong giáo huấn về xã hội của Giáo Hội, một nguyên tắc đã được tôi lập lại trong Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay, cũng như được chất chứa trong Cuốn Tổng Lược Giáo Huấn về Xã Hội của Giáo Hội vừa mới được phát hành, đó là nguyên tắc về mục đích phổ quát của các sán vật trên trái đất này. Không được sử dụng nguyên tắc này để biện minh cho những hình thức cộng hợp nơi chính sách về kinh tế, mà phải giúp vào việc đẩy mạnh việc dấn thân thực sự cho công lý cũng như việc bày tỏ tình đoàn kết tận tình và quyết liệt hơn nữa. Đó là sự thiện có thể chế ngự sự dữ đói khổ và nghèo khổ bất chính. “Vince in bono malum”.

7.     Cũng có cả thách đố về hòa bình nữa. Là một sự thiện cao cả và là điều kiện để đạt được nhiều sự thiện thiết yếu khác, hòa bình là giấc mơ của hết mọi thế hệ. Tuy nhiên, có biết bao nhiêu là những cuộc chiến tranh và xung đột võ trang đang tiếp tục diễn ra, giữa các Quốc Gia, các nhóm sắc dân, các dân tộc và những nhóm người sống ở cùng một lãnh thổ. Từ đầu này tới đầu kia của thế giới, những cuộc chiến tranh và xung đột vũ khí ấy đang đòi mạng của vô số những nạn nhân vô tội và đang làm phát sinh ra rất nhiều thứ sự dữ khác! Chúng ta tự nhiên nghĩ đến những quốc gia khác nhau ở Trung Đông, Phi Châu, Á Châu và Mỹ Châu Latinh, nơi mà việc sử dụng các thứ vũ khí và bạo lực chẳng những gây ra thiệt hại khôn lường về vật chất, mà còn làm bùng lên hận thù và tăng thêm những nguyên do căng thẳng, bởi đó, gây khó khăn hơn trong việc tìm kiếm và áp dụng những giải quyết có thể hòa giải những thiện lợi hợp lý cho tất cả mọi phía trong cuộc. Ngoài những thứ sự dữ thê thảm này còn có hiện tượng khủng bố dã man phi nhân bản, một tai họa đã có một chiều kích toàn cầu chưa hề xẩy ra cho các thế hệ trước đây.

Làm sao cái thách đố lớn lao trong việc xây dựng hòa bình này có thể chế ngự được các thứ sự dữ ấy? Là những nhà ngoại giao, quí vị là những con người nam nữ của hòa bình theo nghề nghiệp mà còn theo ơn gọi của bản thân mình nữa. Quí vị biết được bản chất và tầm mức của những phương tiện cộng đồng quốc tế đang nắm trong tay để gìn giữ hay vãn hồi hòa bình. Như các vị tiền nhiệm đáng kính của mình, tôi đã nói lên vô số lần, bằng những lời phát biểu công khai, nhất là ở Sứ Điệp của tôi hằng năm cho Ngày Hòa Bình Thế Giới, cũng như qua hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh, và tôi sẽ tiếp tục làm như thế, vạch ra những đường nẻo dẫn tới hòa bình và thôi thúc để can đảm và kiên nhẫn tiến bước trên những nẻo đường ấy. Cái cao ngạo của quyền lực cần phải được đối đầu bằng lý trí, võ lực bằng đối thoại, khí giới tấn công bằng những bàn tay rộng mở, sự dữ bằng sự lành.

