“BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI CHÚA
THƯƠNG”
Sứ
Điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
cho
Ngày Hòa
Bình Thế Giới
“Bình
an dưới thế cho người Chúa thương!” |
1-
Đây là lời loan báo của các Thiên Thần để
chào mừng Chúa Giêsu Kitô giáng sinh 2000 năm trước
đây (x. Lk 2:14), cũng là lời chúng ta hân hoan nghe vọng
lại vào đêm thánh Giáng Sinh, thời điểm long
trọng khai mạc Cuộc Đại Mừng Kỷ
Niệm.
Vào lúc bình minh của một tân
thiên niên đây, chúng tôi muốn nêu lên một lần nữa
sứ điệp hy vọng phát xuất từ máng cỏ
Bêlem: sứ điệp đó là Thiên Chúa yêu thương
tất cả mọi người nam nữ trên trái
đất này và ban cho họ niềm hy vọng của
một tân kỷ nguyên, một kỷ nguyên hòa bình. Tình yêu
của Ngài, một tình yêu được hoàn toàn tỏ
hiện nơi Lời nhập thể, là nguồn gốc
của hòa bình thế giới. Nếu được con
người lãnh nhận tận đáy lòng mình, tình yêu này
sẽ hòa giải con người với Thiên Chúa cũng như
với nhau, sẽ canh tân những mối liên hệ loài
người và sẽ khơi lên ước muốn sống
một tình yêu huynh đệ có thể loại trừ khuynh
hướng bạo lực và chiến tranh.
Cuộc Đại Mừng Kỷ
Niệm liên kết bất khả phân ly với sứ
điệp yêu thương và hoà giải này, một sứ
điệp vang vọng những ước mong đích
thực nhất của nhân loại ngày nay.
2-
Nhìn đến một năm đầy những ý nghĩa
ấy, một lần nữa, Tôi xin gửi đến
mọi người lời chúc hòa bình của Tôi. Tôi xác
nhận với mọi người là hòa bình là một
điều khả dĩ. Nó cần phải được
cầu xin cùng Thiên Chúa ban cho như một ân huệ của
Ngài, song nó cũng cấn đến ơn Ngài trợ giúp
để được từ từ xây dựng lên
bằng những việc công bình và yêu thương.
Chắc chắn là có nhiều
điều phức tạp rắc rối trong những
vấn nạn khiến con đường dẫn
đến hòa bình trở thành khó khăn và không phấn
khởi cho lắm, thế nhưng hòa bình vẫn
là một nhu cầu sâu xa trong lòng của mọi con
người nam nữ. Bởi thế, con người
không được phép nhụt chí tìm kiếm hòa bình. Việc
tìm kiếm này phải được bắt nguồn
từ nhận thức là, cho dù có bị be bét bởi
tội lỗi, bởi ghen ghét hận thù và bởi bạo
lực đi nữa, con người vẫn
được Thiên Chúa kêu gọi để làm nên một
gia đình duy nhất. Dự án thần linh này cần
phải được nhận thức và thực thi
bằng việc tìm kiếm các mối liên hệ hòa hợp
giữa các cá nhân và các dân tộc với nhau, trong một
thứ văn hóa hướng đến Siêu Việt
Thể, hướng đến việc đề cao con
người cũng như tôn trọng thế giới thiên
nhiên, những vấn đề liên quan đến tất
cả mọi người.
Đó là sứ điệp Giáng
Sinh, đó là sứ điệp của Cuộc Mừng
Kỷ Niệm, đó là niềm hy vọng của Tôi khi
bắt đầu một tân thiên niên kỷ.
3-
Trong thế kỷ chúng ta đang bỏ lại sau lưng
đây, nhân loại đã sót sa với một chuỗi
bất tận khủng khiếp là chiến tranh, xung
đột, tàn sát và “thanh lọc chủng tộc”, gây nên
khổ đau khôn xiết tả: cả triệu triệu
nạn nhân, gia đình và xứ sở bị hủy
diệt, cả một biển cả tị nạn, cùng
quẫn, đói khát, bệnh hoạn, chậm tiến và
mất mát các nguồn lợi thiên nhiên phong phú. Căn nguyên
của biết bao khổ đau này chính là chủ
trương nổi vượt của con người,
với đầy những ước vọng muốn
thống trị và khai thác người khác, với các ý
hệ về quyền lực hay những ảo
tưởng chuyên chế bạo tàn, với các chủ
nghĩa quốc gia quá khích hay những mối thù ghét
thuộc bộ tộc xa xưa. Đã có những
trường hợp bạo lực dã man có tổ chức,
trường hợp bạo lực nhắm vào việc tru
diệt hay đầy đọa cả nhiều dân tộc
hay nhiều miền đất, đã phải
đương đầu với những cuộc
cưỡng chống bằng võ trang.
Thế kỷ 20 trước
hết đã trối lại cho chúng ta một lời
cảnh báo cho rằng, chiến tranh thường lại là
nguyên cớ gây ra chiến tranh, vì chúng chứa đầy
những hận thù ghen ghét, chúng tạo nên những tình
trạng bất công, cũng như chúng chà đạp lên
phẩm giá và các quyền lợi của con người.
