Một Chúa Ba Ngôi – Ba Ngôi Một Chúa
Những vấn đề sống đạo
Các Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng là ngày Thiếu Nhi Fatima chẳng những qui tụ lại để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria bằng Kinh Mân Côi, cũng như để đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể bằng việc xưng tội và rước lễ, mà còn để học hỏi về đạo đức và trau dồi kiến thức đức tin nữa. Có thể nói, Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng là ngày huấn luyện về tinh thần nối dài của Khóa Tĩnh Huấn cho Thiếu Nhi Fatima hằng năm (bao giờ vào dịp Lễ Tạ Ơn Thanksgiving ở Hoa Kỳ vào cuối tháng 11).
Trong các Khóa Tĩnh Huấn, ngoài việc học hỏi chủ đề theo các bài huấn đức hay hướng dẫn thường của các vị linh mục, các em còn được hội thảo và chia sẻ về những vấn đề đặc biệt của chủ đề ấy nữa. Chẳng hạn, vào năm 1999, chủ đề của Khóa Tĩnh Huấn là “Cầu Nguyện theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo” (tức học hỏi phần cuối cùng của Sách Giáo Lý mới của Giáo Hội Công Giáo, một cuốn sách các em tìm hiểu trong Khóa Học Hỏi Giáo Lý Sống Ngàn Năm Thứ Ba từ ngày 19/9/1999 đến 10/6/2001 vào các buổi chiều tối Chúa Nhật hằng tuần, mỗi buổi 1 tiếng rưỡi đồng hồ), và vào năm 2000, chủ đề là “Dự Án Fatima, Bí Mật Fatima, Sứ Điệp Fatima, Thiếu Nhi Fatima”, vì năm nay hai trong ba Thiếu Nhi Fatima tiên khởi được phonh chân phước cũng là năm Tòa Thánh tiết lộ cho biết phần thứ ba của Bí Mật Fatima. Trong Khóa Tĩnh Huấn 1999, các khóa sinh Thiếu Nhi Fatima đã được tôi nêu lên ba vấn đề liên quan đến chủ đề là: “Cầu nguyện là gì? Tại sao lại hay chia trí khi cầu nguyện? Làm thế nào để bớt chia trì khi cầu nguyện?”. Và trong Khóa Tĩnh Huấn 2000, các em lại được tôi nêu lên ba khía cạnh liên quan đến vấn đề thánh thiện như sau: “Thánh là gì? Nên thánh là gì? Làm sao biết được mình thánh?”
Sau khi các em đã cố gắng tìm cách trả lời các vấn nạn được đặt ra, tôi đã đơn giản hóa và đúc kết cả ba vấn đề lại với nhau một cách tổng quan nhưng đầy đủ và dứt khoát như sau. Trước hết, về chủ đề cầu nguyện: “Nếu cầu nguyện là tác động khao khát Chúa, thì lý do tại sao chúng ta dễ chia trí khi cầu nguyện là vì lòng chúng ta chưa thật sự hay hết sức khao khát Chúa, bởi đó mới có câu ‘chia lòng chia trí’ (chia lòng trước rồi mới chia trí sau), và đó là lý do để bớt chia trí khi cầu nguyện chúng ta cần phải làm sao cho lòng mình gắn bó với Chúa hơn, (chúng ta thấy rõ chúng ta cầu nguyện sốt sắng hơn bao giờ hết mỗi khi chúng ta cảm thấy tâm hồn tan nát khổ đau trước Nhà Tạm hay tượng Chúa, lúc mà chúng ta không còn biết cậy trông vào ai để có thể thoát khỏi tai ương hoạn nạn)”. Sau nữa, về vấn đề thánh thiện: “Nếu ở đâu có Chúa là ở đấy là nơi linh thánh, như trường hợp bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi, nơi mà Moisen muốn đến gần phải cỡi giầy ra (x Ex 3:5), thì thánh là trạng thái con người được Chúa ở cùng, (đó là lý do Kitô hữu hay thành phần đã lãnh nhận phép rửa đều được gọi là thánh), và vấn đề nên thánh là việc con người ở cùng Chúa, (tức luôn khao khát Chúa, tìm kiếm Chúa, hoàn toàn tin tưởng vào Chúa và luôn tuân theo ý Chúa ở mọi nơi, mọi lúc và mọi sự), đến độ, họ không sống sự sống của họ nữa mà là chính Chúa sống trong họ, khiến cho thế gian nhờ và qua chứng từ bản thân họ cũng như đời sống của họ nhận biết Ngài, (tính cách thánh thiện được thể hiện hay được nhận biết nơi các hoa trái tông đồ là những gì được phát xuất từ đời sống nội tâm của con người sống thánh chứng nhân)”.