Nhiều người thực sự là những con người nam nữ đang hoạt động cho mục đích này một cách can trường và kiên trì, và có một số dấu hiệu phấn khởi cho thấy có thể đạt được cái thách đố lớn lao trong việc xây dựng hòa bình ấy. Ở Phi Châu chẳng hạn, mặc dù có những sự tái phát trầm trọng về những vấn đề bất hòa là những gì cần phải được giải quyết, cũng thấy được một ý muốn chung đang phát triển trong việc giải quyết và ngăn ngừa các thứ xung khắc, bằng việc hợp tác trọn vẹn hơn nữa giữa những tổ chức quốc tế lớn và các hiệp hội châu lục, như Khối Hiệp Nhất Phi Châu: những thí dụ về vấn đề này đã xẩy ra trong cuộc họp của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ở Nairobi Tháng 11 vừa rồi để bàn đến việc cấp cứu nhân đạo ở Darfur và tình hình ở Somalia, cũng như xẩy ra trong Hội Nghị quốc tế về miền Đại Hồ. Ở Trung Đông, mảnh đất rất thân thương và linh thánh đối với các tín hữu tin tưởng Vị Thiên Chúa của Abraham, tình trạng đụng độ võ trang dường như đang giảm bớt, hy vọng có một cuộc giải quyết về chính trị theo chiều hướng đối thoại và thương thảo. Chắc chắc mẫu gương nổi bật về việc có thể đạt được hòa bình đã xẩy ra ở Âu Châu: Các Quốc Gia hơn một lần đã hằn thù nhau dữ dội nhào vô đánh nhau chí tử giờ đây lại trở thành các phần tử của Khối Hiệp Nhất Âu Châu, một khối mà trong năm vừa qua đã nhắm đến việc củng cố hơn nữa bằng bản Hiệp Định về hiến pháp ở Rôma, đồng thời cũng tỏ ra cởi mở chấp nhận các Quốc Gia khác muốn chấp nhận những đòi hỏi làm phần tử của nó.

Việc mang lại một nền hòa bình chân thực và bền vững trong thế giới đầy bạo loạn này cần phải có một quyền năng của sự thiện không biết co rụt trước những khó khăn. Nó là một quyền năng mà con người tự mình không thể có được hay gìn giữ: Nó là một tặng ân của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã đến để mang tặng ân này cho nhân loại, như các thần trời hát trên máng cỏ ở Bê Lam: “bình an dưới thế cho người Chúa thương” (Lk 2:14). Thiên Chúa yêu thương nhân loại, và Ngài muốn ban hòa bình cho tất cả mọi con người nam nữ. Chúng ta được kêu gọi để trở thành những dụng cụ chủ động cho thừ hòa bình này, cũng như để chế ngự sự dữ bằng sự lành. “Vince in bono malum”.

8.     Còn một thách đố khác tôi cũng muốn đề cập tới nữa, đó là thách đố về tự do. Tất cả quí vị đều biết đây là thách đố quan trọng đối với tôi là chừng nào, nhất là vì lịch sử dân tộc bản quốc của tôi, nhưng nó cũng hệ trọng với mỗi một người trong quí vị nữa. Trong việc phục vụ của mình với tư cách là những nhà ngoại giao, quí vị cần phải quan tâm tới việc bảo vệ tự do của thành phần nhân dân được quí vị làm đại diện, và quí vị chuyên chú đến việc bênh vực quyền tự do này. Tuy nhiên, trước hết và trên hết, tự do là quyền lợi của mỗi cá nhân con người. Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền đã xác đáng nói đến ở Khoản 1: “tất cả mọi con người bẩm sinh tự do và bình đẳng về phẩm vị và quyền lợi”. Khoản 3 tiếp tục xác nhận rằng “hết mọi người đều có quyền hưởng sự sống, tự do và an ninh của con người”. Dĩ nhiên quyền tự do của Chư Quốc cũng là những gì linh thánh nữa; họ cần phải được tự do, nhất là để họ có thể thi hành một cách trọn vẹn nhiệm vụ trọng yếu của mình trong việc bảo toàn cả sự sống lẫn tự do của thành phần công dân thuộc về họ nơi tất cả những hình thức hợp lý của các quyền này.

Tự do là một sự thiện cao cả, vì chỉ nhờ có tự do con người mới có thể đạt được tầm vóc viên trọn sinh lợi cho bản tính của họ. Tự do giống như ánh sáng, ở chỗ, nó làm cho con người ta có thể chọn lựa một cách ý thức những mục tiêu xứng hợp cùng với những phương tiện xác đáng để đạt tới những mục tiêu này. Ở ngay chính tâm điểm của tự do con người là quyền tự do tôn giáo, vì quyền tự do tôn giáo này liên quan tới mối liên hệ trọng yếu nhất của con người, đó là mối liên hệ giữa họ với Thiên Chúa. Quyền tự do tôn giáo được minh nhiên bảo đảm Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền (x Khoản 18). Nó cũng là chủ đề, như tất cả quí vị quá rõ, cho một Tuyên Ngôn quan trọng của Công Đồng Chung Vaticanô II, một bản tuyên ngôn được mở đầu bằng những lời lẽ quan trọng “Phẩm Vị Con Người – Dignitatis Humanae”.

