Tình Hình Thế Giới trong Năm 2008
Nếu vào dịp tất niên, trước Lễ Giáng Sinh, Đức Thánh Cha chia sẻ cảm nhận của ngài với nội bộ Giáo Triều Rôma về những sinh hoạt mục vụ chính yếu của ngài trong cả một năm thế nào, thì ngài cũng chia sẻ cảm nhận của ngài về tình hình thế giới với Ngoại Giao Đoàn Chư Quốc Có Liên Hệ Ngoại Giao với Quốc Đô Vatican vào thời điểm tân niên, một thời điểm, theo truyền thống vào sau Lễ Hiển Linh, như năm 2009 vào Thứ Năm ngày 8/1, vì ngày sau Lễ Hiển Linh vẫn mang một ý nghĩa Chúa Kitô tỏ mình ra cho chư dân ngày xưa và ngày nay vẫn còn tiếp tục viêc tỏ mình này qua Giáo Hội của Người là “Ánh Sáng Muôn Dân – Lumen Gentium”. Sau đây là nguyên văn bài chia sẻ của ngài với thành phần đại diện 177 quốc gia trên thế giới (năm ngoái 176, năm nay thêm 1 nước ở Phi Châu như được ĐTC đề cập tới).
ĐTC Biển Đức XVI với Phái Đoàn Ngoại Giao Chư Quốc dịp Tân Niên 2009, Thứ Năm 8/1, ở Sala Regia
Trọng Kính Quí Vị Lãnh Sự,
Cùng Quí Nữ Vị và Nam Vị
Mầu nhiệm Lời nhập thể chúng ta đang sống lại hằng năm vào Lễ Trọng Giáng Sinh kêu gọi chúng ta suy nghĩ về những biến cố đánh dấu giòng lịch sử. Thật sự là chính ở nơi ánh sáng tràn đầy hy vọng này mới diễn ra truyền thống gặp gỡ quí vị đây. Những phần tử đặc biệt thuộc Phái Đoàn Ngoại Giao được ủy nhiệm thư làm việc với Tòa Thánh – một cuộc gặp gỡ mà, vào lúc mở màn cho tân niên này, cống hiến cho chúng ta cơ hội thích hợp để trao đổi những lời chúc tốt đẹp thân ái. Tôi bày tỏ lòng biết ơn tới Vị Lãnh Sự Alejandro Valladares Lanza về những lời chúc tốt đẹp đã ưu ái giành cho tôi, với tư cách lần đầu tiên là Trưởng Ngoại Giao Đoàn. Tôi cũng trân trọng gửi lời chào tới từng người trong quí vị, cùng với gia đình và nhân viên của quí vị, và qua quí vị, tới nhân dân và chính phủ của những xứ sở quí vị đại diện. Tôi xin Thiên Chúa ban cho hết mọi người tặng ân của một năm phong phú về công lý, thanh nhàn và bình an.
Vào lúc mở màn cho năm 2009 này, tôi thương cảm nghĩ tới tất cả những ai chịu khổ đau – gây ra bởi những tai ương tự nhiên, nhất là ở Việt Nam, Myanmar, Trung Hoa và Phi Luật Tân, ở Trung Mỹ và Caribbean, cũng như ở Columbia và Ba Tây; hay bởi những cuộc xung đột dữ dội trong nội địa hay trong vùng; hoặc lại bởi những cuộc khủng bố tấn công gieo chết chóc và hủy hoại ở các xứ sở như A Phú Hãn, Ấn Độ, Pakistan và Algeria. Bất chấp rất nhiều những nỗ lực, hòa bình chúng ta rất ước mong vẫn còn là những gì xa vời! Trước thực tại này, chúng ta không được trở nên chán nản hay giảm bớt nỗ lực dấn thân cho một nền văn hóa bình an chân thực, trái lại, phải tăng gấp đôi nỗ lực của mình cho vấn đề an ninh và phát triển. Về vấn đề này, Tòa Thánh muốn đi tiên phong trong việc ký kết và phê chuẩn “Hiệp Định về Những Thứ Đạn Chùm”, một văn kiện cũng nhắm mục đích tái khẳng định luật nhân đạo quốc tế. Đàng khác, trong khi quan tâm nhận thấy những dấu hiệu của cuộc khủng hoảng xuất hiện trong lãnh vực giải giới và ngưng leo thang vũ khí nguyên tử, Tòa Thánh đã tiếp tục tái khẳng định rằng hòa bình không thể nào được xây dựng khi những chi phí về quân sự làm thất thoát đi những nguồn lợi khổng lồ về con người và vật chất từ các dự án phát triển, nhất là tình trạng phát triển của các dân tộc nghèo khổ nhất.