Từ Thánh Thần Mầu Nhiệm…
Vào Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng Thánh Tâm 7/6/2003 tại Đoàn Thiếu Nhi Fatrima Mẹ Mân Côi Pomona, sau khi hướng dẫn các em về vấn đề liên quan đến việc học hỏi Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria trong Năm Mân Côi (16/10/2002-19/10/2003), vấn đề “Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi”, tôi có thói quen hướng dẫn thêm cho các em về ý nghĩa các lễ trọng trong tháng. Lần này tôi giúp các em hiểu thêm về Chúa Thánh Thần và Chúa Ba Ngôi, vì hôm sau, Chúa Nhật 8/6/2003 là Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, và tuần sau, Chúa Nhật 15/6/2003 là Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Để các em có thể dễ hiểu hơn, tôi đã phải dùng dụ ngôn để chia sẻ với các em về Chúa Thánh Thần Mầu Nhiệm cũng về về Mầu Nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Sau đây là những gì tôi đã trình bày với các em hôm đó.
Chúng ta có một con chó. Chúng ta yêu nó lắm và muốn nó cũng yêu chúng ta như chúng ta yêu nó. Thế nhưng, con chó không thể nào yêu chúng ta như chúng ta yêu nó khi nó không phải là người như chúng ta. Thực tế cho thấy không thể nào con chó có thể biến thành con người được, dù thuyết tiến hóa có nghĩ rằng con người bởi khỉ mà ra. Như thế có nghĩa là không bao giờ chúng ta thực hiện được ý muốn được con chó yêu chúng ta như chúng ta yêu nó. Vì con chó tự nó không có trí khôn như chúng ta, không thể nào biết được chúng ta đáng yêu thế nào để mà yêu, để mà nhận biết tình chúng ta yêu nó hầu đáp lại cho cân xứng. Bởi vậy, để con chó có thể yêu chúng ta như chúng ta là con người yêu nó là con vật, trước hết và trên hết, con chó không cần phải được hóa thành người như chúng ta, mà chỉ cần có trí khôn như chúng ta là đủ. Tuy nhiên, vì là chó thì làm sao nó có bộ óc con người được. Bởi vậy, chỉ còn một cách duy nhất, nếu chúng ta có quyền năng, đó là chúng ta phải tự mình hóa thành loài chó như nó, để qua chính hình thù của nó và nhờ ngôn ngữ của nó được chúng ta mặc lấy và sử dụng để tỏ cho nó biết chúng ta là ai và chúng ta muốn gì.
Tuy nhiên, vì là loài chó, một loài vật như tất cả mọi động vật khác không có tâm linh như con người, không hề ý thức được bản thân mình cũng như cùng đích cuộc sống của mình, con chó được chúng ta thương yêu đến hạ mình xuống ngang hàng với nó ấy để tỏ mình ra cho nó vẫn không thể nào nhận biết chúng ta là một con người đã hóa thân làm chó như nó. Đối với nó, chúng ta chỉ là một con chó như nó, không hơn không kém. Có những lúc, vì chúng ta là người hóa chó, chúng ta có những hành vi cử chỉ khác thường, không giống loài chó, thậm chí nghịch với loài chó nữa, đến nỗi có thể khiến cho con chó được chúng ta thương hiểu lầm quay ra cắn xé chúng ta. Thế nhưng, cũng chính nhờ xâu xé một con người hóa thành chó như vậy, nhất là đã liếm máu của chúng ta là con vật “nhân linh ư vạn vật” này mà con chó được chúng ta yêu thương mới thấm chất người và tình người để hiểu được phần nào nạn nhân đáng yêu của nó. Nhờ chất người của chúng ta thấm vào con chó được chúng ta yêu ấy, chúng ta, với quyền phép hóa thành chó trước đó, mới tiến tới chỗ sống trong con chó và trở thành chính tâm linh của con chó để nó nhờ đó có thể nhận biết chúng ta như chúng ta biết mình và yêu chúng ta như chúng ta yêu mình.