Chiến tranh không giải quyết được các
vấn nạn của việc gây chiến, bởi thế,
ngoài những hư hại khiếp đảm do nó
tạo nên, chiến tranh còn cho thấy nó là một việc
làm hoàn toàn vô ích. Đối với nhân loại, chiến
tranh là một thảm bại. Chỉ trong hòa bình và nhờ
hòa bình mới bảo đảm được việc tôn
trọng phẩm vị của con người cùng với
các quyền lợi bất khả xâm phạm của họ (xem Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình
Thế Giới 1999, đoạn 1).
4-
Trước bối cảnh chiến tranh ở thế
kỷ 20 ấy, nhân danh hòa bình, có những người
đã lên tiếng và đã thực hiện công cuộc
bảo trì lòng tôn trọng nhân loại.
Chúng ta không thể nào không nhớ
đến biết bao nhiêu là con người nam nữ
đã góp phần vào việc xác nhận và việc long
trọng công bố các quyền lợi của con
người, cũng như những người đã giúp
vào việc đánh hạ những hình thức của
chủ nghĩa chuyên chế bạo tàn, vào việc dứt
điểm chế độ thực dân đế
quốc, vào việc phát triển nền dân chủ và vào
việc thiết lập những tổ chức quốc
tế lớn. Những người sống một
cuộc sống theo chiều hướng bất bạo
động đáng khen đã cho chúng ta một gương
sáng hùng hồn. Gương liêm khiết và tín trung của
họ, thường tới độ tử đạo,
đã cống hiến cho chúng ta những bài học sâu
đậm và sáng chói.
Trong số thành phần hoạt
động nhân danh hòa bình, chúng ta cũng không
được quên những con người nam nữ đã
dấn thân mang lại những tiến bộ cả
thể về mọi lãnh vực khoa học và kỹ
thuật, bằng việc có thể chế ngự
được các bệnh hoạn ghê gớm, cũng
như việc bồi dưỡng và kéo dài sự sống
của con người.
Tôi cũng không thể nào không
nhắc đến các Vị Tiền Nhiệm của Tôi
đã hướng dẫn Giáo Hội trong thế kỷ 20
này. Bằng giáo huấn cao đẹp và bằng những
nỗ lực không ngừng của mình, các vị đã vạch
ra cho Giáo Hội thấy chiều hướng trong việc
cổ võ một nền văn hóa hòa bình. Tiêu biểu cho
nỗ lực đa diện này là trực giác tiên liệu
đúng lúc của Đức Phaolô VI trong việc thành
lập Ngày Hòa Bình Thế Giới từ 8/12/1967. Trải qua
các năm từ đó, Ngày Hòa Bình Thế Giới lại
càng trở nên vững chắc hơn, trở nên như là
một cảm nghiệm tốt đẹp trong tư
tưởng cũng như trong cái nhìn chung về tương
lai nhân loại.
5-
“Bình
an dưới thế cho người Chúa thương!”
Lời Phúc Âm chào mừng này gợi lên một vấn
nạn thấm thía, đó là thế kỷ mới
phải chăng sẽ là môït thế kỷ bình an và là
một thế kỷ tái cảm thức được tình
yêu huynh đệ giữa cá nhân cũng như giữa các
dân tộc với nhau? Dĩ nhiên là chúng ta không thể nào
thấy trước được tương lai. Thế
nhưng, chúng ta có thể bắt đầu bằng một
nguyên tắc chắc chắn là: hòa bình sẽ đến
chỉ khi nào toàn khối nhân loại tái cảm nhận được
ơn gọi sâu xa của mình là một gia đình duy
nhất, môït gia đình chấp nhận phẩm vị và
quyền lợi của con người, bất kể vai
trò, chủng tộc hay tôn giáo của họ, trước
cả và trên cả bất cứ những gì khác nhau hay khác
biệt.
Việc nhận thức này có
thể hiến cho thế giới như đang thấy
hiện nay, theo chiều hướng của tiến trình
toàn cầu hóa, môït linh hồn, môït ý nghĩa và một
hướng đi. Tiến trình toàn cầu hóa, với tất
cả những nguy hiểm của nó, cũng là những
cơ hội ngoại lệ và hứa hẹn nữa, chính
là ở chỗ nó là dịp cho nhân loại trở thành
một gia đình duy nhất, được xây dựng
trên các giá trị công chính, bình đẳng và đoàn kết.
6-
Để thực hiêïn được điều này, con
người cần phải hoàn toàn thay đổi quan
niệm, ở chỗ chủ trương không chỉ
nhắm đến tình trạng an sinh cho bất cứ
một côïng đồng chính trị, chủng tộc hay
văn hóa nào, mà là nhắm đến thiện ích của
toàn khối nhân loại. Việc theo đuổi công
ích của một cộng đồng chính trị, được
thể hiện ở việc nhận thức và tôn
trọng các quyền lợi được Bản Tuyên Ngôn
Chung về Nhân Quyền năm 1948 thừa nhận, không
thể tương khắc với công ích chung của toàn
thể nhân loại. Bởi vậy, cần phải loại
trừ những tư tưởng và việc làm, thường
được mang dấu vết của các lợi lộc
về quyền lực chính trị, đặt quốc gia
và Chính quyền của mình lên trên hết mọi giá trị
khác. Theo chiều hướng mới này thì các phân biệt
và khác biệt về chính trị, văn hóa và cơ cấu,
là những gì làm cho nhân loại có lớp lang và tổ
chức, đều hợp lý, bao lâu chúng tương
xứng với tư cách là phần tử trong một gia đình
duy nhất, cũng như tương xứng với các đòi
hỏi về đạo lý và pháp lý bởi đó mà ra.