Chính vì hướng tới người nghèo, tất cả có quá nhiều người nghèo trên trái đất này, thành phần hôm nay tôi muốn bày tỏ mối quan tâm, bằng việc lưu ý tới Sứ Điệp tôi gửi Ngày Thế Giới Hòa Bình, một sứ điệp hiến năm nay cho đề tài: “Chống Nghèo Khổ để Xây Dựng Hòa Bình”. Việc phân tích khôn ngoan của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI trong Thông Điệp “Phát Triển Các Dân Tộc – Populorum Progressio” vẫn không mất đi một chút nào thời gian tính của nó: “Ngày nay chúng ta thấy dân chúng đang cố gắng bảo toàn vấn đề cung cấp lương thực một cách hiệu quả, vấn đề chữa trị bệnh nạn và vấn đề công ăn việc làm vững chắc. Chúng ta thấy họ cố gắng loại trừ đi hết mọi thứ yếu đau, khử trừ đi hết mọi thứ trở ngại phạm tới phẩm giá của con người. Họ liên lỉ cố gắng thực thi trách nhiệm cá nhân rộng lớn hơn; làm việc hơn, học biết hơn và sở hữu hơn, để hiện hữu hơn. Tuy nhiên, đồng thời cũng có rất nhiều người tiếp tục sống trong những điều kiện làm vỡ mộng các thứ ước muốn hợp lý này” (Khoản 6). Để xây dựng hòa bình, chúng ta cần cống hiến niềm hy vọng mới cho người nghèo. Làm sao chúng ta lại không nghĩ tới rất nhiều cá nhân và gia đình bị áp đảo nặng nề bởi những khó khắn và bấp bênh gây ra từ cuộc khủng hoảng về tài chính và kinh tế hiện nay ở tầm mức toàn cầu? Làm sao chúng ta lại không đề cập tới tình trạng khủng hoảng về thực phẩm và hâm nóng toàn cầu, những yếu tố thậm chí càng gây thêm khốn khó cho những ai sống ở một số phần đất nghèo khổ nhất trên trái đất này trong việc có được dưỡng chất và nước nôi? Một giải pháp hiệu nghiệm là những gì đang khẩn cấp cần được chấp nhận để chống đói và cổ võ việc phát triển nông nghiệp ở địa phương, nhất là vì số người nghèo đang gia tăng thậm chí ngay trong các xứ sở giầu thịnh. Về vấn đề này, tôi cảm thấy vui là Hội Nghị Doha gần đây về việc phát triển tài chính đã vạch ra được một số tiêu chuẩn hữu ích để hướng dẫn việc quản trị hệ thống kinh tế và giúp cho những ai đang thiếu thốn nhất. Ở một tầm mức sâu xa hơn nữa, thì việc nâng đỡ nền kinh tế đòi phải biết tái thiết niềm tin tưởng. Mục đích này chỉ đạt tới bằng việc áp dụng một thứ đạo lý căn cứ vào phẩm giá bẩm sinh của con người. Tôi biết rằng điều này gay go biết bao, tuy nhiên, nó không phải là một thứ không tưởng! Ngày nay, hơn cả trong quá khứ, tương lai của chúng ta đang bị nguy biến, cũng như số phận trái đất của chúng ta cùng với dân cư của nó, nhất là thế hệ trẻ đang thừa hưởng một hệ thống kinh tế và cơ cấu xã hội bị hư hại trầm trọng.