Ở nhiều Quốc Gia, quyền tự do tôn giáo là một quyền lợi chưa được nhìn nhận trọn vẹn hay xứng hợp. Tuy nhiên, nỗi mong ước được tự do tôn giáo vẫn không thể nào bị áp đảo: Bao lâu con người còn sống thì nó bao giờ cũng có đó và đòi hỏi. Bởi thế, hôm nay tôi xin lập lại lời kêu gọi được Giáo Hội lên tiếng vào nhiều dịp, đó là “Quyền tự do tôn giáo cần phải được ban phép ở mọi nơi bằng việc bảo đảm hiệu lực theo hiến pháp, cũng như cần phải được tôn trọng đối với nhiệm vụ cao cả và quyền lợi của con người được tự do sống đạo trong xã hội” ("Dignitatis Humanae," 15).

Không nên sợ rằng quyền tự do tôn giáo hợp lý sẽ làm hạn chế các quyền tự do khác hay sẽ làm tổn thương đến đời sống xã hội dân sự. Trái lại, cùng với quyền tự do tôn giáo, tất cả mọi quyền tự do khác được phát triển và thăng hoa, vì tự do là một sự thiện bất khả phân ly, là đặc quyền của con người và là phẩm vị của họ. Cũng không được sợ rằng quyền tự do tôn giáo, một khi được ban cho Giáo Hội Công giáo, sẽ là những gì xâm nhập vào lãnh giới của tự do chính trị cũng như pha mình vào các năng quyền xứng hợp với Quốc Gia, bởi vì, Giáo Hội thực sự đã thận trọng phân biệt được rằng những gì thuộc về Cêsa khác với những gì thuộc về Thiên Chúa (x Mt 22:21). Giáo Hội chủ động hợp tác để cổ võ công ích của xã hội, vì Giáo Hội bác bỏ những gì là sai lạc và giáo dục những gì là chân thực, lên án những gì là hận thù và miệt thị, kêu gọi tinh thần huynh đệ; Giáo Hội, như lịch sử cho thấy, ở mọi nơi và trong mọi lúc khích lệ những hoạt động bác ái, khoa học và nghệ thuật. Giáo Hội chỉ yêu cầu được tự do để Giáo Hội có thể cộng tác một cách hiệu nghiệm với tất cả mọi tổ chức công tư quan tâm tới thiện ích của nhân loại. Tự do chân thực bao giờ cũng nhắm đến việc chế ngự sự dữ bằng sự lành. “Vince in bono malum”.

Thưa quí vị Lãnh Sự, trong năm giờ đây mở màn tôi tin tưởng rằng, khi quí vị thi hành sứ vụ cao cả của mình, quí vị sẽ tiếp tục đồng hành với Tòa Thánh nơi những nỗ lực hằng ngày của chúng tôi để, theo trách nhiệm riêng biệt của mình, chúng tôi có thể đáp ứng được những thách đố được đề cập đến trên đây đang ảnh hưởng tới toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu Kitô, Đấng chúng ta vừa mừng việc Người hạ sinh trong những ngày này, đã được vị Tiên Tri báo trước là “Admirabilis Consiliarius – Vị Cố Vấn Kỳ Diệu, là Princeps Pacis - là Vua Hòa Bình” (Is 9:5). Xin ánh sáng lời của Người, tinh thần công chính và huynh đệ của Người, cũng như tặng ân an bình của Người hết sức cần thiết và ước mong, một thứ an bình Người ban cho tất cả mọi người, chiếu tỏa trên đời sống của quí vị, gia đình thân yêu của quí vị và những người yêu dấu của quí vị, trên xứ sở yêu quí của quí vị cũng như trên toàn thể nhân loại.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL chuyển dịch từ
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/speeches/index_spe-dip-corps.htm


(những chỗ in đậm là do người dịch tự ý nhấn mạnh để làm nổi bật vấn đề cần chú trọng)