7-
Nguyên tắc ấy có một tác dụng hết sức quan
trọng, ở chỗ là xúc phạm đến nhân
quyền cũng chính là xúc phạm đến
lương tâm của con người nữa, một
việc xúc phạm đến chính nhân loại. Thế
nên, nhiệm vụ bảo vệ những quyền này
vượt ra ngoài biên giới về địa dư
cũng như về chính trị là những lãnh vực chúng
bị vi phạm. Những tội ác phạm đến
loài người không thể cho là việc nội bộ
của một quốc gia. Ở đây, con người đã
tiến một bước quan trọng trong việc
thiết lập Tòa Xử Tội Ác Quốc Tế để
cứu xét những tội ác vi phạm ở bất cứ
nơi chốn hay hoàn cảnh nào. Chúng ta phải cảm
tạ Thiên Chúa, vì trong lương tâm của con
người ta cũng như của các dân tộc đang
phát triển một xác tín là không có giới hạn nơi
các quyền lợi của con người, vì chúng là
những gì phổ quát và bất phân chia.
8-
Trong thời của chúng ta đây, con số chiến tranh
giữa các Quốc gia đã giảm bớt. Sự kiện
này, dù đáng mừng, nhưng nó lại xuất hiện
theo một chiều hướng khác, nếu chúng ta xét đến
những cuộc xung đột nhau bằng võ lực
xẩy ra nơi một Quốc gia. Tiếc thay,
những cuộc xung đột nhau bằng võ lực
ấy thực tế lại xẩy ra không ít, ở mọi
lục địa và thường rất ư là tàn
bạo. Đa số bởi vì chúng bắt nguồn từ
những động lực lịch sử dài dòng về đặc
tính của chủng tộc, chi tộc hay thậm chí tôn
giáo, ngoài ra, trong lúc này đây, còn phải kể đến
cả các nguyên do khác về ý hệ, xã hội và kinh tế
nữa.
Những xung đột trong
nội bộ, thường được thực
hiện bằng việc sử dụng nhiều thứ
vũ khí cỡ nhỏ được gọi là vũ khí
‘nhẹ’ – những vũ khí thực ra cũng gây tử
thương – thường gây ra những hậu quả
nặng nề lan cả ra ngoài biên giới lãnh thổ
quốc gia, trở thành một vấn nạn liên quan đến
các lợi lộc và trách nhiệm của thành phần
ngoại cuộc nữa. Người ta không thể
chối cãi được rằng, tính chất hết
sức phức tạp của những cuộc xung đột
này làm cho con người khó lòng hiểu biết và thẩm định
được những căn nguyên và những động
lực xẩy ra, song có một sự kiện bất
khả tranh cãi, đó là sự kiện chính thành phần dân
chúng phải chịu khổ thê thảm nhất, vì trên
thực tế, người ta đã không tôn trọng cả
luật lệ thông thường cũng như luật
lệ tham chiến. Dân chúng chẳng những không được
bảo vệ mà thường còn trở thành mục tiêu
chính của những lực lượng chống đối
nhau nữa, khi chính họ không trực tiếp dính dáng đến
việc sử dụng võ khí là kết quả của
một cơn sốt cao độ, một cơn sốt
biến họ vừa trở thành nạn nhân vừa
trở thành tay sát thủ các người dân khác.
Tất cả những thảm
kịch chết chóc quá nhiều và rùng rợn đã xẩy
ra cho các trẻ em vô tội, cho phụ nữ và cho
người lớn không võ bị, là những thành phần
trở nên các mục tiêu nhắm đến của
những cuộc xung đột đẫm máu xẩy ra
ở thời của chúng ta; thật sự là đã xẩy
ra quá nhiều, khiến chúng ta không khỏi cảm thấy
rằng đã đến lúc chúng ta cần phải thay đổi
chiều hướng, một cách quyết liệt và
với một cảm thức trách nhiệm sâu xa.
9-
Trong mọi hoàn cảnh, đối diện với
những trường hợp thảm khốc và phức
tạp như thế, những trường hợp
phản ngược lại với tất cả những
“lý do” tuyên chiến, con người cần phải xác
nhận giá trị tiên thượng của vấn đề
luật nhân đạo và nhiệm vụ bởi đó mà ra
trong việc bảo đảm quyền được
trợ giúp nhân đạo cho các thường dân và
người tị nạn khổ đau.