Cùng Quí Bà và Quí Ông, nếu chúng ta muốn chống nghèo khổ, chúng ta trước hết và trên hết cần phải đầu tư vào giới trẻ, đề ra trước mắt họ một lý tưởng sống huynh đệ chân thực. Qua các chuyến tông du trong năm vừa rồi, tôi đã được gặp gỡ nhiều giới trẻ, nhất là trong khung cảnh cử hành Ngày Giới Trẻ XXIII ở Sydney Úc Đại Lợi. Những cuộc hành trình tông vụ của tôi, bắt đầu từ chuyến viếng thăm Hiệp Chủng Quốc, cũng giúp tôi có thể thẩm định được các niềm trông mong thuộc nhiều lãnh vực trong xã hội liên quan tới Giáo Hội Công Giáo. Trong giai đoạn tinh tế này của lịch sử loài người, một giai đoạn được đánh dấu bằng những gì là bất định và vấn nạn, nhiều người mong thấy Giáo Hội thi hành một cách rõ ràng và can đảm sứ vụ của Giáo Hội trong việc truyền bá phúc âm hóa cũng như trong việc Giáo Hội hoạt động cổ võ về nhân bản. Theo chiều hướng ấy tôi đã ngỏ lời ở tổng hành dinh Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, ở chỗ, nhân dịp 60 năm kỷ niệm tổ chức này thông qua Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền, tôi đã nhấn mạnh rằng bản văn kiện này được đặt nền tảng trên phẩm giá của con người, một phẩm giá, ngược lại, được căn cứ vào bản tính nhân loại chung của chúng ta, một bản tính trổi vượt trên các nền văn hóa khác nhau của chúng ta. Mấy tháng sau, trong chuyến hành hương của mình đến Lộ Đức nhân dịp kỷ niệm 150 năm Trinh Nữ Maria hiện ra với Thánh Bernadette, tôi đã tìm cách nhấn mạnh rằng sứ điệp hoán cải và yêu thương được chiếu tỏa từ hang Massabiella này vẫn còn rất hợp thời, nó như là một lời mời gọi liên lỉ hãy xây dựng đời sống của chúng ta cùng với những mối liên hệ của chúng ta giữa các chư dân trong thế giới trên nền tảng thực sự tương kính và huynh đệ, ý thức rằng tình huynh đệ này bao hàm ý nghĩa là tất cả mọi con người nam nữ có cùng một Cha chung là Vị Thiên Chúa Hóa Công. Ngoài ra, một xã hội được gọi là “trần thế” một cách lành mạnh thì không coi thường chiều kích thiêng liêng cùng với những giá trị của chiều kích này, vì tôn giáo – theo tôi, cần phải lập lại trong chuyến viếng thăm Pháp quốc – không phải là một trở ngại mà là một nền tảng vững chắc cho việc xây dựng một xã hội chân chính và tự do.