Qua dụ ngôn trên đây, chúng ta thấy được phần nào ý nghĩa của Mầu Nhiệm Nhập Thể, Mầu Nhiệm Vượt Qua và Mầu Nhiệm Thánh Thể. “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn 4:8,16), Đấng đã yêu con người tạo vật vô cùng thấp hèn một cách nhưng không, đến nỗi “đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) nơi Con Người Giêsu Nazarét để tỏ mình ra cho nhân loại biết Ngài là ai và muốn gì, nhờ đó con người được thông phần sự sống thần linh của Ngài và với Ngài. Thế nhưng, con người, với trí khôn vô cùng hạn hẹp mù tối của mình, không thể nào nhận ra Ngài, một con người tầm thường như mình, một con người nhiều khi tỏ ra có những tư tưởng và việc làm siêu phàm xuất chúng đến không thể nào hiểu được, tới nỗi, qua dân Do Thái, một dân tộc đã được Ngài tuyển chọn và tỏ mình ra cho trong suốt giòng Lịch Sử Cứu Độ, một Lịch Sử hướng về tột đỉnh của mình và đạt đến tuyệt đỉnh của mình nơi Con Người Giêsu Kitô, loài người đã ra tay sát hại Ngài, sát hại một con người lộng ngôn phạm thượng (x Mt 26:65-66), “chỉ là một con người mà cho mình là Thiên Chúa” (Jn 10:33). Nhưng chính lúc “họ đã nhìn xem Đấng họ đâm thâu” (Jn 19:37; Num 21:9; Zec 12:10), mà lời Chúa Kitô nói đã được thực hiện: “Khi nào các người treo Con Người lên, các người sẽ nhận biết Tôi Là Ai” (Jn 8:28); “khi nào Tôi được treo lên khỏi đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32).
Đúng thế, qua cuộc tử nạn của mình, qua việc đổ máu của mình ra trên cây thập giá, Thiên Chúa, qua Con Người Giêsu Nazarét, đã làm cho con người nhận biết Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai, và nhận biết Ngài là Vị “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban Con Một Mình để ai tin vào Con thì không phải chết nhưng được sự sống đời đời” (Jn 3:16). Và việc con người có thể “nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3), một việc con người tự mình không thể nào thấu triệt và biết được, là dấu chứng tỏ Thần Linh Thiên Chúa thật sự ở trong họ, Vị Thần Linh sẽ làm cho con người tạo vật thấp hèn, yếu đuối, tội lỗi của họ có thể trở thành những chứng nhân trung thực và sống động của Con Thiên Chúa Nhập Thể, thành phần làm được những việc Chúa Kitô làm, những việc của một Vua Chúa thống trị thế gian, những việc của một Thượng Tế thánh hóa thế gian, và những việc của một Ngôn Sứ chinh phục thế gian. Như thế, qua việc Thiên Chúa Làm Người và Vượt Qua nơi Con Người Giêsu Kitô, loài người tạo vật đã được Ngài ban cho Thần Linh của Ngài để có thể nhận biết Ngài và yêu mến Ngài như Ngài biết Ngài và yêu Ngài, nghĩa là nhờ Thần Linh Thiên Chúa, con người có thể hiệp nhất nên một với Thiên Chúa, có thể sống sự sống thần linh của Thiên Chúa, sự sống nội tâm của Thiên Chúa, sự sống Ba Ngôi Thiên Chúa.