Việc công nhận những
quyền lợi này cùng với việc áp dụng hiệu
nghiệm các quyền lợi ấy không được
căn cứ vào những lợi lộc của bất
cứ phe nào đang xung đột nhau. Ngược
lại, phải có nhiệm vụ khám phá ra tất cả
mọi phương tiện, theo qui chế hay không, có
thể thỏa đáng các mục tiêu nhân đạo tốt
đẹp nhất. Tính cách hợp lý về luân lý và chính
trị của những quyền lợi này thực sự được
căn cứ vào nguyên tắc là thiện ích của con
người có trước hết tất cả mọi
sự và ở trên tất cả mọi cơ cấu
tổ chức của con người.
10- Đến
đây, Tôi muốn nhắc lại niềm xác tín của Tôi
là, khi gặp phải những cuộc xung đột võ
trang tân tiến ngày nay, thì việc thương lượng
giữa các phe có một tính cách hết sức quan trọng,
qua những nỗ lực xứng hợp ở việc
trung gian và hòa giải được thực hiện
bởi những tổ chức quốc tế và theo
miền. Việc thương lượng cần phải
có để tránh đi những cuộc xung đột
như vậy, cũng như để chấm dứt
những cuộc xung đột ấy nếu đã bùng
nổ, ở chỗ phục hồi hòa bình bằng một
giải quyết công bằng liên quan đến vấn đề
quyền lợi và lợi lộc.
Niềm xác tín này chẳng những
dính dáng đến vai trò tích cực của các cơ quan
trung gian và hòa giải mà còn phải được bao
gồm cả những tổ chức nhân đạo và
những cơ quan tôn giáo không thuộc cơ cấu tổ
chức chính quyền, những tổ chức và cơ quan
cổ võ hòa bình, một cách thận trọng và không có
những lý do nào thầm kín, giữa những phe đối
nghịch nhau, và giúp vào việc thắng vượt
những tranh giành lâu đời, hoà giải thù hằn và
mở đường hướng đến cùng một
tương lai mới. Trong khi tôn kính việc dấn thân cho
hòa bình cao quí của họ, bằng một lòng cảm kích
sâu xa, Tôi xin tưởng nhớ đến tất cả
những ai đã hy sinh mạng sống mình cho người
khác được sống: Tôi dâng lên Thiên Chúa lời nguyện
cầu cho họ, và Tôi mời gọi những tín đồ
khác cũng làm như vậy.
11- Khi
thành phần dân chúng gặp phải những cuộc
tấn công của kẻ hung hăng bất chính, và khi
những nỗ lực về chính trị cũng như
việc hộ vệ bất bạo động cho thấy
không đi đến đâu, thì dĩ nhiên là được
phép, thậm chí còn bị bắt buộc, phải có
những biện pháp cụ thể để giải
giới kẻ hung tàn bạo ngược. Tuy nhiên, những
biện pháp này phải được giới hạn theo
thời và phải nhắm đến chính đích điểm
của chúng. Phải sử dụng chúng bằng việc
hết sức tôn trọng luật lệ quốc tế được
thẩm quyền hợp pháp của quốc tế bảo đảm,
và không bao giờ chỉ được nhắm đến
thành quả can thiệp bằng võ lực mà thôi.
Bởi
thế, muốn sử dụng những biện pháp can
thiệp ấy một cách hoàn toàn nhất và tốt đẹp
nhất, cần phải dựa vào tất cả những
qui định của Hiến Chương Liên Hiệp
Quốc, đã xác định rõ hơn nữa về
những khí cụ tác hiệu và những thể thức can
thiệp trong phạm vi của luật lệ quốc
tế. Về vấn đề này, chính Tổ Chức Liên
Hiệp Quốc phải cống hiến cho tất cả
mọi Quốc Gia Hội Viên một cơ hội như
nhau trong việc tham dự vào tiến trình quyết định,
bằng cách loại bỏ đi những đặc ân và
những kỳ thị làm suy giảm vai trò và uy tín của
mình.
12- Điều
này mở ra một lãnh vực mới cho việc suy tư
và bàn luận đối với cả phương diện
chính trị lẫn pháp lý, một lãnh vực tất cả
chúng ta đều hy vọng là sẽ được vun
xới một cách thiết tha và khôn ngoan. Một điều
không thể chần chờ được đó là việc
cải tổ lại luật lệ quốc tế cũng
như các cơ cấu quốc tế, một cuộc
cải tổ có khởi điểm và nguyên tắc thực
hiện nồng cốt đó là đặt căn bản
thiện ích của nhân loại cũng như của con
người lên trên mọi mối quan tâm khác. Một
cuộc cải tổ như vậy lại càng khẩn
trương hơn nữa nếu chúng ta để ý đến
cái ngược đời của tình trạng chiến
tranh hiện đại, như các cuộc xung đột
gần đây đã cho thấy, quân đội thì được
tối đa an toàn, trong khi đó thành phần dân sự
lại sống trong những tình trạng nguy hiểm
khiếp đảm. Không một cuộc xung đột
nào được phép tỏ ra coi thường quyền được
sống an toàn của thành phần dân sự.