Những hành động kỳ thị và các cuộc tấn công nghiêm trọng nhất nhắm vào hằng ngàn Kitô hữu trong năm qua cho thấy không phải chỉ là tình trạng nghèo khổ về vật chất mà còn cả về luân lý nữa, một thứ nghèo khổ tác hại tới hòa bình. Những thứ lạm dụng này, thật vậy, được xuất phát từ tình trạng nghèo khổ về luân lý. Như cách thức để tái khẳng định việc đóng góp cao quí mà các tôn giáo có thể thực hiện trong việc chống lại nghèo khổ và xây dựng hòa bình, tôi xin lập lại nơi hội đồng này đây, một hội đồng tiêu biểu đại diện cho tất cả mọi quốc gia trên thế giới, rằng Kitô giáo là một tôn giáo của tự do và an bình, và Kitô giáo chủ trương phục vụ sự thiện chân thực của nhân loại. Cùng những người anh chị em nạn nhân của bạo lực, nhất là ở Iraq và ở Ấn Độ, tôi xin lập lại lòng cảm thương phụ thân của tôi; cùng các chính quyền dân sự và chính trị, tôi thiết tha mong muốn là các vị chủ động dấn thân cho việc chấm dứt tình trạng bất bao dung cùng với những hành động quấy phá nhắm vào các Kitô hữu, sửa chữa lại tình trạng thiệt hại xẩy ra, nhất là cho những nơi chốn thờ phượng và các thứ tài sản; và bằng mọi cách khuyến khích việc tôn trọng đối với tất cả mọi tôn giáo, cấm đoán tất cả mọi hình thức hận thù và khinh khi. Tôi cũng bày tỏ niềm hy vọng là thế giới Tây phương không được vun trồng thành kiến và hận thù đối với các Kitô hữu chỉ vì họ lên tiếng gây áy náy về một số vấn đề nào đó. Về phần mình, chớ gì thành phần môn đệ của Chúa Kitô, trước tình trạng đối nghịch ấy, đừng tỏ ra chán nản, vì việc làm chứng cho Phúc Âm bao giờ cũng là một “dấu hiệu phản khắc” đối với “tinh thần của thế gian”! Nếu những thách đố và những hoạn nạn có đớn đau thì việc hiện diện liên lỉ của Chúa Kitô là một nguồn sức mạnh mãnh liệt. Phúc Âm của Chúa Kitô là một sứ điệp cứu độ cho tất cả mọi người; đó là lý do tại sao Phúc Âm không thể nào bị hạn hẹp vào lãnh vực tư riêng, mà cần phải được công bố loan truyền từ mái nhà cho đến tận cùng trái đất.
Việc giáng sinh của Chúa Kitô trong hang đá thấp hèn ở Bêlem là những gì tự nhiên dẫn chúng ta nghĩ tới tình hình ở Trung Đông và trước hết ở Thánh Địa, nơi mà trong những ngày này, chúng ta đã chứng kiến thấy tái diễn một cuộc bùng nổ bạo lực gây thiệt hại cả thể và khổ đau cho thành phần dân sự. Tình hình này càng tạo thêm rắc rối cho cuộc tìm cầu ổn định tình trạng xung khắc giữa người Do Thái và Palestine, một điều được thiết tha ước mong của nhiều người trong họ cũng như của toàn thế giới. Một lần nữa, tôi xin lập lại rằng những giải pháp quân sự không giải quyết được gì và bạo lực, bất cứ từ đâu đến và bất cứ dưới hình thức nào, đều phải được mạnh mẽ lên án. Tôi muốn bày tỏ niềm hy vọng là, nếu cộng đồng quốc tế quyết tâm dấn thân, thì vấn đề ngưng bắn ở giải Gaza sẽ được tái thiết – một điều kiện bất khả thiếu cho việc phục hồi những điều kiện sống khả chấp cho dân chúng – và, những cuộc thương thảo về hòa bình sẽ được tái tấu, loại trừ đi lòng hận thù, loại bỏ những hành động gây hấn và sử dụng võ trang. Vấn đề rất quan trọng ở đây là, trước các cuộc bầu cử then chốt liên quan tới nhiều cư dân trong vùng vào những tháng ngày tới đây, các vị lãnh đạo sẽ xuất hiện có thể nhất quyết tiến hành tiến trình ấy và hướng dẫn dân chúng của mình hướng tới chỗ hòa giải tuy khó khăn nhưng lại là những gì bất khả châm chước. Điều này không thể nào đạt được nếu không chấp nhận một giải pháp toàn cầu cho các vấn đề của những xứ sở đây, liên quan tới những ước vọng cùng như lợi ích hợp lý của đôi bên. Ngoài những nỗ lực được tái tấu để giải quyết cuộc xung đột giữa người Do Thái và Palestine, như tôi vừa đề cập, cũng cần phải hết lòng hỗ trợ cho việc đối thoại giữa Do Thái và Syria, và cho việc củng cố hiện nay của các cơ cấu tổ chức ở Lebanon; điều này sẽ càng được hiệu nghiệm hơn khi nó được thi hành bằng một tinh thần hiệp nhất. Đối với nhân dân Iraq, những người đang sửa soạn hoàn toàn làm chủ lại tương lai của mình, tôi đặc biệt khuyến khích hãy lật một trang lịch sử mới và hãy hướng về phía trước để tái thiết, không phân biệt chủng tộc, giống nòi hay tôn giáo. Đối với Iran, cần phải liên tục thực hiện những nỗ lực tìm kiếm một giải pháp được thương lượng cho vấn đề tranh cãi liên quan tới chương trình nguyên tử của nước này, bằng một đường lối có thể làm thỏa đáng những đòi hỏi hợp lý của xứ sở này cũng như của cộng đồng quốc tế. Nhờ đó mới góp phần lớn lao vào việc làm lắng dịu ở miền này cũng như trên thế giới.
Nhìn tới đại lục Á Châu, tôi quan ngại nhận thấy rằng trong khi ở một số xứ sở những hoạt động bạo lực đang tiếp tục xẩy ra, và ở những quốc gia khác tình hình chính trị vẫn còn căng thẳng, thì cũng có được một số tiến bộ, khiến chúng ta có thể tin tưởng hơn nhìn về tương lai. Chẳng hạn, tôi nghĩ về những cuộc thưởng thảo mới ở Mindanao, Phi Luật Tân, và chiều hướng mới đang được thực hiện nơi mối liên hệ giữa Bắc Kinh và Đài Loan. Trong cùng bối cảnh tìm cầu hòa bình này, một giải pháp tối hậu cho cuộc xung đột đang xẩy ra ở Sri Lanka cũng phải là một giải pháp về chính trị, vì những nhu cầu về nhân đạo của thành phần dân chúng liên hệ là những gì cần phải tiếp tục được quan tâm như hiện nay. Các cộng đồng Kitô giáo sống ở Á Châu thường nhỏ bé về số người, nhưng họ muốn góp phần một cách đắc nhân tâm và hiệu nghiệm cho công ích, cho tình trạng ổn định và cho việc tiến bộ của xứ sở họ, khi họ làm chứng cho quyền tối thượng của Thiên Chúa là Đấng ấn định một trật tự lành mạnh về các thứ giá trị và là Đấng ban cho một thứ tự do còn mãnh liệt hơn cả các hành động bất chính. Cuộc phong chân phước cho 188 vị tử đạo mới đây ở Nhật Bản đã sống động chứng thực điều này. Giáo Hội, như thường được nói, không đòi hỏi các thứ đặc ân, nhưng là việc được hoàn toàn áp dụng nguyên tắc tự do tôn giáo. Về quan điểm này, ở trung Á, luật pháp liên quan tới các cộng đồng tôn giáo cần phải làm sao để bảo đảm việc trọn vẹn hành sử quyền lợi căn bản này, căn cứ vào các tiêu chuẩn quốc tế.
Trong ít tháng nữa, tôi sẽ hân hoan gặp gỡ nhiều anh chị em cùng niềm tin của chúng ta và đồng loại của chúng ta sống ở Phi Châu. Hướng về cuộc viếng thăm này, một cuộc viếng thăm tôi hết sức ước mong, tôi xin Chúa hãy mở lòng trí của họ trong việc đón nhận Phúc Âm cũng như trong việc liên lỉ sống Phúc Âm, trong việc xây dựng hòa bình bằng việc chiến đấu chống tình trạng nghèo khổ về luân lý và về vật chất. Cần phải hết sức đặc biệt quan tâm tới trẻ em: 20 năm sau Hiệp Ước về Các Quyền Lợi của Trẻ Em được thừa nhận, họ vẫn còn là thành phần rất đễ bị tổn thương. Nhiều em đang trải qua một cảm nghiệm thê thảm là những người tị nạn và những người tản cư ở Somalia, Dafur và Cộng Hòa Dân Chủ Congo. Có những làm sóng di dân bao gồm hằng triệu người cần đến vấn đề trợ giúp nhân đạo và là thành phần trước hết bị tước đoạt đi những quyền lợi căn bản của họ và bị vi phạm đến phẩm giá của mình. Tôi xin các vị lãnh đạo chính trị ở cấp quốc gia và quốc tế hãy thực hiện mọi biện pháp cần thiết để giải quyết những cuộc xung đột hiện nay và chấm dứt những bất công gây ra những cuộc xung đột này. Tôi bày tỏ niềm hy vọng là ở Somalia việc phục hồi của Quốc Gia này cuối cùng sẽ đạt được tiến bộ, để chấm dứt những khổ đau khôn cùng của cư dân nơi xứ sở ấy. Cũng thế, ở Zimbabwe, tình hình vẫn trầm trọng và vẫn cần đến việc trợ giúp nhân đạo khá nhiều. Hiệp ước hòa bình ở Burundi đã lấp lóe tia hy vọng cho miền này. Tôi xin hãy hoàn toàn áp dụng hiệp định này, nhờ thế nó trở thành một nguồn phấn khởi cho các xứ sở khác chưa tìm thấy đường lối hòa giải. Như quí vị biết, Tòa Thánh đặc biệt quan tâm tới lục địa Châu Phi này và hân hoan thiết lập ngoại giao với nước Botswana năm vừa qua.
Trong toàn cảnh rộng lớn bao gồm toàn thế giới này, tôi cũng muốn dừng lại một chút ở Mỹ Châu Latinh. Cả ở đây nữa, dân chúng muốn sống hòa bình, muốn được thoát khỏi tình trạng nghèo khổ và có thể được tự do hành sử những quyền lợi căn bản của họ. Theo chiều hướng ấy, các nhu cầu của những người di dân cần phải được luật pháp quan tâm trong việc giúp dễ dàng hơn cho vấn đề đoàn tụ gia đình, hòa giải những đòi hỏi hợp lý về an ninh với những đòi hỏi về việc tôn trọng bất vi phạm đến con người. Tôi cũng xin khen ngợi việc dấn thân quan trọng được thấy nơi một số chính quyền đối với việc tái thiết lập qui luật và việc tiến hành một trận chiến quyết liệt chống lại vấn đề buôn bán thuốc phiện và tình trạng băng hoại về chính trị. Tôi cảm thấy hân hoan là, sau 30 năm bắt đầu cuộc môi giới điều hình của Giáo Hoàng giữa Á Căn Đình và Chí Lợi, liên quan tới việc họ tranh cãi về lãnh thổ phía nam, hai xứ sở này đã niêm ấn một cách nào đó ước vọng hòa bình của mình, bằng việc dựng một tượng đài cho vị tiền nhiệm khả kính của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngoài ra, tôi hy vọng rằng việc ký kết mới đây Hiệp Định giữa Tòa Thánh và Ba Tây sẽ làm dễ dàng hơn cho việc tự do thi hành sứ vụ của Giáo Hội về việc truyền bá phúc âm hóa, và củng cố hơn nữa việc hợp tác của Tòa Thánh với các cơ cấu dân sự cho việc phát diện trọn vẹn con người. Qua 5 thế kỷ Giáo Hội đã đồng hành với các dân ở Châu Mỹ Latinh, chia sẻ với những niềm hy vọng của họ cùng với những quan tâm của họ. Các vị Mục Tử của Giáo Hội biết rằng, để cổ võ tình trạng tiến bộ chân thực của xã hội, công việc thích đáng của các vị đó là soi sáng lương tâm và huấn luyện những con người nam nữ có khả năng tham gia một cách hữu trách những trần thế vụ để phục vụ cho công ích.