… Đến Mầu Nhiệm Ba Ngôi
Về Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm chỉ có Một Thiên Chúa chân thật duy nhất nhưng có Ba Ngôi, Ngôi Thứ Nhất là Cha, Ngôi Thứ Hai là Con và Ngôi Thứ Ba là Thánh Thần, Ngôi nào cũng là Thiên Chúa, song lại không phải là ba Thiên Chúa mà chỉ là một Thiên Chúa chân thật duy nhất. Nếu chân lý chỉ có một Thiên Chúa chân thật duy nhất là cốt lõi của mạc khải Thánh Kinh Cựu Ước, thì chân lý Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất này có Ba Ngôi Cha, Con và Thánh Thần là tuyệt đỉnh của chung toàn bộ Mạc Khải Thần Linh và của riêng mạc khải Thánh Kinh Tân Ước, một mạc khải được tóm gọn ở Lời Nguyện Hiến Tế Chúa Giêsu dâng lên Cha Người vào lúc kết thúc Bữa Tiệc Ly. Qua nội dung của Lời Nguyện Hiến Tế này nói riêng, cũng như qua Phúc Âm Thánh Gioan nói chung, đặc biệt những lời Người tâm sự với các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, chúng ta có thể hiểu được phần nào Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi theo công thức: Tôi ý thức bản thân mình - “I realize myself”.
Trước hết, các em đang nhìn thấy gì đây, (tôi chỉ vào mình), nếu không phải là một hữu thể con người (human being) ở trước mắt các em, một hữu thể con người với đầy đủ hồn thiêng lẫn xác chất làm nên bản tính của một con người. Thế nhưng, hữu thể con người này là của ai, nếu không phải là của “Tôi”. hay ai là làm chủ hữu thể này, nếu không phải là “Tôi”. Nhưng hữu thể con người của “Tôi” đây như thế nào, hay “Tôi” thấy hữu thể con người mình ra sao, nếu không phải thấy rằng đó là chính “bản thân mình”, chính bản thân tôi, chính con người tôi. Tuy nhiên, làm sao “Tôi” có thể biết được “bản thân mình”, nhất là làm sao “Tôi” có thể biết chắc chắn “bản thân mình” đó chính là “Tôi”, không phải là một con người nào khác, nếu không phải do “Ý Thức”, do Tâm Linh nội tại của “Tôi”.
Áp dụng thực tại sinh hoạt tâm lý này vào Mầu Nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta có thể hiểu được đại khái như sau. Chủ thể “Tôi” đây là biểu hiệu cho Ngôi Cha; “bản thân mình” đây là biểu hiệu cho Ngôi Con, và “ý thức” đây là biểu hiệu cho Thánh Thần. Hữu thể con người mà “Tôi ý thức bản thân mình” đây là biểu hiệu cho Một Thiên Chúa chân thật duy nhất. Đó là lý do, theo đức tin, Ba Ngôi tuy khác nhau về tính cách và vai trò nhưng lại đồng bản thể (substance) và giống nhau về ưu phẩm (attributes) thần linh. Ba Ngôi Thiên Chúa là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất vì, chẳng những về bản tính Ba Ngôi có cùng một bản thể, mà còn về bản chất Ngài là Thần Linh. “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) đây nghĩa là gì, nếu không phải Ngài luôn ý thức bản thân mình, tức Ngài luôn hiện hữu (x Ex 3:14), hay Ngài luôn là “Thiên Chúa chân thật duy nhất” (Jn 17:3), ở chỗ, tuy Ba Ngôi nhưng chỉ là Một Chúa duy nhất, vì Ý Thức Thần Linh nơi Thiên Chúa đã làm cho Cha và Con hiệp nhất nên một (x Jn 17:21). Chúa Kitô xin với Cha Người làm cho Giáo Hội được hiệp nhất nên một “như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha” (Jn 17:22) tức là Người xin Cha ban cho Giáo Hội Vị Thần Linh hiệp thông Cha Con ấy, hay ban cho Giáo Hội Ý Thức Thần Linh, để Giáo Hội nhờ đó có thể ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong Giáo Hội.