Ngoài những quan tâm về pháp lý và
cơ cấu ra, tất cả những con người nam
nữ thiện chí cũng một nhiệm vụ cốt
yếu, đó là nhiệm vụ theo cá nhân mình dấn thân
hoạt động cho hòa bình: đó là việc dấn thân để
hướng dẫn con người sống hòa bình, bằng
việc tạo nên những khung cảnh hòa bình cũng
như những phương pháp bất bạo động,
và bằng việc hết sức cố gắng lôi kéo các
phe xung đột nhau ngồi lại để cùng
thương lượng.
13- “Bình
an dưới thế cho người Chúa thương!”
Từ vấn nạn chiến tranh, chúng ta tự nhiên
hướng tới một vấn đề có liên hệ
chặt chẽ khác nữa, đó là vấn nạn đoàn
kết. Công cuộc hòa bình cao quí và cần thiết,
một công cuôïc bắt nguồn sâu xa từ việc loài
người được kêu gọi trở nên một gia
đình duy nhất và họ cũng nhận thực như
vậy, được đặt nền tảng trên nguyên
tắc là làm cho các nguồn lợi của trái đất đạt
đến mục tiêu chung. Nguyên tắc này không làm
mất đi tính cách hợp lý của quyền tư
hữu; trái lại, nó nới rộng tầm hiểu
biết và việc sử dụng tư sản để
bao gồm cả nhiệm vụ xã hội của nó,
một nhiệm vụ không thể châm chước đối
với thuận lợi của công ích và nhất là đối
với thiện ích của các phần tử hèn kém nhất
trong xã hội (x. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông Điệp
Bách Niên, các đoạn 30-43). Tiếc thay, nguyên tắc
căn bản này phần nhiều đã bị coi
thường, như vẫn được thấy nơi
khoảng cách biệt liên tục và lớn rộng trên
thế giới, giữa một miền Bắc với đầy
những tiện nghi và nguồn lợi cùng với nhiều
người dân lớn tuổi, và một miền Nam đa
số là người trẻ hiện sống, song không tìm thấy
được những phát triển mong ước về
xã hội, văn hóa và kinh tế.
Không ai được lầm
lẫn nghĩ rằng nền hòa bình bền vững thì
tương đương với tình trạng không xẩy
ra chiến tranh như vẫn được mong
ước. Không có hòa bình thực sự mà lại thiếu
công bằng, chân lý, chính trực và đoàn kết. Mọi
dự tính sẽ bị thảm bại nếu muốn phân
rẽ hai quyền lợi bất khả phân ly và liên
thuộc nhau này, đó là quyền sống hòa bình và quyền
phát triển trọn vẹn theo tình đoàn kết. “Bất công,
những chênh lệch quá mức về xã hội và kinh tế,
đố kỵ, không tin tưởng nhau và kiêu hãnh, bùng lên
nơi con người và nơi các dân nước, đã là
những gì liên tục đe dọa hòa bình và là nguyên cớ
gây ra chiến tranh. Mọi sự được thực
hiện để thắng vượt những lệch
lạc này đều là việc góp phần vào công cuộc xây
đắp hòa bình và ngăn ngừa chiến tranh” (Sách Giáo
Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2317).
14- Ở
vào thời điểm mở màn cho một tân thế
kỷ này, có một vấn đề làm nhức nhối
lương tâm nhân loại cũng như Kitô hữu chúng ta,
đó là tình trạng nghèo khổ của vô số
triệu người nam nữ. Tình trạng này càng
trở nên thê thảm hơn nữa khi chúng ta nhận
thấy rằng, các vấn nạn kinh tế chính trong
thời điểm của chúng ta đây không phải la do
bởi thiếu nguồn lợi, cho bằng bởi
những cấu trúc về kinh tế, xã hội và văn hóa
hiện nay được trang bị yếu ớt trong
việc giải quyết những đòi hỏi của
một cuộc phát triển chân chính.
Bởi thế, thành phần nghèo,
cả ở những xứ sở đang phát triển
cũng như ở những xứ sở trù phú và giầu
có, có lý “đòi quyền được tham hưởng các
của cải vật chất cũng như được
sử dụng khả năng của họ để làm
việc, nhờ đó kiến tạo nên một thế
giới công bình và trù phú hơn cho tất cả mọi
người. Tình trạng tạo nên cho người nghèo
tiến bộ đó là một cơ hội rất tốt
cho việc phát triển về luân lý, văn hóa và ngay cả
về kinh tế của tất cả nhân loại” (Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông Điệp Bách Niên, đoạn
28). Chúng ta đừng nhìn vào người nghèo như là
một cái nạn, mà như là một con người có
thể trở thành những tay thợ nồng cốt trong
việc xây dựng một tương lai nhân loại
mới và nhân bản hơn cho hết mọi người.
15- Theo chiều
hướng này, chúng ta cũng cần phải cứu xét đến
mối quan tâm càng ngày càng lớn lên nơi nhiều kinh
tế gia cũng như nơi nhiều chuyên gia về tài
chính, thành phần mà, trong khi để ý đến các
vấn đề mới liên quan tới tình trạng nghèo
khổ, hòa bình, môi sinh cũng như tới tương lai
của thế hệ trẻ, đã suy nghĩ về vai trò
của thị trường, về ảnh hưởng
thấm đậm những lợi lộc tiền tệ
và tài chính, về mức cách biệt rộng lớn
giữa kinh tế và xã hội, cũng như về
những vấn đề khác liên quan đến sinh
hoạt kinh tế.