Sau hết, hướng tới các quốc gia cận kề hơn, tôi muốn gửi lời chào tới cộng đồng Kitô hữu ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhớ lại rằng, trong Năm Thánh đặc biệt đánh dấu 2000 năm sinh nhật của Tông Đồ Phaolô, nhiều người hành hương đã tiến về Tarsus, thành phố quê quán của ngài, một sự kiện một lần nữa cho thấy mảnh đất này gắn bó chặt chẽ với nguồn gốc Kitô Giáo là dường nào. Niềm hy vọng hòa bình đang sống động ở Cyprus, nơi mà những cuộc thương thảo cho một giải pháp chính đáng đối với những vấn đề liên quan tới việc phân chia Hải Đảo này đã được tái diễn. Đối với Caucasus, tôi muốn xác định một lần nữa là những cuộc xung đột liên quan tới các quốc gia trong Miền không thể được ổn định bằng phương tiện vũ khí; và nghĩ đến Georgia, tôi hy vọng rằng tất cả mọi quyết tâm cho việc đình chiến hồi Tháng Tám vừa rồi – một thỏa ước được đúc kết nhờ các nỗ lực ngoại giao của Khối Hiệp Nhất Âu Châu – sẽ được tôn trọng, và việc hồi cư của những ai tản cư sẽ được cung ứng sớm bao nhiêu có thể. Cuối cùng, liên quan tới Nam Âu, Tòa Thánh quyết tâm thực hiện việc ổn định trong vùng này, và hy vọng rằng những điều kiện sẽ tiếp tục được kiến tạo cho một tương lai hòa giải và hòa bình giữa dân nhân Serbia và Kosovo, liên quan tới các thành phần thiểu số cũng như tới việc quyết tâm bảo trì gia sản vô giá về nghệ thuật và văn hóa của Kitô giáo là những gì tạo nên một kho tàng cho toàn thể nhân loại.
Cùng Quí Bà và Quí Ông, để kết thúc cái nhìn tổng quan này, một cái nhìn, vì vắn gọn, không thể nào đề cập tới được tất cả mọi trường hợp khổ đau và nghèo túng gắn liền với lòng tôi, tôi muốn trở lại với Sứ Điệp tôi gửi cho Ngày Hòa Bình Thế Giới. Nơi sứ điệp này, tôi đã nhắc lại là những con người nghèo khổ nhất là thành phần trẻ em chưa sinh (khoản 3). Thế nhưng, để kết thúc, tôi không thể nào không đề cập tới những người nghèo khác, như thành phần yếu bệnh, thành phần già nua bị bỏ rơi, những gia đình tan nát và những ai không biết bám víu vào điểm tựa nào. Tình trạng nghèo khổ bị chống lại nếu nhân loại trở thành huynh đệ hơn như thành quả của những giá trị và lý tưởng chung, những gì được xây dựng trên phẩm vị của con người, trên tự do liên kết với trách nhiệm, trên việc nhìn nhận thực sự vị thế của Thiên Chúa trong đời sống của con người. Theo chiều hướng đó, chúng ta hãy gắn mắt vào Chúa Giêsu, một trẻ nhỏ thấp hèn nằm trong máng cỏ. Vì Người là Con Thiên Chúa, Người nói với chúng ta rằng tình đoàn kết huynh đệ giữa tất cả mọi con người nam nữ là con đường vương giả để chống nghèo và xây dựng hòa bình. Chớ gì ánh sáng của tình yêu Người chiếu soi tất cả mọi vị lãnh đạo chính quyền và toàn thể nhân loại! Chớ gì ánh sáng ấy soi dẫn chúng ta qua một năm vừa mới bắt đầu! Tôi chúc cho tất cả quí vị một Tân Niên hạnh phúc.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)