Bài 42 (Thứ Tư ngày 2-12-1998)
Chúng ta đang đợi chờ trời mới và đất mới
T
hánh Linh là nguồn “hy vọng không làm thất vọng” (Rm.5:5). Theo ý nghĩa đó, sau khi xét đến một số “dấu hy vọng” hiện lên trong thời của chúng ta đây, hôm nay chúng ta sẽ suy tư về ý nghĩa đức cậy trông của Kitô giáo trong mùa đợi trông và sửa soạn cho nước Chúa trị đến nơi Chúa Kitô vào lúc tận cùng thời gian. Về vấn đề này, như Tôi đã nhấn mạnh đến trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, chúng ta phải nhớ rằng “thái độ thiết yếu của đức cậy trông là ở chỗ, một đàng thì khiến cho Kitô hữu gắn chặt lấy đích nhắm tối hậu là yếu tố mang lại ý nghĩa và gía trị cho đời sống, đàng khác lại cho họ thấy được những lý do sâu xa vững chắc đối với cuộc dấn thân hằng ngày của họ trong việc biến đổi thực tại trần thế cho hợp với ý định của Thiên Chúa” (đoạn 46).
2- Niềm hy vọng vào việc nước Chúa cuối cùng sẽ trị đến và vào cuộc dấn thân để biến đổi thế giới theo ánh sáng Phúc Aâm thực sự đều có cùng một nguồn mạch nơi tặng ân cánh chung của Thánh Linh. Là “đoan hứa cho phần nghiệp của chúng ta, là hoa trái đầu mùa cho ơn cứu chuộc hoàn toàn” (Eph.1:14), Ngài khơi dậy trong chúng ta một niềm khát mong được sống trọn vẹn và vĩnh viễn với Chúa Kitô, đồng thời Ngài cũng phú cho chúng ta một sức mạnh để chúng ta có thể làm cho men nước Chúa lan ra khắp thế gian.
Đó là một cách ngưỡng vọng về việc nước Chúa trị đến nơi con người nhờ cuộc phục sinh của Chúa Kitô. Nơi Người là Lời Nhập Thể, Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta, thiên đã giáng trần, và trần được thăng thiên, nơi nhân tính vinh hiển của Người. Chúa Giêsu phục sinh đang hiện diện giữa dân của Người và ngay trong lòng lịch sử nhân loại. Người làm cho những ai mở lòng ra cho Người trong tin tưởng và mến yêu được tràn đầy bởi Thánh Linh; thật sự là Người dần dần biến đổi họ, làm cho họ được thông phần vào sự sống hiển vinh của Người. Bấy giờ họ sẽ sống động và tác hành trong thế giới mà mắt luôn luôn nhắm tới cùng đích, như Thánh Phaolô đã thôi thúc: “Vậy nếu anh em đã được cùng với Chúa Kitô sống lại thì anh em hãy tìm kiếm những sự ở trên, nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Col.3:1-4). Thế nên, các tín hữu được kêu gọi để làm chứng nhân cho việc Phục Sinh của Chúa Kitô trong thế gian, đồng thời, cũng để trở thành những tay dựng xây một xã hội mới mẻ.
3- Dấu bí tích tuyệt nhất trong các thực tại tối hậu, đã tiềm tàng và hiện diện trong Giáo Hội, đó là Thánh Thể. Nơi Bí Tích Thánh Thể, Thần Linh, qua lời khẩn cầu nguyện xin thánh hiến (epiclesis), “biến thể” (transubstantiates) thực tại hữu hình của bánh và rượu thành một thực tại mới là Mình Máu Chúa Kitô. Trong Bí Tích Thánh Thể, Chúa Kitô phục sinh thực sự hiện diện, và nơi Người, nhân loại cùng với hoàn vũ nhận được ấn tín của một tạo vật mới. Trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta nếm hưởng được những thực tại tối hậu, và thế giới bắt đầu trở nên những gì nó sẽ là vào lần Chúa đến cuối cùng.
Thánh Thể, tột đỉnh của đời sống Kitô hữu, chẳng những khuôn đúc đời sống cá nhân của Kitô hữu, mà còn cả đời sống cộng đồng giáo hội, và bằng một cách nào đó, khuôn đúc toàn thể xã hội loài người nữa. Thật vậy, Dân Chúa nhận lãnh từ Thánh Thể năng lực thần linh khiến cho họ sống thắm thiết mối hiệp thông yêu thương được biểu hiện qua và thành đạt bởi việc họ tham dự vào một bàn tiệc duy nhất. Năng lực thần linh ấy cũng làm phát sinh ước vọng chia sẻ những vật dụng thể chất trong tình huynh đệ, sử dụng chúng cho việc xây dựng nước Chúa (Acts 2:42-45). Như thế, Giáo Hội trở nên một “tấm bánh bẻ ra” cho thế giới: cho thành phần Giáo Hội sống chung, nhất là cho thành phần thiếu thốn nhất. Việc cử hành Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của các việc làm bác ái và tương trợ khác nhau, của hoạt động truyền giáo và của những hình thức chứng tá Kitô giáo khác, khiến thế giới hiểu được ơn gọi của Giáo Hội là do ý định của Thiên Chúa.
Ngoài ra, nhờ việc làm sống động lời kêu gọi đừng sống theo ý hệ thế gian này, mà là sống như Chúa Kitô mong muốn “cho tới khi Người đến”, Thánh Thể dạy cho Dân Chúa một đường lối thanh tẩy và làm hoàn hảo các hoạt động nhân bản của mình, bằng cách dìm mình vào mầu nhiệm vượt qua của Tử Giá và Phục Sinh.
4- Đó là cách chúng ta hiểu được ý nghĩa thực sự của đức cậy trông Kitô giáo. Trong việc chúng ta hướng mắt về “trời mới và đất mới” (x.2Pt.3:13), “chẳng những không làm cho chúng ta suy giảm mối quan tâm đến việc phát triển thế gian này, mà việc mong đợi một trái đất mới còn thôi thúc chúng ta hơn nữa, vì chính ở nơi đây thân xác của tân gia nhân loại phát triển, tiên báo một cách nào đó thời đại phải đến” (Hiến Chế Gaudium et Spes, đoạn 39).
Sứ điệp hy vọng được cộng đồng Kitô giáo đặc biệt loan báo phải được đan kết với việc người tín hữu giáo dân dấn mình vào lãnh vực văn hóa, xã hội, kinh tế và chính trị như men Phục Sinh.
Nếu việc tiến bộ trần thế thực sự phải được tách biệt khỏi việc phát triển nước Chúa (cùng nguồn vừa trích dẫn), thì “đức ái và các việc làm của nó vẫn tồn tại” (x.1Cor.13:8; Col.3:14) thực sự trong nước Chúa là một thực tại sẽ được nên trọn vào lúc tận cùng thời gian (cũng nguồn trích dẫn trên). Điều này có nghĩa là mọi sự được hoàn thành trong tình yêu mến Chúa Kitô đều trông chờ cuộc phục sinh sau hết và việc nước Chúa trị đến.
5- Như thế thì linh đạo Kitô giáo tỏ hiện ánh sáng thực sự của mình: nó không phải là một linh đạo trốn lánh hay phủ nhận thế giới, nó cũng không giảm xuống thành một thứ hoạt động hoàn toàn trần tục. Được Thần Linh linh động bằng sự sống tuôn ban từ Chúa Cứu Thế, nó là một linh đạo biến đổi thế giới và là linh đạo trông cậy vào việc nước Chúa trị đến.
Như thế, Kitô hữu có thể khám phá ra rằng, những thành đạt về tư tưởng và nghệ thuật, về khoa học và kỹ thuật, một khi thấm nhuần tinh thần Phúc Aâm, chúng sẽ làm chứng cho thấy việc Thần Linh Thiên Chúa tràn lan trong tất cả mọi thực tại trần thế. Bởi vậy, tiếng của Thần Linh và của Tân Nương kêu lên: “Hãy đến!… Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy đến” (Rev.22:17-20) mới có thể to tiếng nghe thấy được, chẳng những trong kinh nguyện mà còn trong cả nỗ lực hằng ngày nữa, để sửa soạn cho nước Chúa trị đến trong lịch sử. Đó là đoạn kết kỳ lạ của Sách Khải Huyền, khiến chúng ta có thể nói rằng, ấn tín Kitô giáo đóng trên lịch sử loài người.
(tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 9/12/1998)