Có lẽ đã đến lúc con
người cần suy nghĩ một cách mới mẻ
hơn và sâu hơn về bản chất của kinh tế
cũng như về những mục đích của nó. Cái được
coi là khẩn trương đó là việc tái xét lại quan
niệm về chính “sự thịnh vượng”, để
cho nó khỏi bị gắn liền với quan niệm duy
lợi hẹp hòi là quan niệm dành một chỗ rất
nhỏ cho các giá trị như tình đoàn kết và chủ
nghĩa vị tha.
16- Đến
đây Tôi xin mời gọi các kinh tế gia và các chuyên gia
về tài chính, cũng như các vị lãnh đạo chính
trị, hãy nhận ra tầm mức khẩn trương
của việc làm sao để có thể bảo đảm
được những công việc về kinh tế và
những qui định liên quan đến chính trị
phải nhắm đến thiện ích của mọi
người cũng như của con người toàn
diện. Đây không phải chỉ là một đòi hỏi
về đạo lý mà còn cần cho cả một nền
kinh tế lành mạnh nữa. Kinh nghiệm đã chứng
thực là việc thành công về kinh tế càng ngày càng
lệ thuộc vào việc cảm nhận thức được
con người ta cùng với các khả năng của
họ, lệ thuộc vào việc tham gia hoàn toàn hơn
của con người, lệ thuộc vào việc con
người tăng tiến cũng như cải tiến
kiến thức hiểu biết và thông đạt, lệ
thuộc vào tình đoàn kết mạnh mẽ hơn.
Đó là những giá trị,
chẳng những không lạ đời đối với
kinh tế và thương mại, còn là những giá trị
làm cho chúng trở thành một khoa học và một hoạt động
hoàn toàn “nhân bản”. Một thứ kinh tế không đếm
xỉa gì đến chiều kích đạo lý và không tìm
cách phục vụ lợi ích của con người –
của mọi người cũng như của con
người toàn diện – thì không thể nào thực sự
cho mình là “kinh tế” được, nếu hiểu theo
nghĩa của việc sử dụng nguồn lợi
vật chất hợp lý và chân chính.
17- Chính
sự kiện nhân loại được kêu gọi để
làm nên một gia đình duy nhất vẫn còn bị tách đôi
một cách thê thảm bởi tình trạng nghèo khổ –
ở vào lúc mở màn cho thế kỷ 21 này, còn hơn
một tỉ bốn trăm triệu người đang
sống trong bần cùng – tức cho thấy cần phải
khẩn trương xét lại những mẫu thức
tác động việc hình thành các qui định về phát
triển.
Đối với vấn đề
này, những đòi hỏi hợp lý về hiệu
năng của kinh tế cần phải được cân
bằng hơn nữa với những đòi hỏi về
việc tham gia chính trị cũng như về sự công
bằng xã hội, mà không dẵm lại những
bước lỗi lầm của ý hệ đã xẩy ra
trong thế kỷ 20. Về phương diện áp
dụng thực hành, điều này có nghĩa là làm cho
việc đoàn kết trở thành một phần hòa
hợp trong guồng máy liên thuộc về kinh tế, chính
trị và xã hội, một liên thuộc được
tiến trình toàn cầu hóa đang có khuynh hướng
kết hợp lại với nhau.
Những tiến trình này kêu gọi
việc suy nghĩ lại vấn đề hợp tác
quốc tế liên quan đến nền văn hóa mới
về tình đoàn kết. Khi nhìn nó như một mầm
mống hòa bình thì việc hợp tác không thể nào bị
giảm xuống mức độ trợ giúp hay nâng đỡ,
nhất là theo chiều hướng lấy lại lợi
lộc nhắm vào các nguồn lợi sẵn có. Trái lại,
việc hợp tác này phải cho thấy được
một cuộc dấn thân cụ thể và rõ ràng đối
với tình đoàn kết, yếu tố làm cho người
nghèo trở thành tác nhân tự phát triển lấy, và
khiến cho tối đa dân chúng, trong những hoàn cảnh
kinh tế và chính trị của họ, có thể thể hiện
tính cách sáng tạo là đặc tính của con người,
cũng là đặc tính chi phối sự phong phú của
quốc gia (xem Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Diễn
Từ ngỏ với Hội Nghị Chung của Tổ
Chức Liên Hiệp Quốc ngày 5/10/1995, đoạn 13:
Insegnamenti XVIII, 2/1995).
Nhất là cần phải tìm
kiếm những giải quyết dứt khoát cho cái nạn
nợ nần quốc tế kỳ cựu của những
quốc gia nghèo, đồng thời cũng làm cho các
nguồn tài chính thuận lợi hơn trong việc cần
dùng để giải quyết vấn đề đói
khổ, thiếu dinh dưỡng, bệnh hoạn, mù
chữ và hủy hoại môi sinh.