Vấn đề Giáo Hội, qua các vị tông đồ, nhận được Thánh Thần vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần, bởi Chúa Kitô phục sinh (x Jn 20:22), rồi sau đó cũng nhận được Thánh Thần vào Ngày Lễ Ngũ Tuần 50 ngày sau, thì không phải là hai Thánh Thần khác nhau, mà chỉ là một Thánh Thần duy nhất: Thánh Thần được thông ban vào tối ngày thứ nhất trong tuần Phục Sinh là Thánh Thần phát xuất từ thân xác sống lại của Chúa Kitô, còn Thánh Thần được ban xuống vào ngày Lễ Ngũ Tuần là Thánh Thần phát xuất từ Cha (x Jn 15:26). Nếu con người muốn được thông phần bản tính Thiên Chúa, sống sự sống thần linh của Ngài và với Ngài cần phải được tái sinh bởi trên cao, bởi nước và Thần Linh thế nào (x Jn 3:3-5), thì Giáo Hội đã được tái sinh bởi nước khi lãnh nhận Thánh Linh từ thân xác phục sinh của Chúa Kitô, và được tái sinh bởi Thần Linh (x Acts 1:5) khi lãnh nhận Thánh Thần từ Cha sai đến như vậy. Nhận lãnh Thánh Thần từ thân xác phục sinh của Chúa Kitô là Giáo Hội có cùng một Ý Thức Thần Linh của Con để nhận biết Cha, Đấng đã sai Con, và khi lãnh nhận Thánh Thần từ Cha sai đến là Giáo Hội có cùng một Ý Thức của Cha để làm chứng cho Con. Kitô hữu cũng lãnh nhận Thánh Thần qua Bí Tích Rửa Tội, như được tái sinh bởi nước, Thánh Thần của Chúa Kitô Phục Sinh, và họ cũng được lãnh nhận Thánh Thần qua Bí Tích Thêm Sức, như được tái sinh bởi Thần Linh, Thánh Thần từ Cha sai đến.
Thật ra, nếu một khi yêu thương là Thiên Chúa yêu với tất cả tấm lòng của mình thế nào, thì khi thông ban Thánh Thần cho loài người nói chung và Giáo Hội nói riêng, Ngài cũng thông ban trọn vẹn Thánh Thần cho họ, ban tất cả Thánh Thần của Ngài cho họ, chứ không phải ban từng chút Thánh Thần, ban từng phần Thánh Thần. Tuy nhiên, vì tạo vật, tự bản chất bé mọn và khả năng hữu hạn, không thể nào chấp nhận Thánh Thần vô cùng siêu việt của Ngài, mà Thiên Chúa đã ban Thánh Thần của Ngài cho con người qua Lời Nhập Thể là Con Người Giêsu Kitô. Để rồi, Chúa Giêsu Kitô thông ban Thánh Thần của Người cho Giáo Hội bằng cuộc Vượt Qua của Người, rõ ràng nhất là vào tối ngày thứ nhất trong tuần khi Người từ trong cõi chết sống lại (x Jn 7:39, 20:22). Như Chúa Kitô càng thêm tuổi càng khôn ngoan nhân đức trước mặt Thiên Chúa và loài người thế nào (x Lk 2:52), tức càng lớn lên về thân xác và hình hài, Người càng tỏ Thánh Thần của Người ra và nơi Người ra thế nào, cho đến khi Người thông Thánh Thần của Người cho Giáo Hội vào tối ngày thứ nhất phục sinh trong tuần, thì Thánh Thần nơi Giáo Hội từ buổi tối ngày thứ nhất phục sinh trong tuần ấy cũng hoàn toàn tỏ hiện vào Ngày Lễ Ngũ Tuần như vậy, một biến cố Giáo Hội được mặc lấy quyền năng từ trên cao (x Lk 28:49; Acts 1:8), để có thể thông ban Thánh Thần cho nhân loại, điển hình nhất qua bài giảng tiên khởi của các tông đồ (x Acts đoạn 2), cũng như qua những hoạt động truyền giáo của các vị được Sách Tông Vụ thuật lại. Tóm lại, nhờ Thánh Thần, con người mới được hiệp thông với Thiên Chúa là Thần Linh, Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng đã dựng nên họ “theo hình ảnh chúng ta và tương tự như chúng ta” (x Gen 1:26-27).
Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi 15/6/2003
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL