“Con Người, Trọng tâm của Hòa Bình”

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới năm thứ 40, 1/1/2007

 

 

1.         Mở màn cho tân niên này, tôi muốn gửi những lời nguyện chúc tốt đẹp đến các Chính Quyền, các vị lãnh đạo quốc gia cùng tất cả mọi con người nam nữ thiện tâm. Tôi đặc biệt cầu xin hòa bình cho tất cả những ai đang trải qua đớn đau và khổ đau, những ai đang sống trong tình trạng bị đe dọa bởi bạo động và bạo lực, và những ai đang đợi chờ được giải phóng về nhân bản cũng như về xã hội, với nhân phẩm làm người của họ đang bị chà đạp. Tôi cầu xin hòa bình xuống cho các trẻ em, thành phần, nhờ bản chất vô tội của mình, đang làm phong phú hóa sự thiện hảo và niềm hy vọng cho nhân loại, cũng như nhờ những nỗi khổ đau của họ, đang thúc đẩy tất cả chúng ta hãy hoạt động cho công lý và hòa bình. Từ mối quan tâm về trẻ em ấy, nhất là những em có một tương lai mờ mịt bởi việc khai thác và sự hiểm ác của thành phần người lớn thiếu hạnh kiểm, tôi muốn nhân dịp Ngày Thế Giới Hòa Bình này để khuyến khích hết mọi người hãy suy nghĩ về đề tài: ‘Con Người, Trọng Tâm của Hòa Bình’. Tôi tin rằng việc tôn trọng con người là những gì cổ võ cho hòa bình, và trong việc xây dựng hòa bình thì cần phải có một nền tảng trọn vẹn thực sự về nhân bản. Có thế mới sửa soạn một tương lai vững chắc cho các thế hệ mai hậu.

 

Con người và hòa bình: tặng ân và tác vụ

 

2.         Thánh Kinh khẳng định rằng ‘Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài, theo hình ảnh Thiên Chúa, Ngài đã dựng nên họ; Ngài đã dựng nên họ có nam có nữ’ (Gen 1:27). Vì người ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa mà mỗi một cá nhân con người có được phẩm vị của một con người; họ nam hay nữ cũng không phải chỉ là một cái gì đó mà là một con người nào đó, có khả năng tự thức, tự sở hữu, tự hiến thân và hiệp thông với người khác. Đồng thời, nhờ ân sủng, mỗi người được kêu gọi tới việc giao ước với Đấng Hóa Công, được kêu gọi để đáp ứng Ngài bằng niềm tin yêu là những gì không một thụ tạo nào khác có thể thay thế được họ (Cf. Catechism of the Catholic Church, 357). Theo quan điểm siêu nhiên ấy, người ta có thể hiểu tác vụ được ủy thác cho con người trong việc trưởng thành về khả năng yêu thương cũng như trong việc góp phần vào tình trạng tiến bộ của thế giới, canh tân thế giới trong công lý cũng như trong hòa bình. Bằng một câu tổng luận mạnh mẽ, Thánh Âu Quốc Tinh đã dạy rằng: Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta không cần việc trợ giúp của chúng ta; song Ngài không muốn cứu chúng ta nếu chúng ta không phụ giúp” (Sermo 169, 11, 13: PL 38, 923). Bởi thế mà tất cả mọi con người đều có nhiệm vụ phải vun trồng ý thức đối với chiều kích lưỡng diện về tặng ân lẫn tác vụ này.

 

3.         Cũng thế, hòa bình vừa là tặng ân vừa là tác vụ. Nếu thực sự hòa bình hòa bình giữa cá nhân và giữa các dân tộc - một khả năng sống với nhau và xây dựng các mối liên hệ trong công lý và kết đoàn – là những gì đòi phải không ngừng dấn thân về phía chúng ta, thì cũng thực sự, thực sự hơn như thế nữa, hòa bình là tặng ân Thiên Chúa ban. Hòa bình là một khía cạnh nơi hoạt động của Thiên Chúa, được biểu lộ cả nơi việc tạo dựng nên một vũ trụ thứ tự lớp lang và hòa hợp, cũng như nơi việc cứu chuộc một nhân loại đang cần được phục hồi từ tình trạng lệch lạc của tội lỗi. Như thế, việc Tạo Dựng và việc Cứu Chuộc cống hiến một yếu tố giúp chúng ta bắt đầu hiểu được ý nghĩa của đời sống chúng ta trên  thế gian này. Vị tiền nhiệm khả kính của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, khi ngỏ cùng Tổng Hội Đồng Liên Hiêä Quốc ngày 5/10/1995, đã nói rằng: ‘chúng ta không sống trong một thế giới vô tri hay vô nghĩa… có một thứ lý lẽ về luân lý được cài đặt nơi đời sống của con người và là cái có thể giúp thực hiện việc có thêåđối thoại với nhau giữa cá nhân với nhau cũng như các dân tộc với nhau’ (đoạn 3). Cái ‘văn phạm’ siêu việt này, tức là bộ qui luật cho tác hành của cá nhân cũng như cho các mối liên hệ hỗ tương giữa con người với nhau theo công lý và tình đoàn kết, là những gì được ghi khắc nơi lương tâm của con người, nơi phản ảnh dự án khôn ngoan của Thiên Chúa. Như mới đây tôi đã có dịp tái khẳng định: ‘chúng ta tin rằng bắt đầu hết mọi sự có Lời Hằng Hữu là Lý Trí chứ không phải là Vô Tri’ (Homily at Islinger Feld, Regensburg, 12 September 2006). Bởi thế hòa bình cũng là một tác vụ đòi hỏi hết mọi người phải tự đáp ứng hợp với dự án của Thiên Chúa. Qui luật thúc đẩy thực hiện việc đáp ứng này chỉ có thể ở nơi thái độ tôn trọng ‘thứ văn phạm’ được Đấng Hóa Công thần linh viết trong tâm can của con người.

 

Theo quan điểm ấy, không được coi các chuẩn định của luật tự nhiên như là những chỉ thị áp đặt ngoại tại, như là những gì hạn chế tự do của con người. Trái lại, cần phải đón nhận chúng như là một tiếng gọi trung thành thực hiện dự án thần linh phổ quát được ghi khắc nơi bản tính của con người. Theo những chuẩn định ấy, tất cả mọi dân tộc – qua các nền văn hóa riêng biệt của mình – có thể tiến tới một mầu nhiệm cao cả nhất, đó là mầu nhiệm về Thiên Chúa. Cả cho đến ngày hôm nay nữa, việc nhìn nhận và tôn trọng luật tự nhiên là những gì tiêu biểu cho nền tảng của một cuộc đối thoại giữa thành phần tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau cũng như giữa thành phần tín đồ và vô tín ngưỡng. Là một điểm hội tụ lớn lao, nó cũng là một tiền ước nồng cốt cho nền hòa bình chân thực.

 

Quyền sống và tự do tôn giáo

 

4.         Nhiệm vụ tôn trọng phẩm vị của mỗi một con người, một phẩm vị tự bản chất phản ảnh Đấng Hóa Công mà bởi đó có nghĩa là con người không thể bị sử dụng tùy nghi theo ý muốn. Tất cả những ai có quyền hành hơn về chính trị, kỹ thuật hay kinh tế không được sử dụng quyền hành này để phạm tới các quyền lợi của những người khác mang thân phận thấp kém hơn. Hòa bình được căn cứ vào việc tôn trọng các quyền lợi của tất cả mọi người. Ý thức được như thế, Giáo Hội tranh đấu cho các thứ nhân quyền căn bản của mỗi một người. Giáo Hội đặc biệt cổ động và bênh vực việc tôn trọng sự sống và tự do tôn giáo  cho hết mọi người. Việc tôn trọng quyền sống ở mọi giai đoạn của nó thực sự làm nên một nguyên tắc có một tầm quan trọng quyết liệt, ở chỗ, sự sống là một tặng ân không hoàn toàn tùy thuộc vào việc sử dụng của chủ thể. Cũng thế, việc xác định quyền tự do tôn giáo là những gì liên kết con người với một nguyên tắc siêu việt kéo họ ra khỏi tính cách thất thường của con người. Quyền sống và quyền tự do bày tỏ niềm tin tưởng của cá nhân  đối với Thiên Chúa không phải là những gì lệ thuộc vào quyền bính của con người. Hòa bình đòi phải thiết lập một biên giới rõ ràng giữa những gì thuộc quyền sử dụng của con người và những gì không, nhờ đó, mới tránh được những thứ xâm nhập bất khả chấp vào gia sản của những thứ giá trị chuyên biệt của con người.

 

5.         Đối với quyền sống, chúng ta cần phải vạch trần việc vi phạm lan tràn của nó trong xã hội của chúng ta: ngoài những nạn  nhân của các cuộc xung đột võ trang, nạn khủng bố và những hình thức bạo đôäg khác, còn có những cái chết âm thầm gây ra bởi đói khổ, bởi phá thai, bởi việc thí nghiệm phôi thai bào con người và bởi việc triệt sinh an tử. Làm sao chúng ta lại không thấy nơi tất cả những thứ ấy cuộc tâá công hòa bình chứ? Việc phá thai và việc thí nghiệm phôi thai bào con người lạ một thứ trực tiếp chối bỏ thái độ chấp nhận người khác như là những gì bất khả châm chước để thiết lập những mối liên hệ hòa bình bền vững. Liên quan tới việc tự do bày tỏ niềm tin cá nhân, một triệu chứng phiền nhiễu khác gây ra tình trạng thiếu hòa bình trên thế giới được thấy nơi những khốn khó mà cả Kitô hữu và những tín đồ thuộc các tôn giáo khác thường gặp phải khi công khai và tự động tuyên xưng các niềm tin tưởng về đạo giáo của mình. Đặc biệt về Kitô hữu, tôi cảm thấy khổ tâm khi phải lên tiếng nói rằng họ chẳng những có những lúc  bị ngăn cản làm như thế; mà ở một số Quốc Gia, họ thực sự còn bị bách hại, thậm chí người ta còn thấy được cả những trường hợp thê thảm mới đây gây ra bởi việc bạo lực tàn ác. Có những chế độ áp đặt một tôn giáo duy nhất trên moọ người, trong khi các chế độ trần thế thường không dẫn tới chỗ có nhiều cuộc bách hại dữ dội cho b ằng tới việc nhạo báng theo chiều hướng văn hóa các niềm tin tôn giáo. Trong cả hai trường hợp, nhân quyền căn bản của con người đều không được tôn trọng, gây ra hậu quả trầm trọng đến cuộc chung sống thuận hòa. Tình trạng này chỉ có thể cổ võ một thứ tâm thức và văn hóa không lợi ích gì cho hòa bình cả.

 

Quyền Bình Đẳng Tự Nhiên giữa Tất Cả Mọi Người

 

6.         Nguồn gốc của nhiều thứ căng thẳng đe dọa tới hòa bình chắc chắn là những tình trạng thiếu quân bình một cách bất công vẫn còn thê thảm xẩy ra trên thế giới của chúng ta. Đàng khác, cái đặc biệt oái oăm trong số những thứ bất quân bình này đó là tình trạng bất quân bình trong việc có thể được hưởng dụng những sản vật thiết yếu như thực phẩm, nước nôi, cư trú, sức khỏe; ngoài ra, còn có những thứ bất quân bình liên lỉ giữa nam nhân và nữ giới trong việc hành sử các quyền lợi căn bản của con người nữa.

 

Một yếu tố nồng cốt cho việc xây dựng hòa bình đó là việc nhìn nhận cái quyền bình đẳng thiết yếu của con người xuất phát từ phẩm giá siêu việt chung của họ. Sự bình đẳng về phương diện này là sự thiện thuộc về tất cả mọi người, một sự thiện được ghi nhận nơi một ‘thứ văn phạm’ có thể suy diễn từ sự án thần linh của việc tạo dựng; nó là một sự thiện không thể bị coi thường hay khinh thường nếu không muốn gây ra những hậu quả trầm trọng nguy hại tới hòa bình. Tình trạng cực kỳ thiếu thốn đang hành hạ nhiều dân tộc, nhất là ở Phi Châu, nguyên nhân sâu xa đưa đến những phản ứng bạo động và vì thế gây tổn thương nặng nề cho hòa bình.

 

7.         Tương tự như thế, việc không quan tâm đầy đủ đến tình trạng của nữ giới là những gì góp phần vào tình trạng bất ổn định nơi cơ cấu xã hội. Tôi nghĩ tới việc khai thác nữ giới, thành phần bị đối xử như là những đồ vật, cũng như tới nhiều cách thức thiếu tôn trọng đối với phẩm giá của họ; tôi cũng nghĩ tới – ở một bối cảnh khác – tâm thức kéo dài nơi một số văn hóa, nơi phụ nữ vẫn còn bị lụy thuộc một cách mạnh mẽ vào những quyết định độc đoán của nam giới, gây ra những hậu quả trầm trọng cho phẩm giá riêng tư của họ cũng như cho việc họ hành sử các quyền tự do căn bản của họ. Một nền hòa bình bảo đảm chắc chắn chỉ là ảo tưởng cho tới khi những hình thức kỳ thị này cũng được chế ngự nữa, vì chúng làm tổn thương đến phẩm vị riêng tư được Đấng Hóa Công ghi khắc nơi hết mọi người
(Cf. Congregation for the Doctrine of the Faith, Letter to the Bishops of the Catholic Church on the collaboration of men and women in the Church and in the world [31 May 2004], 15-16. ).

 

“Cái Môi Sinh của Hòa Bình”

 

8.         Trong bức Thông Điệp ‘Bách Niên’ của mình, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: ‘Thiên Chúa chẳng những ban trái đất cho con người, thành phần cần phải trân trọng sử dụng nó vì mục đích tốt đẹp nguyên thủy mà nó được ban cho họ, mà cả con người nữa c ũng là tặng ân Thiên Chúa đã ban tặng cho con người nữa. Bởi thế họ cần phải tôn trọng cấu trúc tự nhiên và luân lý mà họ đã được ban cho (khoản 38)". Nhờ việc đáp ứng trách nhiệm này, được Hóa Công ủy thác cho mình, con người nam nữ mới có thể hiệp nhau mang lại một thế giới hòa bình. Cùng với môi trường thiên nhiên, cũng có cả những gì được gọi là một thứ môi trường ‘con người’ nữa, một môi trường ngược lại cần đến một thứ môi trường ‘xã hội’. Tất cả những điều này có nghĩa là nhân loại, nếu thực sự muốn hòa bình, cần  phải gia tăng ý thou về những mối liên  hệ giữa môi sinh tự nhiên, hay tôn trọng thiên  nhiên, và môi sinh con người. Kinh nghiệm cho thấy rằng việc bất kể môi trường bao giờ cũng tác hại tới việc chung sống của con người, hay ngược lại. Càng trở nên hiển nhiên hơn nữa nơi cái liên  hệ bất khả phân  ly giữa tình trạng hòa bình với thiên nhiên và hòa bình nơi con người. Cả hai thứ hòa bình này bao hàm tình trạng hòa bình với Thiên Chúa. Bài thi nguyện của Thánh Phanxicô, đưoơc biết đến như là bài ‘Ca Vịnh Anh Mặt Trời’, là một thí dụ tuyệt vời và hằng hiện đại về thứ môi sinh đa diện  của hòa bình này.   

 

9.         Cái liên hệ chặt chẽ giữa hai thứ môi sinh này có thể hiểu được ở nơi tình trạng bị trục trặc trầm trọng gia tăng về vấn  đề cung cấp năng lượng. Trong những năm gần đây, các quốc gia mới đã hăng say nhập cuộc vào việc sản xuất về kỹ nghệ, bởi đó mới gia tăng nhu cầu năng lượng của họ. Điều này đã dẫn đến một cuộc chạy đua chưa từng có đối với các nguồn liệu sẵn có. Trong khi đó thì một số nơi trên trái đất này vẫn ở trong tình trạng tụt hậu, và việc phát triển thực sự bị ngăn cản, một phần vì vấn đề gia tăng giá cả về năng lượng. Những gì sẽ xẩy ra cho những dân tộc ấy? Tình trạng khan hiếm nơi những nguồn cung cấp năng lượng sẽ ảnh hưởng tới việc phát triển hay không phải triển của những dân tộc ấy ra sao? Cuộc chạy đua đối với các nguồn năng lượng này sẽ gây ra những thứ bất công và xung khắc như thế nào? Và đâu là phản ứng của những ai bị hất ra khỏi cuoọc chạy đua này? Những vấn nạn ấy cho thấy việc tôn trọng đối với thiên nhiên liên hệ chặt chẽ tới nhu cầu cần phải thiết lập, giữa cá nhân với nhau và giữa các quốc gia với nhau, các mối liên hệ chú trọng tới phẩm giá của con người cùng với khả năng đáp ứng thỏa đáng các nhu cầu chân thực của họ. Việc hủy hoại môi trường, việc sử dụng không thíc h đáng hay vị kỷ, và việc giành giật tích trữ các nguồn nhiên liệu của trái đất này là những gì gây ra các tình trạng bất bình, xung khắc và chiến tranh, chính vì chúng là thành quả của một quan niệm phi nhân nơi việc phát triển. Thật vậy, nếu vấn đề phát triển được thu hẹp vào chiều kích kinh tế kỹ thuật, không đếm xỉa gì tới chiều kính tôn giáo luân lý, nó sẽ không phải là một thứ phát triển trọn vẹn về nhân bản, mà là một thứ méo mó một chiều, sẽ tiến tới chỗ làm bùng nổ các thứ khả năng hủy hoại của con người.

 

Những quan niệm giảm thiểu về con người

 

10.       Bởi vậy mà ngay trong cấu trúc của các thứ khó khăn và căng thẳng quốc tế hiện nay, rất cần phải thực hiện một cuộc dấn thân cho một thứ môi sinh nhân bản hướng về cuộc tăng trưởng ‘cây hòa bình’. Để thực hiện được điều này, chúng ta cần phải có một nhãn quan về con người không bị lây nhiễm bởi các thứ thành kiến  về ý hệ và văn hóa, hay bởi những thứ khuynh hướng lợi lộc về chính trị và kinh tế là những gì có thể gây ra hận thù và bạo động. Vẫn biết rằng các thứ quan niệm về con người là những gì khác nhau tùy theo văn hóa. Tuy nhiên, điều không thể chấp nhận được ở đây là việc gieo rắc các quan niệm về nhân loại học chất chứa các mầm mống hận thù và bạo lực. Cũng không thể chấp nhận được các quan niệm về Thiên Chúa phấn khích thái độ bất dung nhượng và việc sủ dụng bạo lực chống lại kẻ khác. Đó là vấn đề cần phải minh nhiên tái xác quyết, ở chỗ, chiến tranh nhân danh Thiên Chúa bao giờ cũng là những gì bất khả chấp! Khi một quan niệm nào đó về Thiên Chúa là nguyên nhân gây ra các hành động tội ác thì nó là dấu hiệu cho thấy rằn g quan niệm đó đã trở thành một thứ ý hệ rồi vậy.

 

11.       Tuy nhiên, ngày nay, hòa bình chẳng những bị đe dọa bởi tình trạng xung khắc giữa những quan niệm giảm thiểu về con người, nói cách khác, giữa những thứ ý thức hệ. Hòa bình cũng còn bị đe dọa bởi thái độ dửng dưng coi thường đối với những gì tạo nên bản tính thực sự của con người nữa. Nhiều người đương thời của chúng ta thực sự chối bỏ sự hiện hữu của một bản tính con người đặc biệt và bởi đó mở đường cho những dẫn giải quá trớn nhất về những gì thiết yếu cấu tạo nên con người. Cả ở đây nữa cũng cần phải làm sáng tỏ vấn đề, đó là một quan niệm ‘yếu kém’ về con người, một quan niệm dọn chỗ cho hết mọi quan niệm, ngay cả quan niệm kỳ quái nhất, chỉ là quan niệm thiên về hòa bình một cách bề ngoài vậy thôi. Thực ra nó cản trở việc đối thoại đích thực và mở đường cho những thứ áp đặt độc đoán, cuối cùng biến con người thành mất khả năng tự vệ, với hậu quả là con người trở thành một mồi ngon cho áp bức và bạo lực.

 

Các thứ nhân quyền và tổ chức quốc tế

 

12.       Một thứ hòa bình thực sự và bền vững bao hàm việc tôn trọng các thứ nhân quyền. Tuy nhiên, nếu những thứ nhân quyền này đưoơc bắt nguồn từ một quan niệm yếu kém về con người, thì làm sao những thứ nhân quyền ấy lại không trở thành những gì suy yếu chứ? Ở đây chúng ta có thể thấy cái hụt hẫng trầm trọng là chừng nào của một thứ quan niệm tương đối về con người. Cái vấn đề khó khăn ở đây đã là những gì hiển nhiên, đó là các thứ quyền lợi được cho là tuyệt đối, tuy nhiên, cái nền tảng nâng đỡ những thứ quyền lợi này lại chỉ là những gì tương đối. Có thể chúng ta nghĩ rằng, trước những đòi hỏi ‘bất thuận lợi’ của thứ quyền này hay quyền khác, có người sẽ đặït vấn đề với thứ quyền lợi ấy hay sẽ dứt khoát là cần phải loại trừ quyền  lợi này đi? Chỉ khi nào chúng được dựa vào những đòi hỏi khách quan của một bản tính con người được Hóa Công ban cho, thì những thứ quyền lợi được qui cho họ mới có thể được xác nhận mà không sợ bị xung khắc mà thôi. Ngoài ra, cũng không thể nào không đề cập tới là các thứ nhân  quyền đều bao hàm cả những thứ nhiệm vụ tương hợp nữa. Về vấn đề này, ông Mahatma Gandhi đã nói một cách khôn ngoan rằng: ‘Những Băng quyền lợi xuất phát từ Núi Hy Mã Lạp Sơn nhiệm vụ’. Cần phải làm sáng tỏ những thứ bao hàm căn bản này, nếu muốn bênh vực một cách thỏa đáng các thứ nhân quyền ngày nay đang liên tục bị tấn công. Không minh bạch như thế thì ‘các thứ nhân quyền’ cuối cùng sẽ đi đến chỗ lệ thuộc vào việc tùy nghi quyết định c ủa các chủ thể khác nhau: có những trường hợp thì con người mang một phẩm giá cùng những quyền lợi tồn tại bao giờ cũng có giá trị ở mọi nơi và đối với mọi người, có trường hợp con người có một phẩm vị được đôåi thay cùng với những quyền lợi liên tục được mặc cả, tùy theo nội dung, thời điểm và địa điểm. 

 

13.       Việc bảo vệ các thứ nhân quyền là những gì liên tục được qui cho những cơ cấu quốc tế, và, đặc biệt là Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, một tổ chức lãnh trách nhiệm nống cốt là cổ võ các thuư nhân quyền được qui định trong Bản Tuyên Ngôn Chung năm 1948. Bản Tuyên Ngôn này được coi như một thứ quyết tâm về luân lý được thực hiện bởi toàn thể nhân loại. Có một sự thật sâu xa ở đây, đặc biệt là nếu các thứ quyền lợi được diễn tả trong Bản Tuyên Ngôn này được tuân giữ trên căn bản không phải chỉ vì chúng là những quyết định được chuẩn nhận bởi một hội đồng, mà là những gì căn cứ vào chính bản tính của con người và phẩm giá bất khả chuyển nhượng của họ như là một con người được Thiên Chúa dựng nên. Bởi thế, điều quan trọng là các cơ quan quốc tế đừng làm mất đi cái nền tảng tự nhiên về nhân  quyền này. Nó sẽ giúp cho họ có thể tránh khỏi nguy cơ, bất hạnh thay luôn xẩy ra, trong việc trơn theo một thứ dẫn giải thuần thực chứng về những quyền lợi này. Nếu điều này xẩy ra thì các cơ cấu quốc tế sẽ đi đến chỗ thiếu thẩm quyết cần thiết để thi hành vai trò của mình như là thành phần bênh vực các thứ quyền lợi nồng cốt của con người cũng như của các dân tộc, thiếu lý do chính đáng chính yếu cho chính sự hiện hữu cùng hoạt động của họ.

 

Luật nhân đạo quốc tế và luật lệ nội tại của các Quốc Gia

 

14.       Việc nhìn nhận rằng các thứ nhân quyền bất khả chuyển nhượng của con người liên hệ với bản tính chung của con người đã dẫn đến chỗ thiết lập một bộ luật nhân đạo quốc tế được các Quốc Gia quyết tâm tôn trọng, ngay cả trong trường hợp xẩy ra chiến tranh. Tiếc thay, không kể đến  những trường hợp trong quá khứ, điều này vẫn không được nhất trí áp dụng nơi một số trường hợp c hiến tranh mới đây. Điển hình cho trường hợp như thế đã xẩy ra trong cuộc xung đột mấy tháng trước đây ở miền nam Lebanon đó là việc hầu như tỏ ra coi thường nhiệm vụ ‘bảo vệ và giúp đỡ các nạn nhân vô tội’ để tránh tình trạng liên quan tới thành phần dân chúng. Tình trạng đau lòng này ở Lebanon và việc hình thành mới những cuộc xung đột, nhất là từ khi mối đe dọa khủng bố hoàn toàn tung ra những hình thức mới bạo động, buộc cộng đồng quốc tế phái tái khẳng định luật nhân đạo quốc tế, và áp dụng nó vào tất cả mọi trường hợp xung đột võ trang hiện nay, bao gồm cả những luật nhân đạo hiện luật quốc tế không có. Ngoài ra, nạn khủng bố đòi phải sâu xa suy nghĩ về những giới hạn đạo lý hạn chế việc sử dụng các phương pháp tân thời trong việc bảo đảm tình trạng an ninh nội bộ. Càng ngày càng xẩy ra những trận đánh không tuyên chiến, nhất là khi những trận chiến này được khởi động bởi các nhóm khủng bố quyết tâm chiếm được mục đích của mình bằng bất cứ phương tiện nào trong tầm tay. Trước những biênácố đáng lo ngại trong những năm gần đây, các Quốc Gia không thể nào không nhận thấy nhu cầu cần phải thiết lập các qui luật rõ ràng hơn trong việc đương đầu một cách hiệu nghiệm với tình trạng tệ hại gần đây đang xẩy ra trước mắt chúng ta. Chiến tranh bao giờ cũng cho thấy cái thất bại của cộng đồng quốc tế và cái thiệt hại nặng nề đối với nhân loại. Bất chấp mọi nỗ lực, một khi chiến tranh bùng nổ thì ít là phải bảo đảm được  những nguyên tắc thiết yếu của nhân loại cùng với những giá trị căn bản nơi tất cả cuộc chung sống về dân sự, phải ấn định những qui chuẩn tác hành có thể hạn chế lại tình trạng thiệt hại bao nhiêu có thể, và giúp vào việc làm giảm bớt đau thương cho dân chúng cũng như cho các nạn nhân của các cuộc xung đột (In this regard, the Catechism of the Catholic Church indicates strict and precise criteria: cf. 2307-2317).

 

15.       Một vấn đề đáng lo ngại nữa là gần đây có một số Quốc Gia tỏ ra muốn có được các thứ vũ khí nguyên tử. Điều này càng làm gia tăng hơn nữa bầu khí đang lan tràn về một thứ bất ổn và lo sợ có thể xẩy ra một tai biến nguyên tử. Chúng ta cản thấy như thụt lại thời đầy những lo âu của giai đoạn ‘chiến tranh lạnh’. Khi cuộc chiến tranh lạnh này kết thúc, người ta hy vọng rằng mối nguy hiểm về nguyên tử đã được hoàn toàn thắng vượt và nhân loại cuối cùng đã được thở phào một cách nhẹ nhàng thoải mái. Về vấn đề này thì còn gì hợp thời cho bằng lời cảnh giác của Công Đồng Chung Vaticanô II là ‘hết mọi hành động chiến tranh nhắm đến việc hủy hoại hằng loạt toàn diện các thành phố hay những miền đất rộng lớn cùng với dân cư ở đấy là một tội ác phạm đến Thiên Chúa và nhân loại, đáng bị mạnh mẽ và cương quyết lên án (Pastoral Constitution "Gaudium et Spes," 80). Tiếc thay, những đám mây đe dọa vẫn tiếp tục tụ lại ở chân trời nhân loại. Đường lối để bảo đảm một tương lai hòa bình cho hết mọi người chẳng những ở nơi các bản thỏa ước quốc tế về vấn đề thôi leo thang các thứ vũ khí nguyên tử, mà còn ở cuộc dứt khoát dấn thân tìm cách giảm bớt chúng và cuối cùng giải giới chúng. Chớ gì hết mọi nỗ lực được thực hiện để qua việc thương thảo đạt tới những mục tiêu ấy! Vận mệnh của toàn thể gia đình nhân loại đang bị hiểm nguy!

 

Giáo Hội bảo đảm cho tính cách siêu việt của con người

 

16.       Sau hết, tôi muốn khẩn trương kêu gọi Dân Chúa: hết mọi Kitô hữu hãy dấn thân cho việc không ngừng đi làm hòa bình cũng như cho việc nhiệt thành bênh vực cho phẩm giá của con người cùng những quyền lợi bất khả chuyển nhượng của họ.

 

Với lòng biết ơn Chúa là Đấng đã gọi mình thuộc về Giáo Hội của Người, một Giáo Hội là ‘dấu hiệu và là bảo đảm cho chiều kích siêu việt của con người (cùng nguồn vừa dẫn, đoạn 76) trên thế gian này, Kitô hữu sẽ không ngừng nài xin Chúa ban cho sự thiện hòa bình sâu xa, một sự thiện có một tầm quan trọng thực sự nơi đời sống của mỗi một con người. Ngoài ra, họ cũng sẽ cảm thấy hãnh diện được dấn thân hoạt động cho hòa bình, rat ay giúp đỡ anh chị em của mình, nhất là những ai, ngoài việc chịu đựng nghèo khổ và thiếu thốn, cũng bị hụt hẫng cả sự thiện quí báu này nữa. Chúa Giêsu đã tỏ cho chúng ta biết rằng ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Jn 4:8), và ơn gọi cao cả nhất của hết mọi người là yêu thương. Nơi Chúa Kitô, chúng ta có thể thấy được lý do tối hậu trong việc trở thành những đối thủ hào hùng cho phẩm vị con người và là những kiến trúc viên can trường xây dựng hòa bình.

 

17.       Vậy hết mọi tín hữu hãy không ngừng góp phần vào việc phát triển một thứ nhân bản trọn vẹn đích thực hợp với các giáo huấn của những bức Thông Điệp ‘Populorum Progressio’ và ‘Sollicitudo Rei Socialis’, những bức thông điệp chúng ta sửa soạn mừng kỷ niệm 40 và 20 năm vào năm nay. Tôi xin ký thác cho Nữ Vương Hòa Bình là Mẹ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng là ‘hòa bình của chúng ta’ (Eph 2:4), lời nguyện cầu thiết tha của tôi cho toàn thể nhân loại vào đầu năm 2007 này, một đầu năm chúng ta đang hướng về với tràn đầy hy vọng, bất kể những hiểm nguy và khó khăn đang vây bủa chúng ta. Xin Mẹ Maria tỏ cho chúng ta thấy, nơi Con của Mẹ, Đường Lối hòa bình, và soi sáng cho quan niệm của chúng ta, để chúng ta có thể nhận ra dung nhan của Chúa Kitô trên khuôn mặt của hết mọi con người là tâm điểm của hòa bình!

 

Tại Vatican ngày 8/12/2006

 

Biển Đức XVI



Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 17/12/2006

 

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/peace/documents/hf_ben-xvi_mes_20061208_xl-world-day-peace_en.html

 

 

 

 

“Con Người – Trọng Tâm của Hòa Bình”

 

 Sứ Điệp Hòa Bình 1/1/2007 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Phân tích học hỏi và chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn c ầu của Tòa Thánh V atican

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/peace/documents/hf_ben-xvi_mes_20061208_xl-world-day-peace_en.html

 

 

 

“Con Người Là Trọng Tâm Của Hòa Bình” là Sứ Điệp Hòa Bình của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, ký từ ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm 8/12/2006, cho Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ 40, một biến cố chất chứa mối liên hệ chặt chẽ giữa tôn giáo và thế giới kể từ Sứ Điệp Hòa Bình đầu tiên của Đức Thánh Cha Phaolô VI ngày 1/1/1968.

 

Ngay ở đoạn mở đầu, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã cho biết về nguyên nhân và mục đích của việc ngài chọn Sứ Điệp Hòa Bình 2007 “Con Người Là Trọng Tâm Của Hòa Bình”, đó là vì nỗi khổ của giới trẻ hiện tại và cho các thế hệ mai sau. Thế rồi trước khi bàn giải về 7 chủ điểm thiết yếu và khẩn trương trực tiếp liên quan tới chủ đề của sứ điệp, ở đoạn 2 và 3 ngài đã đặt nền tảng của chủ đề sứ điệp hòa bình 2007 “con người là trọng tâm của hòa bình” trên niềm xác tín: cả con người lẫn hòa bình đều vừa là tặng ân vừa là tác vụ.

 

Căn do và mục đích chọn chủ đề: Vì nỗi khổ của trẻ em hiện nay và cho tương lai của các thế hệ mai hậu

 

·        Tôi cầu xin hòa bình xuống cho các trẻ em, thành phần, nhờ bản chất vô tội của mình, đang làm phong phú hóa sự thiện hảo và niềm hy vọng cho nhân loại, cũng như nhờ những nỗi khổ đau của họ, đang thúc đẩy tất cả chúng ta hãy hoạt động cho công lý và hòa bình. Từ mối quan tâm về trẻ em ấy, nhất là những em có một tương lai mờ mịt bởi việc khai thác và sự hiểm ác của thành phần người lớn thiếu hạnh kiểm, tôi muốn nhân dịp Ngày Thế Giới Hòa Bình này để khuyến khích hết mọi người hãy suy nghĩ về đề tài: ‘Con Người, Trọng Tâm của Hòa Bình’. Tôi tin rằng việc tôn trọng con người là những gì cổ võ cho hòa bình, và trong việc xây dựng hòa bình thì cần phải có một nền tảng trọn vẹn thực sự về nhân bản. Có thế mới sửa soạn một tương lai vững chắc cho các thế hệ mai hậu.

 

Nền tảng của chủ đề: Cả con người lẫn hòa bình đều chẳng những là một tặng ân mà còn là một tác vụ

 

Về khía cạnh con người chẳng những là một tặng ân mà còn là một tác vụ, Đức Thánh Cha nhận định ở đoạn 2 thế này:

 

Con người chẳng những là một tặng ân, ở chỗ phẩm giá làm người:

 

 

Con người còn là một tác vụ, ở chỗ sống yêu thương và hiệp thông:

 

 

Về khía cạnh hòa bình cũng thế, như con người, hòa bình cũng chẳng những là một tặng ân mà còn là một tác vụ, Đức Thánh Cha cũng tiếp tục phân tích vấn đề này ở đoạn 3 như sau:

 

Hòa bình chẳng những là một tặng ân, nơi việc tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa:

 

 

Cái ý nghĩa của đời sống chúng ta trên thế gian này, xuất phát từ việc Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc đấy, theo Đức Thánh Cha, trong cùng đoạn sứ điệp 3, được thấy nơi cái lý lẽ như là một thứ ‘văn phạm’ về luân  lý bẩm sinh trong con người. Ngài nói:

 

 

Hòa bình còn là một tác vụ, ở chỗ dự án thần linh nơi việc tạo dựng và cứu chuộc được ghi khắc nơi bản tính của con người cần phải được đáp ứng một cách tương xứng, như đoạn sứ điệp 3 cho biết tiếp:

 

·        Hòa bình cũng là mt tác v đòi hi hết mi người phi t đáp ng hp vi d án ca Thiên Chúa. Qui lut thúc đẩy thc hin vic đáp ng này ch có th nơi thái độ tôn trng ‘th văn phm’ được Đấng Hóa Công thn linh viết trong tâm can ca con người. Theo quan đim y, không được coi các chun định ca lut t nhiên như là nhng ch th áp đặt ngoi ti, như là nhng gì hn chế t do ca con người. Trái li, cn phi đón nhn chúng như là mt tiếng gi trung thành thc hin d án thn linh ph quát được ghi khc nơi bn tính ca con người.

 

Theo Đức Thánh Cha, trong cùng đon 3 ca s đip, nh tôn trng lut t nhiên mà con người chng nhng mi có th đi sâu vào mu nhim Thiên Chúa mà còn có th đối thoi c vi nhau na, như ngài đã cm nhn và khng định như sau:

 

·        Theo nhng chun định y, tt c mi dân tc – qua các nn văn hóa riêng bit ca mình – có th tiến ti mt mu nhim cao c nht, đó là mu nhim v Thiên Chúa. C cho đến ngày hôm nay na, vic nhìn nhn và tôn trng lut t nhiên là nhng gì tiêu biu cho nn tng ca mt cuc đối thoi gia thành phn tín đồ thuc các tôn giáo khác nhau, cũng như gia thành phn tin tưởng và nhng người vô tín ngưỡng. Là mt đim hi t ln lao, nó cũng là mt gi định nng ct cho mt nn hòa bình chân thc.

 

Sau khi chẳng những đã cho biết căn do và mục đích của việc chọn chủ đề cho Ngày Thế Giới Hòa Bình lần thứ 40 là “Con Người - Trọng Tâm Của Hòa Bình”, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI của chúng ta còn đặt Sứ Điệp chủ đề của ngài trên một nền tảng nhân loại học siêu nhiên hết sức vững chắc, liên quan tới dự án thần linh trong việc tạo dựng và cứu chuộc, một dự án vốn được bẩm sinh ghi khắc sâu xa nơi bản tính tự nhiên của con người, ngài mới từ đó tiếp tục khai triển và diễn giải sứ điệp hòa bình của mình, về cả lý thuyết lẫn thực tiễn, với 7 chủ điểm quan trọng được ngài nhấn mạnh đặc biệt thứ tự sau đây:

 

1) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” nên con người có quyền sống và quyền tự do tôn giáo;

2) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” nên tất cả mọi người đều bẩm sinh bình đẳng với nhau;

3) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà họ cần phải kiến tạo ‘Môi Sinh Hòa Bình”;

4) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà họ không thể bị quan niệm một cách lệch lạc;

5) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà các quyền lợi của họ mới cần được những tổ chức quốc tế bảo vệ;

6) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà họ cần đến những luật nhân đạo quốc tế và luật Quốc Gia;

7) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà họ được Giáo Hội bảo đảm tính cách siêu việt của họ. 

 

(Biệt chú: 7 tiểu đề dài dòng cho rõ ràng mạch lạc ăn khớp với nhau trên đây được dựa theo các tiểu đề ngắn gọn hơn của chính Sứ Điệp; còn các số dẫn đầu của những đoạn được trích dẫn hoàn toàn đúng như trong Sứ Điệp, nếu để ý sẽ thấy các số chẵn nói về nguyên tắc của mỗi chủ điểm còn số lẽ về những gì thực tiễn của từng chủ điểm).

 

 

1) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” nên con người có quyền sống và quyền tự do tôn giáo:

 

4.         Nhim v tôn trng phm v ca mi mt con người, mt phm v t bn cht phn nh Đấng Hóa Công mà bi đó có nghĩa là con người không th b s dng tùy nghi theo ý mun. Tt c nhng ai có quyn hành hơn v chính tr, k thut hay kinh tế không được s dng quyn hành này để phm ti các quyn li ca nhng người khác mang thân phn thp kém hơn. Hòa bình được căn c vào vic tôn trng các quyn li ca tt c mi người. Ý thc được như thế, Giáo Hi tranh đấu cho các th nhân quyn căn bn ca mi mt người. Giáo Hi đặc bit c động và bênh vc vic tôn trng s sng và t do tôn giáo  cho hết mi người. Vic tôn trng quyn sng mi giai đon ca nó thc s làm nên mt nguyên tc có mt tm quan trng quyết lit, ch, s sng là mt tng ân không hoàn toàn tùy thuc vào vic s dng ca ch th. Cũng thế, vic xác định quyn t do tôn giáo là nhng gì liên kết con người vi mt nguyên tc siêu vit kéo h ra khi tính cách tht thường ca con người. Quyn sng và quyn t do bày t nim tin tưởng ca cá nhân  đối vi Thiên Chúa không phi là nhng gì l thuc vào quyn bính ca con người. Hòa bình đòi phi thiết lp mt biên gii rõ ràng gia nhng gì thuc quyn s dng ca con người và nhng gì không, nh đó, mi tránh được nhng th xâm nhp bt kh chp vào gia sn ca nhng th giá tr chuyên bit ca con người.

 

5.         Đối vi quyn sng, chúng ta cn phi vch trn vic vi phm lan tràn ca nó trong xã hi ca chúng ta: ngoài nhng nn nhân ca các cuc xung đột võ trang, nn khng b và nhng hình thc bo động khác, còn có nhng cái chết âm thm gây ra bi đói kh, bi phá thai, bi vic thí nghim phôi thai bào con người và bi vic trit sinh an t. Làm sao chúng ta li không thy nơi tt c nhng th y cuc tn công hòa bình ch? Vic phá thai và vic thí nghim phôi thai bào con người là mt th trc tiếp chi b thái độ chp nhn người khác như là nhng gì bt kh châm chước để thiết lp nhng mi liên h hòa bình bn vng. Liên quan ti vic t do bày t nim tin cá nhân, mt triu chng phin nhiu khác gây ra tình trng thiếu hòa bình trên thế gii được thy nơi nhng khn khó mà c Kitô hu và nhng tín đồ thuc các tôn giáo khác thường gp phi khi công khai và t động tuyên xưng các nim tin tưởng v đạo giáo ca mình. Đặc bit v Kitô hu, tôi cm thy kh tâm khi phi lên tiếng nói rng h chng nhng có nhng lúc b ngăn cn làm như thế; mà mt s Quc Gia, h thc s còn b bách hi, thm chí người ta còn thy được c nhng trường hp thê thm mi đây gây ra bi vic bo lc tàn ác na. Có nhng chế độ áp đặt mt tôn giáo duy nht trên mi người, trong khi các chế độ trn thế thường không dn ti ch có nhiu cuc bách hi d di cho b ng ti vic nho báng theo chiu hướng văn hóa các nim tin tôn giáo. Trong c hai trường hp, nhân quyn căn bn ca con người đều không được tôn trng, gây ra hu qu trm trng đến cuc chung sng thun hòa. Tình trng này ch có th c võ mt th tâm thc và văn hóa không li ích gì cho hòa bình c.

 

2) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” nên tất cả mọi người đều bẩm sinh bình đẳng với nhau:

 

6.         Ngun gc ca nhiu th căng thng đe da ti hòa bình chc chn là nhng tình trng thiếu quân bình mt cách bt công vn còn thê thm xy ra trên thế gii ca chúng ta. Đàng khác, cái đặc bit oái oăm trong s nhng th bt quân bình này đó là tình trng bt quân bình trong vic có th được hưởng dng nhng sn vt thiết yếu như thc phm, nước nôi, cư trú, sc khe; ngoài ra, còn có nhng th bt quân bình liên l gia nam nhân và n gii trong vic hành s các quyn li căn bn ca con người na.

 

Mt yếu t nng ct cho vic xây dng hòa bình đó là vic nhìn nhn cái quyn bình đẳng thiết yếu ca con người xut phát t phm giá siêu vit chung ca h. S bình đẳng v phương din này là s thin thuc v tt c mi người, mt s thin được ghi nhn nơi mt ‘th văn phm’ có th suy din t d án thn linh ca vic to dng; nó là mt s thin không th b coi thường hay khinh thường nếu không mun gây ra nhng hu qu trm trng nguy hi ti hòa bình. Tình trng cc k thiếu thn đang hành h nhiu dân tc, nht là Phi Châu, nguyên nhân sâu xa đưa đến nhng phn ng bo động và vì thế gây tn thương nng n cho hòa bình.

 

7.         Tương t như thế, vic không quan tâm đầy đủ đến tình trng ca n gii là nhng gì góp phn vào tình trng bt n định nơi cơ cu xã hi. Tôi nghĩ ti vic khai thác n gii, thành phn b đối x như là nhng đồ vt, cũng như ti nhiu cách thc thiếu tôn trng đối vi phm giá ca h; tôi cũng nghĩ ti – mt bi cnh khác – tâm thc kéo dài nơi mt s văn hóa, nơi ph n vn còn b ly thuc mt cách mnh m vào nhng quyết định độc đoán ca nam gii, gây ra nhng hu qu trm trng cho phm giá riêng tư ca h cũng như cho vic h hành s các quyn t do căn bn ca h. Mt nn hòa bình bo đảm chc chn cho tưởng cho ti khi nhng hình thc k th này cũng được chế ng na, vì chúng làm tn thương đến phm v riêng tư được Đấng Hóa Công ghi khc nơi hết mi người (Cf. Congregation for the Doctrine of the Faith, Letter to the Bishops of the Catholic Church on the collaboration of men and women in the Church and in the world [31 May 2004], 15-16).

 

3) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà họ cần phải  kiến tạo ‘Môi Sinh Hòa Bình”:

 

8.         Trong bc Thông Đip ‘Bách Niên’ ca mình, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: ‘Thiên Chúa chng nhng ban trái đất cho con người, thành phn cn phi trân trng s dng nó vì mc đích tt đẹp nguyên thy mà nó được ban cho h, mà c con người na cũng là tng ân Thiên Chúa đã ban tng cho con người na. Bi thế h cn phi tôn trng cu trúc t nhiên và luân lý mà h đã được ban cho (khon 38)". Nh vic đáp ng trách nhim được Hóa Công y thác cho mình y, con người nam n mi có th hip nhau mang li mt thế gii hòa bình. Cùng vi môi trường thiên nhiên, cũng có c nhng gì được gi là mt th môi trường ‘con người’ na, mt môi trường li cn đến mt th môi trường ‘xã hi’. Tt c nhng điu này có nghĩa là nhân loi, nếu thc s mun hòa bình, cn  phi gia tăng ý thc v nhng mi liên h gia môi sinh t nhiên, hay gia vic tôn trng thiên nhiên, và môi sinh con người. Kinh nghim cho thy rng vic bt k không màng chi ti môi trường bao gi cũng tác hi ti vic chung sng ca con người, hay ngược li. Càng tr nên hin nhiên hơn na nơi cái liên h bt kh phân  ly gia tình trng hòa bình vi thiên nhiên và hòa bình nơi con người. C hai th hòa bình này bao hàm tình trng hòa bình vi Thiên Chúa. Bài thi nguyn ca Thánh Phanxicô, được biết đến như là bài ‘Ca Vnh Anh Mt Tri’, là mt thí d tuyt vi và hng hin đại v th môi sinh đa din ca hòa bình này.   

 

9.         Cái liên h cht ch gia hai th môi sinh này có th hiu được nơi tình trng b trc trc trm trng gia tăng v v đề cung cp năng lượng. Trong nhng năm gn đây, các quc gia mi đã hăng say nhp cuc vào vic sn xut v k ngh, bi đó mi gia tăng nhu cu năng lượng ca h. Điu này đã dn đến mt cuc chy đua chưa tng thy đối vi các ngun liu sn có. Trong khi đó thì mt s nơi trên trái đất này vn trong tình trng tt hu, và vic phát trin thc s b ngăn cn, mt phn vì vn đề gia tăng giá c v năng lượng. Nhng gì s xy ra cho nhng dân tc y đây? Tình trng khan hiếm nơi nhng ngun cung cp năng lượng s nh hưởng ti vic phát trin hay không phi trin ca nhng dân tc y ra sao? Cuc chy đua đối vi các ngun năng lượng này s gây ra nhng th bt công và xung khc như thế nào? Và đâu là phn ng ca nhng ai b ht ra khi cuïc chy đua này? Nhng vn nn y cho thy vic tôn trng đối vi thiên nhiên liên h cht ch ti nhu cu cn phi thiết lp, gia cá nhân vi nhau và gia các quc gia vi nhau, các mi liên h chú trng ti phm giá ca con người cùng vi kh năng đáp ng tha đáng các nhu cu chân thc ca h. Vic hy hoi môi trường, vic s dng không thích đáng hay v k, và vic giành git tích tr các ngun nhiên liu ca trái đất này là nhng gì gây ra các tình trng bt bình, xung khc và chiến tranh, chính vì chúng là thành qu ca mt quan nim phi nhân nơi vic phát trin. Tht vy, nếu vn đề phát trin được thu hp vào chiu kích kinh tế k thut, không đếm xa gì ti chiu kính tôn giáo luân lý, nó s không phi là mt th phát trin trn vn v nhân bn, mà là mt th méo mó mt chiu, s tiến ti ch làm bùng n các th kh năng hy hoi ca con người.

 

4) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà họ không thể bị quan niệm một cách lệch lạc:

 

10.       Bi vy mà ngay trong cu trúc ca các th khó khăn và căng thng quc tế hin nay, rt cn phi thc hin mt cuc dn thân cho mt th môi sinh nhân bn hướng v cuc tăng trưởng ‘cây hòa bình’. Để thc hin được điu này, chúng ta cn phi có mt nhãn quan v con người không b lây nhim bi các th thành kiến  v ý h và văn hóa, hay bi nhng th khuynh hướng li lc v chính tr và kinh tế là nhng gì có th gây ra hn thù và bo động. Vn biết rng các th quan nim v con người là nhng gì khác nhau tùy theo văn hóa. Tuy nhiên, điu không th chp nhn được đây là vic gieo rc các quan nim v nhân loi hc cht cha các mm mng hn thù và bo lc. Cũng không th chp nhn được các quan nim v Thiên Chúa phn khích thái độ bt dung nhượng và vic s dng bo lc chng li k khác. Đó là vn đề cn phi minh nhiên tái xác quyết, ch, chiến tranh nhân danh Thiên Chúa bao gi cũng là nhng gì bt kh chp! Khi mt quan nim nào đó v Thiên Chúa là nguyên nhân gây ra các hành động ti ác thì nó là du hiu cho thy rn g quan nim đó đã tr thành mt th ý h ri vy.

 

11.       Tuy nhiên, ngày nay, hòa bình chng nhng b đe da bi tình trng xung khc gia nhng quan nim gim thiu v con người, nói cách khác, gia nhng th ý thc h. Hòa bình cũng còn b đe da bi thái độ dng dưng coi thường đối vi nhng gì to nên bn tính thc s ca con người na. Nhiu người đương thi ca chúng ta thc s chi b s hin hu ca mt bn tính con người đặc bit và bi đó m đường cho nhng dn gii quá trn nht v nhng gì thiết yếu cu to nên con người. C đây na cũng cn phi làm sáng t vn đề, đó là mt quan nim ‘yếu kém’ v con người, mt quan nim dn ch cho hết mi quan nim, ngay c quan nim k quái nht, ch là quan nim thiên v hòa bình mt cách b ngoài vy thôi. Thc ra nó cn tr vic đối thoi đích thc và m đường cho nhng th áp đặt độc đoán, cui cùng biến con người thành mt kh năng t v, vi hu qu là con người tr thành mt mi ngon cho áp bc và bo lc.

 

5) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà quyền lợi của họ cần được những tổ chức quốc tế bảo vệ:

 

12.       Mt th hòa bình thc s và bn vng bao hàm vic tôn trng các th nhân quyn. Tuy nhiên, nếu nhng th nhân quyn này đươc bt ngun t mt quan nim yếu kém v con người, thì làm sao nhng th nhân quyn y li không tr thành nhng gì suy yếu ch? đây chúng ta có th thy cái ht hng trm trng là chng nào ca mt th quan nim tương đối v con người. Cái vn đề khó khăn đây đã là nhng gì hin nhiên, đó là các th quyn li được cho là tuyt đối, tuy nhiên, cái nn tng nâng đỡ nhng th quyn li này li ch là nhng gì tương đối. Có th chúng ta nghĩ rng, trước nhng đòi hi ‘bt thun li’ ca th quyn này hay quyn khác, có người s đặït vn đề vi th quyn li y hay s dt khoát là cn phi loi tr quyn  li này đi? Ch khi nào chúng được da vào nhng đòi hi khách quan ca mt bn tính con người được Hóa Công ban cho, thì nhng th quyn li được qui cho h mi có th được xác nhn mà không s b xung khc mà thôi. Ngoài ra, cũng không th nào không đề cp ti là các th nhân  quyn đều bao hàm c nhng th nhim v tương hp na. V vn đề này, ông Mahatma Gandhi đã nói mt cách khôn ngoan rng: ‘Nhng Băng quyn li xut phát t Núi Hy Mã Lp Sơn nhim v’. Cn phi làm sáng t nhng th bao hàm căn bn này, nếu mun bênh vc mt cách tha đáng các th nhân quyn ngày nay đang liên tc b tn công. Không minh bch như thế thì ‘các th nhân quyn’ cui cùng s đi đến ch l thuc vào vic tùy nghi quyết định ca các ch th khác nhau: có nhng trường hp thì con người mang mt phm giá cùng nhng quyn li tn ti bao gi cũng có giá tr mi nơi và đối vi mi người, có trường hp con người có mt phm v được đôåi thay cùng vi nhng quyn li liên tc được mc c, tùy theo ni dung, thi đim và địa đim. 

 

13.       Vic bo v các th nhân quyn là nhng gì liên tc được qui cho nhng cơ cu quc tế, và, đặc bit là T Chc Liên Hip Quc, mt t chc lãnh trách nhim nng ct là c võ các thuư nhân quyn được qui định trong Bn Tuyên Ngôn Chung năm 1948. Bn Tuyên Ngôn này được coi như mt th quyết tâm v luân lý được thc hin bi toàn th nhân loi. Có mt s tht sâu xa đặc bit đây đó là các th quyn li được din t trong Bn Tuyên Ngôn này được tuân gi trên căn bn không phi ch vì chúng là nhng quyết định được chun nhn bi mt hi đồng, mà là nhng gì căn c vào chính bn tính ca con người và phm giá bt kh chuyn nhượng ca h như là mt con người được Thiên Chúa dng nên. Bi thế, điu quan trng là các cơ quan quc tế đừng làm mt đi cái nn tng t nhiên v nhân  quyn này. Nó s giúp cho h có th tránh khi nguy cơ, bt hnh thay luôn xy ra, trong vic chiu theo mt th dn gii thun thc chng v nhng quyn li này. Nếu điu này xy ra thì các cơ cu quc tế s đi đến ch thiếu thm quyết cn thiết để thi hành vai trò ca mình như là thành phn bênh vc các th quyn li nng ct ca con người cũng như ca các dân tc, thiếu lý do chính đáng chính yếu cho chính s hin hu cùng hot động ca h.

 

6) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà họ cần đến những luật nhân đạo quốc tế và luật Quốc Gia:

 

14.       Vic nhìn nhn rng các th nhân quyn bt kh chuyn nhượng ca con người liên h vi bn tính chung ca con người đã dn đến ch thiết lp mt b lut nhân đạo quc tế được các Quc Gia quyết tâm tôn trng, ngay c trong trường hp xy ra chiến tranh. Tiếc thay, không k đến  nhng trường hp trong quá kh, điu này vn không được nht trí áp dng nơi mt s trường hp c hiến tranh mi đây. Đin hình cho trường hp như thế đã xy ra trong cuc xung đột my tháng trước đây min nam Lebanon đó là vic hu như t ra coi thường nhim v ‘bo v và giúp đỡ các nn nhân vô ti’ để tránh tình trng liên quan ti thành phn dân chúng. Tình trng đau lòng này Lebanon và vic hình thành mi nhng cuc xung đột, nht là t khi mi đe da khng b hoàn toàn tung ra nhng hình thc mi bo động, buc cng đồng quc tế phái tái khng định lut nhân đạo quc tế, và áp dng nó vào tt c mi trường hp xung đột võ trang hin nay, bao gm c nhng lut nhân đạo hin lut quc tế không có. Ngoài ra, nn khng b đòi phi sâu xa suy nghĩ v nhng gii hn đạo lý hn chế vic s dng các phương pháp tân thi trong vic bo đảm tình trng an ninh ni b. Càng ngày càng xy ra nhng trn đánh không tuyên chiến, nht là khi nhng trn chiến này được khi động bi các nhóm khng b quyết tâm chiếm được mc đích ca mình bng bt c phương tin nào trong tm tay. Trước nhng biến c đáng lo ngi trong nhng năm gn đây, các Quc Gia không th nào không nhn thy nhu cu cn phi thiết lp các qui lut rõ ràng hơn trong vic đương đầu mt cách hiu nghim vi tình trng t hi gn đây đang xy ra trước mt chúng ta. Chiến tranh bao gi cũng cho thy cái tht bi ca cng đồng quc tế và cái thit hi nng n đối vi nhân loi. Bt chp mi n lc, mt khi chiến tranh bùng n thì ít là phi bo đảm được nhng nguyên tc thiết yếu ca nhân loi cùng vi nhng giá tr căn bn nơi tt c cuc chung sng v dân s, phi n định nhng qui chun tác hành có th hn chế li tình trng thit hi bao nhiêu có th, và giúp vào vic làm gim bt đau thương cho dân chúng cũng như cho các nn nhân ca các cuc xung đột (v vn đề này Sách Giáo Lý Giáo Hi Công Giáo đã n định nhng qui tc ngt nghèo và chi tiết các s 2307-2317).

 

15.       Mt vn đề đáng lo ngi na là gn đây có mt s Quc Gia t ra mun có được các th vũ khí nguyên t. Điu này càng làm gia tăng hơn na bu khí đang lan tràn v mt th bt n và lo s có th xy ra mt tai biến nguyên t. Chúng ta cn thy như tht li thi đầy nhng lo âu ca giai đon ‘chiến tranh lnh’. Khi cuc chiến tranh lnh này kết thúc, người ta hy vng rng mi nguy him v nguyên t đã được hoàn toàn thng vượt và nhân loi cui cùng đã được th phào mt cách nh nhàng thoi mái. V vn đề này thì còn gì hp thi cho bng li cnh giác ca Công Đồng Chung Vaticanô II là ‘hết mi hành động chiến tranh nhm đến vic hy hoi hng lot toàn din các thành ph hay nhng min đất rng ln cùng vi dân cư đấy là mt ti ác phm đến Thiên Chúa và nhân loi, đáng b mnh m và cương quyết lên án (Pastoral Constitution "Gaudium et Spes," 80). Tiếc thay, nhng đám mây đe da vn tiếp tc t li chân tri nhân loi. Đường li để bo đảm mt tương lai hòa bình cho hết mi người chng nhng nơi các bn tha ước quc tế v vn đề thôi leo thang các th vũ khí nguyên t, mà còn vic dt khoát dn thân tìm cách gim bt chúng và cui cùng gii gii chúng. Ch gì hết mi n lc được thc hin để qua vic thương tho đạt ti nhng mc tiêu y! Vn mnh ca toàn th gia đình nhân loi đang b him nguy!

 

7) Vì “con người là trọng tâm của hòa bình” mà họ được Giáo Hội bảo đảm tính cách siêu việt của họ:  

 

16.       Sau hết, tôi mun khn trương kêu gi Dân Chúa: hết mi Kitô hu hãy dn thân cho vic không ngng đi làm hòa bình cũng như cho vic nhit thành bênh vc cho phm giá ca con người cùng nhng quyn li bt kh chuyn nhượng ca h.

 

Vi lòng biết ơn Chúa là Đấng đã gi mình thuc v Giáo Hi ca Người, mt Giáo Hi là ‘du hiu và là bo đảm cho chiu kích siêu vit ca con người (cùng ngun va dn, đon 76) trên thế gian này, Kitô hu s không ngng nài xin Chúa ban cho s thin hòa bình sâu xa, mt s thin có mt tm quan trng thc s nơi đời sng ca mi mt con người. Ngoài ra, h cũng s cm thy hãnh din được dn thân hot động cho hòa bình, ra tay giúp đỡ anh ch em ca mình, nht là nhng ai, ngoài vic chu đựng nghèo kh và thiếu thn, cũng b ht hng c s thin quí báu này na. Chúa Giêsu đã t cho chúng ta biết rng ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Jn 4:8), và ơn gi cao c nht ca hết mi người là yêu thương. Nơi Chúa Kitô, chúng ta có th thy được lý do ti hu trong vic tr thành nhng đối th hào hùng cho phm v con người và là nhng kiến trúc viên can trường xây dng hòa bình.

 

17.       Vy hết mi tín hu hãy không ngng góp phn vào vic phát trin mt th nhân bn trn vn đích thc hp vi các giáo hun ca nhng bc Thông Đip ‘Populorum Progressio’ và ‘Sollicitudo Rei Socialis’, nhng bc thông đip chúng ta sa son mng k nim 40 và 20 năm vào năm nay. Tôi xin ký thác cho N Vương Hòa Bình là M ca Chúa Giêsu Kitô, Đấng là ‘hòa bình ca chúng ta’ (Eph 2:4), li nguyn cu thiết tha ca tôi cho toàn th nhân loi vào đầu năm 2007 này, mt đầu năm chúng ta đang hướng v vi tràn đầy hy vng, bt k nhng him nguy và khó khăn đang vây ba chúng ta. Xin M Maria t cho chúng ta thy, nơi Con ca M, Đường Li hòa bình, và soi sáng cho quan nim ca chúng ta, để chúng ta có th nhn ra dung nhan ca Chúa Kitô trên khuôn mt ca hết mi con người là tâm đim ca hòa bình!

 

 

Những lời khẳng định trong Sứ Điệp Hòa Bình 2007 cần phải ý thức và áp dụng thực hành

 

Có thể nói, Sứ Điệp Hòa Bình 2007 “Con Người Là Trọng Tâm Của Hòa Bình” là những gì tiếp nối cho Sứ Điệp Hòa Bình 2006, sứ điệp đầu tiên của vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI luôn nhấn mạnh đến lý trí, điển hình nhất là qua những bài diễn từ của ngài trong chuyến tông du Bavaria Đức Quốc (9-14/9/2006) và Thổ Nhĩ Kỳ (28/11/-1/12/2006). Đúng thế, nếu Sứ Điệp Hòa Bình 2006 của ngài là “Hòa Bình trong Chân Lý” thì chân lý đây là ở nơi chính con người, nơi chính phẩm vị và các thứ nhân quyền bẩm sinh của họ, những yếu tố trực tiếp liên hệ một cách bất khả phân ly với bản tính tự nhiên của con người, mà nếu không được nhìn nhận, tôn trọng và bênh vực sẽ chắc chắn không thể nào có, cũng chẳng bao giờ có hòa bình thực sự và bền vững. Vậy, theo chiều hướng của cả hai Sứ Điệp Hòa Bình 2006 và 2007 thì không thể nào có hòa bình nếu thiếu chân lý, tức là nếu không hoàn thành dự án thần linh được biểu lộ nơi hữu thể con người.

Tuy nhiên, muốn áp dụng thực hành bất cứ một điều gì, chẳng những cần phải tìm hiểu nó, (như đã cố gắng phân tích trên đây về Sức Điệp Hòa Bình 2007), mà còn phải ý thức những gì mình đã tìm hiểu nữa, để các tư tưởng được chúng ta nghiền ngẫm thực sự và hoàn toàn trở thành niềm xác tín của chúng ta, như đồ ăn thức uống được tiêu hóa rồi sinh hóa thành máu thịt của mình, thành sinh lực sống động. Đó là lý do chúng ta cần đặc biệt chú ý hơn và nhớ kỹ hơn một số tư tưởng trọng yếu nơi Sứ Điệp Hòa Bình 2007 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI.

 

1.      Việc tôn trọng con người là những gì cổ võ cho hòa bình, và trong việc xây dựng hòa bình thì cần phải có một nền tảng trọn vẹn thực sự về nhân bản. (đoạn 1)

 

2.      Vì người ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa mà mỗi một cá nhân con người có được phẩm vị của một con người; họ nam hay nữ cũng không phải chỉ là một cái gì đó mà là một con người nào đó, có khả năng tự thức, tự sở hữu, tự hiến thân và hiệp thông với người khác. (đoạn 2)

 

3.      Nhờ ân sủng, mỗi người được kêu gọi tới việc giao ước với Đấng Hóa Công, được kêu gọi để đáp ứng Ngài bằng niềm tin yêu là những gì không một thụ tạo nào khác có thể thay thế được họ (Cf. Catechism of the Catholic Church, 357). (đoạn 2)

 

4.      Hòa bình là một khía cạnh nơi hoạt động của Thiên Chúa, được biểu lộ cả nơi việc tạo dựng nên một vũ trụ thứ tự lớp lang và hòa hợp, cũng như nơi việc cứu chuộc một nhân loại đang cần được phục hồi từ tình trạng lệch lạc của tội lỗi. Như thế, việc Tạo Dựng và việc Cứu Chuộc cống hiến một yếu tố giúp chúng ta bắt đầu hiểu được ý nghĩa của đời sống chúng ta trên thế gian này. (đoạn 3)

 

5.      Bộ qui luật cho tác hành của cá nhân cũng như cho các mối liên hệ hỗ tương giữa con người với nhau theo công lý và tình đoàn kết, là những gì được ghi khắc nơi lương tâm của con người, nơi phản ảnh dự án khôn ngoan của Thiên Chúa. (đoạn 3)

 

6.      Không được coi các chuẩn định của luật tự nhiên như là những chỉ thị áp đặt ngoại tại, như là những gì hạn chế tự do của con người. Trái lại, cần phải đón nhận chúng như là một tiếng gọi trung thành thực hiện dự án thần linh phổ quát được ghi khắc nơi bản tính của con người. (đoạn 3)

 

7.      Nhim v tôn trng phm v ca mi mt con người, mt phm v t bn cht phn nh Đấng Hóa Công mà bi đó có nghĩa là con người không th b s dng tùy nghi theo ý mun. Tt c nhng ai có quyn hành hơn v chính tr, k thut hay kinh tế không được s dng quyn hành này để phm ti các quyn li ca nhng người khác mang thân phn thp kém hơn. Hòa bình được căn c vào vic tôn trng các quyn li ca tt c mi người. (đon 4)

 

8.      Quyn sng và quyn t do bày t nim tin tưởng ca cá nhân đối vi Thiên Chúa không phi là nhng gì l thuc vào quyn bính ca con người. Hòa bình đòi phi thiết lp mt biên gii rõ ràng gia nhng gì thuc quyn s dng ca con người và nhng gì không, nh đó, mi tránh được nhng th xâm nhp bt kh chp vào gia sn ca nhng th giá tr chuyên bit ca con người. (đon 4)

 

9.      Vic phá thai và vic thí nghim phôi thai bào con người là mt th trc tiếp chi b thái độ chp nhn người khác như là nhng gì bt kh châm chước để thiết lp nhng mi liên h hòa bình bn vng. (đon 5)

 

10.  Có nhng chế độ áp đặt mt tôn giáo duy nht trên mi người, trong khi các chế độ trn thế thường không dn ti ch có nhiu cuc bách hi d di cho bng ti vic nho báng theo chiu hướng văn hóa các nim tin tôn giáo. Trong c hai trường hp, nhân quyn căn bn ca con người đều không được tôn trng, gây ra hu qu trm trng đến cuc chung sng thun hòa. Tình trng này ch có th c võ mt th tâm thc và văn hóa không li ích gì cho hòa bình c. (đon 5)

 

11.  Mt yếu t nng ct cho vic xây dng hòa bình đó là vic nhìn nhn cái quyn bình đẳng thiết yếu ca con người xut phát t phm giá siêu vit chung ca h. S bình đẳng v phương din này là s thin thuc v tt c mi người, mt s thin được ghi nhn nơi mt ‘th văn phm’ có th suy din t d án thn linh ca vic to dng; nó là mt s thin không th b coi thường hay khinh thường nếu không mun gây ra nhng hu qu trm trng nguy hi ti hòa bình. (đon 6)

 

12.  Vic hy hoi môi trường, vic s dng không thích đáng hay v k, và vic giành git tích tr các ngun nhiên liu ca trái đất này là nhng gì gây ra các tình trng bt bình, xung khc và chiến tranh, chính vì chúng là thành qu ca mt quan nim phi nhân nơi vic phát trin. (đon 9)

 

13.  Nếu vn đề phát trin được thu hp vào chiu kích kinh tế k thut, không đếm xa gì ti chiu kính tôn giáo luân lý, nó s không phi là mt th phát trin trn vn v nhân bn, mà là mt th méo mó mt chiu, s tiến ti ch làm bùng n các th kh năng hy hoi ca con người. (đon 9)

 

14.  Chúng ta cn phi có mt nhãn quan v con người không b lây nhim bi các th thành kiến v ý h và văn hóa, hay bi nhng th khuynh hướng li lc v chính tr và kinh tế là nhng gì có th gây ra hn thù và bo động. (đon 10)

 

15.  Vn biết rng các th quan nim v con người là nhng gì khác nhau tùy theo văn hóa. Tuy nhiên, điu không th chp nhn được đây là vic gieo rc các quan nim v nhân loi hc cht cha các mm mng hn thù và bo lc. Cũng không th chp nhn được các quan nim v Thiên Chúa phn khích thái độ bt dung nhượng và vic s dng bo lc chng li k khác. (đon 10)

 

16.  Chiến tranh nhân danh Thiên Chúa bao gi cũng là nhng gì bt kh chp! (đon 10)

 

17.  Khi mt quan nim nào đó v Thiên Chúa là nguyên nhân gây ra các hành động ti ác thì nó là du hiu cho thy rng quan nim đó đã tr thành mt th ý h ri vy. (đon 10)

 

18.  Ngày nay, hòa bình chng nhng b đe da bi tình trng xung khc gia nhng quan nim gim thiu v con người, nói cách khác, gia nhng th ý thc h. Hòa bình cũng còn b đe da bi thái độ dng dưng coi thường đối vi nhng gì to nên bn tính thc s ca con người na. (đon 11) 

 

19.  Nhiu người đương thi ca chúng ta thc s chi b s hin hu ca mt bn tính con người đặc bit và bi đó m đường cho nhng dn gii quá trn nht v nhng gì thiết yếu cu to nên con người. (đon 11)  

 

20.  Mt quan nim ‘yếu kém’ v con người, mt quan nim dn ch cho hết mi quan nim, ngay c quan nim k quái nht, ch là quan nim thiên v hòa bình mt cách b ngoài vy thôi. Thc ra nó cn tr vic đối thoi đích thc và m đường cho nhng th áp đặt độc đoán, cui cùng biến con người thành mt kh năng t v, vi hu qu là con người tr thành mt mi ngon cho áp bc và bo lc. (đon 11) 

 

21.  Ch khi nào các th nhân quyn được da vào nhng đòi hi khách quan ca mt bn tính con người do Hóa Công ban cho, thì nhng th quyn li được qui cho h mi có th được xác nhn mà không s b xung khc mà thôi. Các th nhân quyn đều bao hàm c nhng th nhim v tương hp na… Không minh bch như thế thì ‘các th nhân quyn’ cui cùng s đi đến ch l thuc vào vic tùy nghi quyết định ca các ch th khác nhau: có nhng trường hp thì con người mang mt phm giá cùng nhng quyn li tn ti bao gi cũng có giá tr mi nơi và đối vi mi người, có trường hp con người có mt phm v được đôåi thay cùng vi nhng quyn li liên tc được mc c, tùy theo ni dung, thi đim và địa đim. (đon 12)

 

22.  Các th quyn li được din t trong Bn Tuyên Ngôn Chung ca Liên Hip Quc được tuân gi trên căn bn không phi ch vì chúng là nhng quyết định được chun nhn bi mt hi đồng, mà là nhng gì căn c vào chính bn tính ca con người và phm giá bt kh chuyn nhượng ca h như là mt con người được Thiên Chúa dng nên. Bi thế, điu quan trng là các cơ quan quc tế đừng làm mt đi cái nn tng t nhiên v nhân  quyn này. Nó s giúp cho h có th tránh khi nguy cơ, bt hnh thay luôn xy ra, trong vic chiu theo mt th dn gii thun thc chng v nhng quyn li này. (đon 13)

 

23.  Đường li để bo đảm mt tương lai hòa bình cho hết mi người chng nhng nơi các bn tha ước quc tế v vn đề thôi leo thang các th vũ khí nguyên t, mà còn vic dt khoát dn thân tìm cách gim bt chúng và cui cùng gii gii chúng. (đon 15)

 24. Nơi Chúa Kitô, chúng ta có th thy được lý do ti hu trong vic tr thành nhng đối th hào hùng cho phm v con người và là             nhng kiến  trúc viên can trường xây dng hòa bình. (đon 16)

Trong bài giảng cho Thánh Lễ Tân Niên 1/1/2007 trọng Kính Mẹ Thiên Chúa nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ 40, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nhấn mạnh thêm về ý tưởng nồng cốt trong sứ điệp chủ đề “Con Người –Trọng Tâm của Hòa Bình”, một hòa bình chỉ xẩy ra khi biết tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền, những yếu tố gắn liền với bản tính của con người được dựng nên theo hìn h ảnh Thiên Chúa, chứ không phải do việc con người thỏa thuận và công nhận. Ngài nói: 

o       Tôi hết sức tin tưởng rằng ‘việc tôn trọng con  người là những gì cổ võ hòa bình, và trong việc xây dựng hòa bình thì cần phải đặt nền tảng cho một nền nhân bản nguyên vẹn chân thực’ (Message for World Peace Day, 1 January 2007, n. 1).

 

Việc dấn thân này đặc biệt là trách vụ của hết mọi Kitô hữu, thành phần được kêu gọi ‘dấn thân không ngừng cho việc đi làm hòa bình và hăng say bênh vực phẩm giá của con người cùng với các quyền lợi bất khả chuyển nhượng của họ’ (cùng nguồn, 6). Chính vì họ được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Ngài (x Gen 1:27), mà hết mọi cá nhân  bất phân  biệt chủng tộc, văn hóa hay tôn giáo, là một con người được mặc cùng một phẩm vị Thiên Chúa ban. Đó là lý do họ cần phải được tôn trọng, không thể nại bất cứ lý do nào để độc đoán sử dụng họ như là một thứ đồ vật.

 

Lại càng cần phải cùng nhau hoạt động cho hòa bình khi có những thứ đe dọa hòa bình vẫn tiếp tục xẩy ra một cách bất hạnh, có những trường hợp bất công và bạo lực liên tục diễn ra ở các miền đất khác nhau trên thế giới, và có các cuộc xung đột võ trang tiếp tục xẩy ra lại thường bị đa số công luận coi nhe, cũng như có cơ nguy khủng bố đang bao phủ cảnh thanh thản của các dân nước. Như tôi đã nhắc nhở trong sứ điệp hòa bình thì đây vừa là ‘tặng ân vừa là tác vụ’ (đoạn 3): một tặng ân cần cầu xin để có và là một tác vụ cần phải được thi hành một cách can đảm không thôi……….

 

Nếu muốn chấp nhận một thỏa ước hòa bình thì cần phải căn cứ vào việc tôn trọng phẩm giá và các thứ quyền lợi của hết mọi người. Tôi muốn bày tỏ cùng những vị đại diện chư quố cđang hiện diện nơi đây niềm hy vọng là Cộng Đồng Quốc Tế sẽ tập trung lực lượng của mình để xây dựng một thế giới vì Danh Chúa, một thế giới mà hết mọi người đều biết tôn trọng nhân quyền. Để điều này có thể xẩy ra, người ta cần phải nhìn nhận rằng các quyền lợi ấy không phải chỉ được căn cứ vào những ý thỏa ước của con người mà ‘vào chính bản tính của con người cùng với phẩm giá bất khả chuyển nhượng của họ như là một con người được Thiên Chúa dựng nên’ (cùng nguồn, đoạn 13).

 

Thật thế, nếu những yếu tố cấu tạo nên phẩm vị của con người được lọt vào vòng tư duy khả hoán của con người thì thậm chí ngay cả những thứ quyền  lợi của con người được long trọng công bố đi nữa cũng sẽ đi đến chỗ suy yếu và được giải thích lung tung. ‘Bởi thế, các cơ quan quốc tế không được lạc hướng khỏi nền tảng tự nhiên này nơi các thứ quyền lợi của con người. Điều này sẽ giúp cho họ có thể tránh đi được cái nguy cơ, bất hạnh thay vẫn hằng diễn ra, chiều theo một thứ dẫn giải thuần thực chứng về các thứ quyền lợi ấy’ (cùng nguồn)”.

 

Trong Huấn Từ Truyền Tin, sau Thánh Lễ, tức vào trưa Thứ Hai 1/1/2007, chính Ngày Hòa Bình Thế Giới, vị Giáo Hoàng tác giả của Sứ Điệp Hòa Bình 2007 theo chủ đề ‘Con Người – Trọng Tâm của Hòa Bình’, một sứ điệp được ngài biên soạn với sự hợp tác của Hội Đồng Tòa Thánh Về Công Lý Và Hòa Bình, đã nhấn mạnh một lần nữa đến nền tảng của hòa bình là việc tôn trọng nhân quyền, nhưng là một nhân quyền được căn cứ vào chính phẩm giá của con người chứ không phải bất cứ một cái gì tương đối bấp bênh và có thể mang ra tranh luận, như sau: 

·        Cái trọng tâm của hòa bình này là những gì chạm tới một điểm thiết yếu, đó là giá trị của con người, thành phần là trụ cột của toàn thể lâu đài hòa bình vĩ đại. Hiện nay người ta đang nói nhiều tới các thứ nhân quyền, nhưng lại thường quên rằng các thứ nhân quyền ấy cần có một nền tảng vững chắc chứ không phải là những gì tương đối hay có thể tranh luận. Và điều này chỉ có thể là phẩm giá của con người mà thôi. Việc tôn trọng nhân phẩm này được bắt đầu bằng việc nhìn nhận và bảo vệ quyền con người được tự do sống động và tuyên xưng tín ngưỡng của mình.