18- Hôm
nay đây, hơn là trong quá khứ, càng cần phải nuôi
dưỡng ý thức về những giá trị luân lý
phổ quát để đương đầu với
những cái nạn của ngày hôm nay, những cái nạn đang
mặc lấy chiều kích mỗi ngày một hoàn vũ
hơn. Việc cổ võ hòa bình và nhân quyền, việc
giải quyết những xung khắc bằng võ trang cả
trong Quốc gia lẫn ngoài bờ cõi, việc bênh vực
các thành phần dân thiểu số và di dân, việc canh
giữ môi sinh, việc chiến đấu với các
bệnh hoạn rùng rợn, việc chống lại
những tay buôn lậu thuốc phiện và vũ khí,
cũng như việc chống lại tình trạng băng
hoại về chính trị và kinh tế: đều là
những vấn đề mà hôm nay đây không một
quốc gia nào lại đứng ra đối đầu
một cách đơn phương cả. Chúng liên quan đến
toàn thể cộng đồng nhân loại, và vì thế
chúng phải được đương đầu và
giải quyết bằng những nỗ lực chung.
Phải tìm cách bàn đến
những cái nạn được tương lai của
nhân loại đặt ra, bằng một ngôn từ chung có
thể hiểu được. Căn bản của
một cuộc đối thoại như vậy đó là
luật luân lý phổ quát được ghi khắc nơi
cõi lòng con người. Theo bản “văn phạm” này
của tâm linh, cộng đồng con người có
thể đương đầu với cái nạn chung
sống và có thể tiến đến tương lai,
bằng cả một tấm lòng tôn trọng dự án
của Thiên Chúa
(cùng nguồn vừa trích, đoạn 3).
Việc gặp gỡ giữa đức
tin và lý trí, giữa tôn giáo và luân lý, có thể là một kích
thích quyết liệt cho việc đối thoại và
hợp tác giữa các dân tộc, các văn hóa và các tôn giáo.
19- “Bình
an dưới thế cho người Chúa thương!”
Hướng đến Cuộc Đại Mừng Kỷ
Niệm, Kitô hữu khắp thế giới tham dự vào
việc long trọng tưởng niệm mầu nhiệm
Nhập Thể. Lắng nghe lại lời loan báo của
các Thiên Thần ở bầu trời Bêlem (x. Lk 2:14), họ
tưởng niệm mầu nhiệm Nhập Thể
với nhận thức rằng Chúa Giêsu “là hòa bình của
chúng ta” (Eph 2:14), là tặng ân hòa bình cho tất cả
mọi dân nước. Lời đầu tiên của
Người ngỏ cùng các môn đệ sau khi Phục Sinh
là “Bình an cho các con” (Jn 20:19, 21, 26). Chúa Kitô đến để
hiệp nhất những gì bị phân rẽ, để
hủy diệt tội lỗi và hận thù, và để làm
cho con người tái nhận thức được ơn
gọi nên một và tình yêu huynh đệ. Thế nên,
Người là “nguồn mạch và là khuôn mẫu cho một
nhân loại được đổi mới, thấm
nhiễm tình yêu huynh đệ, chân thành và một tinh
thần an bình mà mọi người khát vọng” (Công Đồng
Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động
Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 8).
20- Trong
Năm Mừng Kỷ Niệm này, Giáo Hội sốt
sắng nhớ đến Chúa của mình và muốn xác
nhận ơn gọi cùng sứ mệnh của mình trong Chúa
Kitô như là một “bí tích” hay như là một dấu
hiệu và khí cụ hòa bình trên thế giới và cho thế
giới. Đối với Giáo Hội, thực hiện
sứ mệnh truyền bá phúc âm hóa của mình tức là
hoạt động cho hòa bình. “Bởi thế, Giáo
Hội, đàn chiên duy nhất của Thiên Chúa, như
một mốc điểm được đặt trên
cao cho các nước nhìn thấy, phục vụ Phúc Âm hòa
bình cho tất cả loài người, khi Giáo Hội lữ
hành tiến bước trong niềm hy vọng hướng
về đích điểm của mình là quê cha trên trời”
(Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh Đại
Kết Unitatis Redinte Gratio, đoạn 2).
Đối với tín hữu Công giáo,
việc dấn thân xây đắp hòa bình và công lý không
phải là một việc thứ yếu mà là một
việc chính yếu. Phải đảm nhận việc này
trong tinh thần cởi mở đối với anh chị
em thuộc các Giáo Hội và các cộng đồng Giáo
Hội khác, đối với các tín đồ của
những tôn giáo khác, và đối với tất cả
mọi con người nam nữ thiện tâm có cùng một
quan tâm về hòa bình và tình yêu thương huynh đệ
như họ.
21- Mặc
dầu gặp những trở ngại trầm trọng,
cũng có dấu hiệu cho thấy rằng những sáng
kiến hoạt động cho hòa bình mỗi ngày tiếp
tục phát hiện, được nhiều người
nhiệt tình hợp tác. Hòa bình là một tòa nhà được
liên lỉ xây cất. Việc xây dựng hòa bình này bao
gồm những người sau đây:
Cha
mẹ
là những vị sống gương mẫu và là chứng
nhân của hòa bình nơi gia đình mình, và là những vị
giáo dục con cái mình sống cho hòa bình;
Nhà
giáo
là những người có thể truyền đạt
những giá trị đích thực nơi các lãnh vực
hiểu biết và nơi di sản của nhân loại
về lịch sử và văn hóa;
Những
con người nam nữ lao động, những con
người nhất quyết kéo dài cuộc chiến đấu
trong lứa tuổi của mình cho giá trị của
việc lao động ở vào những hoàn cảnh
hiện nay, những hoàn cảnh đang lên tiếng kêu gào
công lý và tình đoàn kết trên lãnh vực quốc
tế;
Những
nhà lãnh đạo chính trị, những vị đặt
mối quyết tâm cổ võ hòa bình và công lý vào ngay trọng
tâm hoạt động chính trị của mình cũng
như hoạt động chính trị của xứ sở
mình;
Những
người thuộc các tổ chức quốc tế, thành phần
thường thiếu thốn phương tiện,
hoạt động ở hàng tiền đạo, nơi mà
vì đóng vai trò là “người kiến tạo hòa bình”, mà
sự an toàn cá nhân của họ có thể gặp nguy
hiểm;
Những
phần tử thuộc những tổ chức ngoài chính
quyền,
thành phần ở các phần thế giới khác nhau và trong
những hoàn cảnh khác nhau nhất, đã dấn thân vào
việc ngăn ngừa và giải quyết những xung
khắc bằng việc tìm tòi và hoạt động;
Những
tín hữu,
thành phần thâm tín rằng đức tin chân chính không bao
giờ lại là nguồn phát sinh ra chiến tranh hay bạo
lực, truyền bá niềm xác tín về hòa bình và yêu
thương, bằng việc đối thoại đại
kết và liên tôn.
22- Quí
bạn trẻ
thân mến, Tôi đang đặc biệt nghĩ đến
quí bạn, những người cảm nghiệm được
cách riêng phúc lành của sự sống và việc không được
làm phung phí nó đi. Ở học đường và đại
học đường, ở chỗ làm việc, ở
nơi giải trí và thể thao, ở nơi tất cả
những gì quí bạn làm, chớ gì tư tưởng này
luôn soi dẫn cho quí bạn, đó là bình an ở trong lòng
quí bạn và ở chung quanh quí bạn, bình an luôn luôn mãi mãi,
bình an với mọi người, bình an cho mọi
người.
Với quí bạn bất hạnh
gặp phải chiến tranh thảm khốc và đang ôm
ấp những cảm giác hận thù cùng phẫn uất,
Tôi xin quí bạn là: quí bạn hãy cố gắng hết
sức để tái nhận thức được con đường
của hòa giải và thứ tha. Nó là một con đường
khó đi, nhưng lại là một con đường duy
nhất giúp cho quí bạn nhìn về tương lai với
một niềm hy vọng đối với chính mình,
với con cái của mình, với xứ sở của mình
cũng như với toàn thể nhân loại.
Quí bạn thân mến, Tôi sẽ có
dịp trở lại đề tài này với quí bạn lúc
chúng ta gặp nhau ở Rôma vào tháng Tám tới đây để
cử hành Cuộc Mừng Kỷ Niệm trong Ngày Giới
Trẻ Thế Giới.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, trong
bài diễn từ chung cuối cùng của ngài, đã lại
nói với “những người thiện tâm”, khi xin họ
hãy dấn thân mình cho một chương trình hòa bình dựa
trên “Phúc Âm của đức tuân phục Thiên Chúa, Phúc Âm
của lòng xót thương và tha thứ”. Ngài còn thêm là: “chắc
chắn ngọn đuốc hòa bình sẽ cháy sáng, làm bùng lên
niềm vui và tỏa ra ánh sáng cùng với ân sủng nơi
tâm hồn con người trên khắp thế giới, giúp
cho họ nhận thức được dung nhan của anh
chị em mình, dung nhan của bạn hữu mình vượt
ra ngoài tất cả mọi lằn ranh giới”
(Diễn từ dịp tặng thưởng giải Balzan
Prize ngày 10/5/1963: AAS 55 năm 1963, 455). Chớ gì quí bạn,
giới trẻ của Năm 2000, cũng thấy nơi
người khác, và giúp cả cho người khác thấy,
dung nhan của anh chị em mình, dung nhan của bạn
hữu mình!
Trong Năm Mừng Kỷ Niệm
này, năm Giáo Hội dốc lòng cầu nguyện cho hòa bình
bằng những việc chuyển cầu trọng thể,
chúng ta hãy lấy lòng sùng mộ của con cái mà hướng
về Người Mẹ của Chúa Giêsu. Trong khi kêu
cầu Người là Nữ Vương Hòa Bình, chúng ta hãy
xin Người ban cho chúng ta dồi dào tặng ân của
lòng nhân lành từ mẫu của Người, và giúp cho nhân
loại trở thành một gia đình trong tình đoàn
kết và trong hòa bình.
Tại
Vatican ngày 8/12/1999
Gioan
Phaolô II