GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

Ý Chỉ của Đức Thánh Cha

 Tháng 6/2003

 

Ý Chung: Xin cho những tín hữu đang giữ các trọng trách phục vụ công ích biết tuân theo giáo huấn của Phúc Âm cùng với những nguyên tắc giáo huấn về xã hội của Giáo Hội để họ có thể bênh vực và cổ võ các giá trị nhân bản trong hết mọi trường hợp”.

Ý Truyền Giáo: Xin cho các Kitô hữu Ấn Độ thuộc các truyền thống khác nhau biết cùng nhau tỏ ra chứng từ hiệp nhất và hiệp thông thực sự trong một Thần Linh duy nhất huớng dẫn họ”.

 

 

___________________________________________

 8-14/6/2003

 

14/6 Thứ Bảy

Gia Đình đang phải đối diện với “những đe dọa làm bại hoại nhân bản”

Hôm Thứ Sáu 13/6/2003, khi ngỏ lời với thành phần tham dự hội nghị của các vị chủ tịch phụ trách các ủy ban giám mục Âu Châu về gia đình, do Hội Đồng Tòa Thánh về Gia Đình tổ chức, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định rằng gia đình đang bị “những đe dọa làm bại hoại nhân bản” và kêu gọi các vị lãnh đạo chính quyền cùng với các chính trị gia hãy nâng đỡ tế bào nền tảng của xã hội này. Bằng không, Ngài nói: “có cơ nguy phải trả một giá cao về xã hội” là những gì sẽ đổ xuống trên “các thế hệ tương lai, những nạn nhân của một ý hệ tai hại và lộn xộn cũng như những lối sống không xứng với con người”.

“Ngày nay, chính căn tính của gia đình bị các đe dọa làm bại hoại nhân bản tấn công. Những chọn lựa thay thế sai lầm đã xuất hiện khắp nơi trên thế giới không nhìn nhận gia đình là một sự thiện quí giá và cần thiết cho cơ cấu xã hội”. Những ý hệ lan tràn ngày nay đã hướng chiều về “ly dị, ngừa thai, phá thai, bằng cách thực sự chối bỏ cảm thức đích thực của yêu thương, cũng như bằng việc hết sức nỗ lực chống lại sự sống con người, chứ không phải bằng việc nhìn nhận con người hoàn toàn có quyền sống”.

Theo ĐTC, gốc rễ của vấn đề là “cái mỏng dòn đáng lo ngại, cái mỏng dòn càng lớn hơn nữa khi người ta không sẵn sàng chấp nhận các trách nhiệm của mình, bằng thái độ hoàn toàn trao hiến cho nhau với một tình yêu chân chính”. Ngoài “những tấn công gia đìụnh và sự sống con người, còn có nhiều gia đình bất chấp những khó khăn vẫn đang tiếp tục trung thành, với ơn gọi nhân bản và Kitô giáo. Những gia đình này phản ứng lại với những cuộc tấn công của một thứ hưởng lạc hiện đại cũng như một thứ văn hóa duy vật, và đang hợp sức để đáp ứng với tất cả niềm hy vọng”, như được thấy nơi phong trào phò sự sống”. Đưcùc Thánh Cha khuyên nên áp dụng “Bản Hiến Chương về Các Quyền Lợi của Gia Đình” do Tòa Thánh phổ biến năm 1983, 20 năm trước đây.

Hướng về chuyến Tông Du 101 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ở Bosnia-Herzegovina 22/6/2003

Tòa Thánh hôm Thứ Sáu 13/6/2003 đã phổ biến lịch trình chuyến tông du 101 của Đức Thánh Cha đến Bosnia-Herzegovina như sau:

Rời Rôma lúc 8 giờ 15 ngày Chúa Nhật 22/6/2003, đến phi trường quốc tế Banja Luka lúc 9 giờ 40. Sau lễ nghi tiếp đón, Ngài gặp tổng thống đoàn của xứ sở này. 11 giờ 30 Ngài dâng Thánh Lễ phong chân phước cho Người Tôi Tớ Chúa Ivan Merz trước Nữ Tu Viện Chúa Ba Ngôi của Dòng Anh Em Hèn Mọn bên sườn núi ở Petricevac, sau Thánh Lễ Ngài cũng ban huấn từ truyền tin Chúa Nhật hằng tuần như ở Rôma. Ngài dùng bữa trưa với các đức giám mục nước này và đoàn tùy tùng của Ngài ở tư dinh vị giám mục ở Banja Luka. 5 giờ 30 chiều, Ngài gặp tổng thống Cộng Hòa Serbia và tổng thống Liên Bang Bosnia-Herzegoniva; nửa tiếng sau Ngài gặp gỡ hội đồng liên tôn toàn quốc. Vào lúc 6 giờ 30, Ngài đến viếng Vương Cung Thánh Đường Công Giáo ở Banja Luka. 7 giờ 15, sau khi ngỏ lời từ biệt ở phi trường, Ngài trở về tới Rôma lúc 9 giờ tối. Đây là chuyến viếng thăm thứ hai của Ngài. Chuyến lần trước ở Sarajevo vào ngày 12-13/4/1997.

Bosnia-Herzegovina có 4.070.000 triệu dân cư, trong đó có 461 ngàn người Công Giáo, khoảng 11.3% trong tổng số dân. Hiện nay có 4 vị giám mục, 583 linh mục, 523 tu sĩ và 230 chủng sinh. Giáo Hội Công Giáo ở đây có 13 trường trung tiểu học với hơn 3500 học sinh. Ngoài ra còn có một nhà cho người già lão, tật nguyền, một nhà mồ côi, một trung tâm giữ trẻ và 5 trung tâm giáo dục và phục hồi xã hội.

Lời Ngỏ của bản hiến pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu vẫn không đề cập tới Kitô giáo; bản thảo của hiến pháp Khối Hiệp Nhất Âu Châu

Lời ngỏ của bản hiến pháp cho Khối Hiệp Nhất Âu Châu, tuy đã được điều chỉnh và phổ biến hôm Thứ Ba 10/6/2003, nhưng vẫn không đề cập gì tới căn gốc Kitô giáo làm nên văn hóa Âu Châu. Tuy nhiên, chắc muốn để cho công bằng hơn, ở chỗ chẳng lẽ nhắc đến yếu tố này lại bỏ yếu tố kia, bản thảo lời ngỏ này đã không còn đề cập đến văn hóa Hy La cũng như đến các luồng tư tưởng triết lý thời Minh Tri như lần trước nữa. Câu văn được sửa lại như thế này: “nguồn hứng khởi phát xuất từ việc Âu Châu được thừa huởng về văn hóa, tôn giáo và nhân bản là những gì luôn hiện hữu nơi gia sản của nó, đã được thể hiện ra nơi đời sống xã hội cái quan niệm của nó về vai trò trọng yếu của con người cùng với những quyền lợi bất khả vi phạm và bất khả thiếu của con người, cũng như về việc tôn trọng luật pháp”.

Bản thảo lần trước đã bị cộng đồng Kitô giáo nói chung lên tiếng phản đối kịch liệt. Riêng Tòa Thượng Phụ Moscow Chính Thống Giáo Nga Sô, qua một bản tuyên cáo do Phân Bộ Liên Hệ Ngoài Giáo Hội phổ biến hôm Thứ Sáu 6/6/2003, đã cảnh giác “cái sai trái về lịch sử” trong bản thảo lời ngỏ ấy. Bản tuyên cáo này nêu lên nhận định của mình về bản thảo lời ngỏ về việc bản thảo này đã “hoàn toàn bỏ qua giai đoạn lịch sử từ thế kỷ thứ 4 đến 18, giai đoạn Kitô giáo chi phối việc phát triển của các quốc gia Âu Châu. Đường lối được phác họa trong bản thảo này nhắm đến việc tái định hình lịch sử theo các kiểu mẫu ý hệ”. Bản tuyên cáo này trưng dẫn chứng cớ là bản thảo lời ngỏ đã đề cập đến những luồng tư tưởng triết lý của Thời Minh Tri. “Theo ý nghĩ của chúng tôi,những tư tưởng về Thời Minh Tri đã đóng một vai trò quan trọng ở một số quốc gia, thế nhưng chúng không phải là phổ quát và được chấp nhận chung, vì nhiều người không hoàn toàn chung phần vào đấy. Việc qui chiếu những tư tưởng Thời Minh Tri không còn khách quan về ý hệ so với việc đề cập tới một tôn giáo đặc biệt. Thêm vào đó, những công thức lấy nhân loại làm chính được chất chứa trong lời ngỏ cho Bản Hiến Pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu có thể gây nên một thái độ tiêu cực nơi nhiều người Âu Châu có lòng đạo, bao gồm cả các Kitô hữu Chính Thống giáo, đối với những tiến trình hội nhập”. Theo bản tuyên cáo này thì những trào lưu tư tưởng triết học của Thời Minh Tri cũng có thể được nhắc tới “chỉ cùng với việc thừa hưởng Kitô giáo và có lẽ cả việc thừa hưởng các tôn giáo khác hiển nhiên có mặt ở Âu Châu nữa”. Bản tuyên cáo kết luận: “Việc đề cập tới một ‘thứ động lực thiêng liêng’ mơ hồ cũng không giải quyết được vấn đề này”.

Vấn đề chống đối việc đề cập đến tôn giáo trong bản hiến pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu là vấn đề Pháp tỏ ra mạnh tay nhất. Thế mà một người Pháp trần tục đã lên tiếng ngược lại, đó là nhà bình luận chính trị Bernard Guetta của tuần báo L’Express và của Đài Phát Thanh Pháp Nanterre. Bản thảo lời ngỏ được phổ biến ngày 28/5/2003 nói đến “gia sản văn hóa, tôn giáo và nhân bản Âu Châu”, là những gì “đầu tiên được nuôi dưỡng bởi văn hóa Hy La”, và “sau đó bởi những giòng tư tưởng triết lý của Thời Minh Tri”. Ông Guetta nói: “Khi cuộc tranh luận bắt đầu về các cội rễ Kitô giáo ở Âu Châu, tôi lập tức nói rằng Bản Hiến Chương Hiến Pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu cũng phải đề cập đến di sản trần thế của Thời Minh Tri. Tôi thấy rằng Thời Minh Tri được đề cập đến trong lời ngỏ mà Kitô giáo lại không. Là một con người vô thần cứng lòng, tôi tuyên bố rằng tôi không đồng ý: Đó là một thứ xúc phạm đến trí năng. Không đề cập tới gia sản Kitô giáo của Âu Châu tức là chối bỏ chứng cớ lịch sử”. Ông Jean De Belot, giám đốc tờ nhật báo Le Figaro, đã giải thích là Pháp “bị chi phối bởi tín điều trần tục, một tín điều được coi là một bảo đảm cho nền hòa bình dân sự. Tín điều trần tục này luôn được nêu lên như một bức tường chống lại những người Công giáo. Giờ đây họ nhận thấy rằng chủ nghĩa trần tục chẳng những bị đe dọa bởi Giáo Hội mà còn bởi cả Hồi giáo nữa. Đó là điều thực sự đáng chú ý”. Học giả Pháp Jean-Marie Rouart viết: “Chúng ta không được tiếp tục lợi dụng trần tục thuyết để chống lại Kitô giáo. Việc phân biệt giữa quyền lực trần thế và tôn giáo không làm triệt tiêu lịch sử, tầm quan trọng của truyền thống, tính cách cảm thức. Theo di sản gia truyền của mình, Pháp có những dấu vết tôn giáo đã thấm nhập vào chúng ta quá sức tưởng tượng của chúng ta”.

Thứ Sáu 13/6/2003, bản thảo hiến pháp, sau 16 tháng bàn cãi, đã được hội đồng soạn thảo chấp thuận. Bản thảo này sẽ được trình bày cùng các vị lãnh đạo thuộc Khối Hiệp Nhất Âu Châu trong cuộc Họp Thượng Đỉnh ở Hy Lạp vào tuần tới, cũng như sẽ được 25 quốc gia phần tử mang ra thảo luận đúc kết vào tháng 10/2003. Bản Hiến Pháp này theo dự định sẽ hoàn toàn có hiệu lực vào năm 2009.

Ông Valery Giscard d’Estaing hôm nay, Thứ Sáu 13/6/2003, tại Brussels Bỉ Quốc, đã nói với cuộc họp chung của 105 phần tử thuộc Hội Đồng soạn thảo do ông làm chủ tịch rằng: “Sau khi nghe tất cả mọi bài phát biểu hôm nay… Tôi sẽ nhân danh anh chị em trình lên Hội Đồng Âu Châu ở Thessaloniki việc làm chung của chúng ta như việc làm nền tảng cho bản hiệp ước sau này kiến tạo nên bản hiến pháp Âu Châu”.

Ông còn nói với các phần tử của hội đồng soạn thảo hãy nếu họ càng gắn bó với bản thảo này thì công việc của họ mới càng dễ dàng hơn. Tuy nhiên, có những dấu hiệu cho thấy rằng, trong 28 chính quyền có 18, ngay hôm trước, Thứ Năm, 12/6, đã tỏ ý muốn tranh đấu về tầm quan trọng của vấn đề quyền bỏ phiếu đã được ban cho các quốc gia nhỏ không cân xứng với số dân ít oi của họ.

Ngoại trưởng Đức là Joschka Fischer cho biết: “Đối với tôi, bản hiến pháp này là một hiệp ước quan trọng nhất từ ngày thành lập Cộng Đồng Kinh Tế Âu Châu (năm 1957) đến nay”.

Ngoài ra, trong bản thảo hiến pháp này còn có những điểm thay đổi chính yếu như nhiệm kỳ của vị chủ tịch Khối Hiệp Nhất Âu Châu là 5 năm thay vì cứ luân phiên nhau 6 tháng một lần như hiện nay. Bản thảo hiến pháp này cũng đề cập đến một vị ngoại trưởng của khối này và một Ủy Ban Âu Châu 15 phần tử để trở thành một cơ cấu điều hành cả khối. Bản thảo này cũng đơn giản hóa vấn đề lập pháp cùng với những phương thức pháp chế và nới rộng việc quyết định bằng việc bỏ phiếu theo đa số.

Sau cuộc họp Thượng Đỉnh ở Thessaloniki Hy Lạp vào ngày 20-21/6/2003, Hội Đồng soạn thảo này sẽ phải điều chỉnh lại phần hiến pháp về các qui chế của Khối Hiệp Nhất Âu Châu. Vào Tháng Mười Hội Đồng Liên Chính Phủ IGC (Intergovernmental Conference) sẽ quyết định toàn bản văn. Vào ngày 1/5/2004 Khối Hi6ẹp Nhất Âu Châu sẽ có thêm 10 quốc gia hội viên thuộc khối Cộng Sản Đông Âu ngày xưa.

Ông Elmar Brok, một phần tử lâu đời của Quốc Hội Âu Châu đã nói với Reuter rằng: “Với 25 phần tử của mình, Khối Hiệp Nhất Âu Châu sẽ nắm tay nhau trong việc đại diện cho các chiều hướng chung của chúng tôi trên thế giới (bằng việc nắm quyền phủ quyết)”.

 

13/6 Thứ Sáu

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho biết lý do tại sao Ngài cần phải thực hiện quá nhiều cuộc tông du mục vụ

Hôm Thứ Năm 12/6/2003, ĐTC đã tiếp khoảng 200 người đã cộng tác với Ngài trong chuyến tông du mục vụ lần thứ 100 của Ngài. Trong số này có các viên chức của Bộ Nội Vụ Tòa Thánh, Bộ Trưởng Chuyển Vận Ý Quốc, các giám đốc của những hãng bay Alitalia, các Vệ Binh Thụy Sĩ và các ký giả.

“Ngay từ ngày Tôi được bầu làm Giám Mục Rôma, 16/10/1978, Tôi đã nghe thấy một cách mạnh mẽ và thôi thúc tiếng vọng của lệnh Chúa Giêsu truyền: ‘Các con hãy đi khắp thế gian và giảng dạy Phúc Âm cho tất cả mọi tạo vật’. Bởi thế Tôi cảm thấy có nhiệm vụ cần phải bắt chước Thánh Tông Đồ Phêrô, vị ‘đã đi đây đó để đến với tất cả mọi người trong họ’ hầu củng cố và liên kết tình trạng sinh động của Giáo Hội trong việc trung thành với Lời Chúa cũng như trong việc phục vụ cho chân lý; nói cho hết mọi người biết rằng Giáo Hội yêu thương họ, Giáo Hoàng yêu quí họ, cũng nhờ đó cảm thấy phấn khởi trước gương sáng sống thiện hảo của họ, sống đức tin của họ”.

Buổi nói chuyện này được phụ diễn bằng ban hợp ca của các tu sĩ trẻ thuộc hội dòng Các Đạo Binh Chúa Kitô, qua các bản nhạc tiêu biểu của các quốc gia. Đức Thánh Cha nói tiếp:

“Nhờ việc làm của mình, anh chị em đã giúp cho Giáo Hoàng có thể đi đến gặp gỡ những con người nam nữ của thời đại chúng ta ở những nơi sinh hoạt thường nhật của đời sống họ. Anh chị em đã giúp cho Ngài thực hiện thừa tác vụ của Ngài như là một việc truyền giáo đây đó, bằng tấm lòng lo lắng để làm sao loan truyền cho hết mọi người lời cứu độ”.

ĐTC nhấn mạnh là những chuyến tông du của Ngài đã làm cho Ngài có thể thực hiện “một việc đặc biệt của thừa tác vụ xứng hợp với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, đó là, trở thành ‘đường lối và nền tảng vĩnh viễn và hữu hình cho mối hiệp nhất trong đức tin và niềm hiệp thông’”.

Ngoài ra, ngoài khía cạnh củng cố đức tin, thực hiện truyền giáo và thi hành đại kết, Ngài còn nhấn mạnh đến một khía cạnh nữa liên quan đến Chúa Kitô như sau: “Qua tất cả mọi chuyến đi của mình, Tôi cảm thấy mình như là một kẻ hành hương đến thăm một thứ đền thánh đặc biệt là Dân Chúa. Nơi những đền thánh này, Tôi đã được dịp chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô, một dung nhan tang thương trên thập giá lẫn vinh quang sáng ngời vào buổi sáng Phục Sinh”.

Đức Thánh Cha còn nói tới tầm quan trọng của việc Ngài đến để chia sẻ với các vị giám mục những khó khăn và niềm vui của các vị, để gặp gỡ thành phần tín hữu, nhất là giới trẻ, “và cảm thấy gần gũi hơn nữa với sinh hoạt của các cộng đồng Kitô giáo ở các lục địa khác nhau”. Đức Thánh Cha cũng không quên đề cập tới những cuộc Ngài gặp gỡ anh chị em thuộc các giáo hội hay cộng đồng Kitô hữu đại kết, cũng như các tín đồ thuộc các tôn giáo ngoài Kitô giáo, nhất là Do Thái giáo và Hồi giáo.

Tuy nhiên, điều đánh động Đức Thánh Cha nhất và đáng nhớ nhất của Ngài trong tất cả các chuyến tông du đó là những cuộc cử hành phụng vụ: “Những cộng đồng Dân Chúa muôn mầu sắc qui tụ lại để cử hành Thánh Thể vẫn là những gì in sâu vào ký ức của Tôi và vào tâm can của Tôi như những kỷ niệm ý nghĩa nhất và cảm kích nhất trong những cuộc viếng thăm của Tôi”.
 

12/6 Thứ Năm

Tân Giám Mục Việt Nam ở Hoa Kỳ: Tặng Ân cho Cộng Ðồng Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại

Ngày Thứ Sáu 25/4/2003, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm một đức ông Việt Nam làm giám mục phụ tá giáo phận Orange, nơi có đông giáo dân Công Giáo Việt Nam nhất hải ngoại, trong số 1.110.508 giáo dân, 273 linh mục, 59 phó tế và 484 tu sĩ nam nữ. Đức Ông Mai Thanh Lương đã được tấn phong giám mục vào ngày Thứ Tư 11/6/2003, Lễ Thánh Barnabê, tại nhà thờ Saint Columban. Trong khoảng thời gian Đức Ông Mai Thanh Lương được bổ nhiệm đến thụ phong này, tại quốc nội, Giáo Hội Việt Nam đã mất đi hai vị giám mục, Đức Cha Nguyễn Văn Nho, Giám Mục Phó Giáo Phận Nha Trang, qua đời ngày 21/5/2003, hưởng thọ 66 tuổi, và Đức Cha Nguyễn Sơn Lâm, Giám Mục Giáo Phận Thanh Hóa, qua đời ngày Thứ Hai 9/6/2003, hưởng thọ 74 tuổi.

Đức Tân Giám Mục đã học ở đại chủng viện giáo phận Buffalo Nữu Ước và chủng viện Thánh Bênađô ở Rochester Nữu Ước. Sau đó ngài đã tiếp tục theo học ở Đại Học Canisius ở Buffalo. Ngài được thụ phong linh mục vào ngày 21/5/1966 cũng tại Buffalo, cho Giáo Phận Đà Nẵng Việt Nam, vì hoàn cảnh bấy giờ không về nước được. Ngài đã từng làm tuyên úy cho một bệnh viện ở Buffalo từ năm 1966-1975, làm phụ tá giáo xứ cho Giáo Xứ Thánh Louis ở Buffalo năm 1975-1976, và làm Giám Đốc Mục Vụ Việt Nam ở New Orleans từ 1976-1983, rồi từ 1983 làm cha sở Giáo Xứ Nữ Vương Việt Nam, từ năm 1989 làm Giám Đốc Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam ở Hoa Kỳ.

Ngài là vị giám mục Việt Nam thứ hai tại hải ngoại, sau Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tốt, linh mục giáo phận Phú Cường, Vietnam, (sinh ngày 15/4/1949, chịu chức linh mục 24/3/1974), được tuyển làm TGM Rusticiana và được bổ nhiệm làm khâm sứ tòa thánh ở Benin và Togo ngày 25/11/2002, và được thụ phong Giám Mục tại Rôma cùng với 12 vị khác vào Ngày Lễ Hiển Linh 6/1/2003. Vị Giám Mục người Á Châu đầu tiên ở Hoa Kỳ là Đức Ông Ignatius Wang, 68 tuổi, được ĐTC Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm giám mục phụ tá TGP San Francisco vào tháng 12/2002, đã thụ phong giám mục ngày 30/1/2003 tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Maria. Người Á Châu Công Giáo lên tới 25% tổng số giáo dân trong TGP này. Đức tân giám mục sinh ở Bắc Kinh và lãnh chức linh mục năm 1959. Không thể phục vụ ở Trung Hoa được, ngài đã sang Rôma, và năm 1974 ngài tới San Francisco, nơi ngài hoạt động tại nhiều giáo xứ sau đó còn đóng vai trò làm chưởng ấn nữa.

Việc bổ nhiệm những vị giám mục người thiểu số cho cộng đồng Công Giáo thiểu số lưu vong như thế, chứng tỏ cho thấy Giáo Hội Hoàn Vũ hết sức quan tâm đến nhu cầu mục vụ về văn hóa của từng cộng đồng dân Chúa. Đối với Người Việt Công Giáo Hải Ngoại nói chung và ở Orange County nói riêng thì đây là một quan tâm đánh dấu một bước tiến mục vụ cho cộng đồng Công Giáo Việt Nam hải ngoại. Đây còn là một niềm vinh dự chung cho Người Việt Hải Ngoại nữa. Cũng như biến cố Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận được giữ vai trò chủ tịch Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình của Tòa Thánh đã là một vinh dự chung cho Người Việt cả trong lẫn ngoài nước vậy, nhất là cho Giáo Hội Việt Nam nhỏ bé đau thương. Không biết lễ tấn phong cho vị giám mục người Tầu như thế nào, riêng lễ tấn phong giám mục cho Đức Ông Đôminicô Mai Thanh Lương được diễn ra hết sức trang trọng và đông đảo. Thế nhưng, Thánh Lễ tấn phong giám mục không diễn ra ở Vương Cung Thánh Đường Holy Family của giáo phận mà là tại nhà thờ Saint Columban, nơi có thể dung chứa 1600 người Mỹ to lớn hay 2000 người Việt Nam nhỏ con.

Chính tòa giám mục Orange đã phân phối vé tham dự nên chỗ ngồi vừa đủ cho khoảng 1500 giáo dân, cả Mỹ lẫn Việt (Việt chiếm 2/5), 200 linh mục (một nửa là Việt Nam), 33 giám mục, và 1 hồng y là Đức TGM Mahony TGP Los Angeles, nhưng ngài không là chủ tế Thánh Lễ mà chỉ chủ tọa. Tòa Giám Mục Orange cũng gửi cho Đức Ông Mai Thanh Lương 200 vé để phân phối tùy ý. Một chiếc xe buýt du lịch 50 chỗ ngồi đầy người từ San Jose Bắc California xuống, (6 tiếng lái xe), vì không có vé vào cửa, không được vào trong nhà thờ dự lễ, phải ngồi ở nhà xứ coi qua truyền hình. Đó là lý do riêng cộng đồng Công Giáo Giáo Phận Orange phải tổ chức một Thánh Lễ Tạ Ơn riêng cho Đức Tân Giám Mục tại sân vận động của trường đại học Orange Coast College vào lúc 6 giờ chiều Thứ Sáu 13/6/2003, để những ai không thể tham dự lễ tấn phong của ngài có cơ hội thấy ngài và gặp ngài. Trong số tham dự Thánh Lễ tấn phong Giám Mục, cũng có 4 hàng ghế cho các vị đại diện tôn giáo, như các mục sư Tin Lành, Do Thái giáo, Hồi giáo, Anh giáo; về phía đại diện Liên Tôn Việt Nam có các vị đại diện Phật giáo, Cao Đài v.v.

Thánh Lễ Tấn Phong Giám Mục cho Đức Ông Đôminicô Mai Thánh Lương kéo dài 2 tiếng rưỡi, bắt đầu từ 3 giờ đến 5 giờ 30 chiều. Các bài đọc được luân phiên công bố bằng ba thứ tiếng, bài này bằng tiếng Mễ, bài kia bằng tiếng Mỹ, bài khác bằng tiếng Việt. Kể cả các bài hát cũng vậy, cũng hát luân chuyển 3 thứ tiếng. Chẳng hạn như bài Chiên Thiên Chúa được hát theo cung điệu của tác giả Giám Mục Nguyễn Văn Hòa, nhưng câu mở và đáp được đối hát luân chuyển bằng tiếng Mỹ rồi Mễ tới Việt, mở bằng tiếng Mỹ đáp bằng tiếng Việt chẳng hạn, nhưng cùng một điệu nhạc của tác giả.

Thánh Lễ được chia làm ba phần, phần nhất Phụng Vụ Lời Chúa, phần hai là phần truyền chức và phần ba là Phụng Vụ Thánh Thể. Phần Phụng Vụ Lời Chúa do Đức Tổng Giám Mục Alfred Hughes, TGP News Orleans, giáo phận của Đức Ông Lương vừa làm việc, chủ tế. Trong bài giảng, vị giám mục quen với vị thụ phong từ hồi vị thụ phong còn học ở Buffalo Nữu Ước đã dẫn giải ý nghĩa của từng nghi thức phong chức giám mục cũng như về ba sứ vụ chính yếu của giám mục, những nhiệm vụ được sáng chói nơi gương của vị đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, một vị giáo hoàng ngoại giao, tha thứ, tông truyền, mục vụ, đạo hạnh. Cũng trong bài giảng, vị giảng thuyết đã ca ngợi gương sống đạo “sâu xa đức tin, lòng trung thành và yêu mến Giáo Hội” của người Công Giáo Việt Nam, và nhận thấy Đức Tân Giám Mục Việt Nam “là quà tặng Thiên Chúa ban cho Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam giáo phận Orange”.

Phần Truyền Chức và Phụng Vụ Thánh Thể do Đức Giám Mục Tod Brown, giám mục giáo phận Orange, chủ phong và chủ tế. Riêng phần lễ nghi truyền chức kéo dài cả tiếng đồng hồ, theo thứ tự gồm có các mục như công bố văn thư của Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh ở Hoa Kỳ thay cho của Thánh Bộ Giám Mục, những câu vấn đáp “dứt khoát” liên quan đến tinh thần, sứ vụ và đời sống giám mục, kinh cầu các thánh, các vị giám mục hiện diện đặt tay lên đầu vị thụ phong, hai phó tế úp sách Phúc Âm bên trên đầu của vị thụ phong, vị chủ phong đổ dầu thánh lên đầu vị thụ phong, vị tân giám mục nhận sách Phúc Âm, nhận nhẫn, nhận mũ giám mục, nhận gậy giám mục, (nhẫn, mũ và gậy giám mục này đã được Đấng Bản Quyền chính thức làm phép tại Vương Cung Thánh Đường Holy Family vào lúc 7 giờ tối áp hôm trước), cộng đoàn vỗ tay và các giám mục đến ôm mừng vị tân giám mục, nhất là cảnh ba vị giám mục Việt Nam (Đức Cha Yến Phát Diệm, Đức Cha Sang Thái Bình và Đức Tân Giám Mục Mai Thanh Lương) nhỏ nhắn ghì lấy nhau trên cung thánh làm cả cộng đồng vỗ tay.

Cuối lễ, Đức Tân Giám Mục, tay cầm gậy, đầu đội mũ giám mục, với hai vị giám mục ngoại quốc đi kèm, đã đi chào chúc cộng đồng dân Chúa từng hàng ghế, bắt đầu từ hàng ghế linh mục đoàn. Sau đó, ngài đã phát biểu cảm tưởng của mình bằng tiếng Anh, ngoài việc cám ơn mọi người, ngài nhấn mạnh đến khẩu hiệu giám mục của ngài là “Anh em không còn là những kẻ xa lạ” (Eph 2:19). Đức Tân Giám Mục đã kết thúc bằng câu: “Tôi không biết hết tất cả anh chị em, nhưng trong Chúa Kitô tôi biết được anh chị em”. Huy hiệu giám mục của Đức Tân Giám Mục Dominic Mai Thanh Lương bao gồm ý nghĩa vừa dân tộc vừa hội nhập như sau: trước hết là Biểu Tượng Tử Đạo Việt Nam qua hình bản đồ Việt Nam nằm trên cây thập giá với một cành lá dừa bên cạnh; tiếp đến là Biểu Tượng Thánh Mẫu Lavang, với hình thánh giá đứng trong lòng chữ M; sau nữa là Biểu Hiệu Văn Hóa Việt Nam với hình cái trống đồng; và sau hết là Biểu Tượng Tinh Thần Hoa Kỳ với hình con đại bàng, tượng trưng cho đất nước đã đón nhận và chứa chấp 1.5 Người Việt Hải Ngoại tại Mỹ Quốc.

Chúng ta chẳng những tạ ơn Chúa, cám ơn Tòa Thánh, hãnh diện về vị tân giám mục, mà còn phải cầu nguyện cho vị tân chủ chiên của chúng ta nữa. Vai trò giám mục chẳng những là một đặc ân Chúa ban cho riêng cá nhân đức tân giám mục cũng như cho chung Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam, đặc biệt ở giáo phận của ngài, mà còn là một trách vụ khó khăn nặng nề.

Thật vậy, tờ Orange Register phát hành vào dịp thụ phong của Đức Tân Giám Mục Việt Nam đã đặt vấn đề ngài phải làm sao để Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam có thể hội nhập hơn nữa với Cộng Đồng Giáo Hội địa phương. Phải chăng vì chiều hướng hội nhập này mà Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam ở Orange County nói riêng và các cộng đoàn khác ở cả California nói chung không có một giáo xứ thể nhân nào, như ở nhiều nơi thuộc tiểu bang Texas, nhất là ở Houston. Như thế, trong tương lai, nếu Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam muốn những gì không hợp với chiều hướng hội nhập này, bị cộng đồng Công Giáo địa phương kêu lên với Đấng Bản Quyền, và Đấng Bản Quyền nói với Đức Tân Giám Mục xin can thiệp và giải quyết. Bấy giờ Đức Tân Giám Mục Việt Nam phụ tá của giáo phận, một đàng sẽ có trách vụ trình bày cho các vị bản quyền biết ý hướng của đàn chiên Việt Nam của mình, đàng khác, nếu ý hướng ấy vẫn không được chấp thuận, ngài sẽ phải làm sao khuyên can cộng đồng giáo dân thiểu số của mình để xin họ tuân hợp với Đấng Bản Quyền. Trong những trường hợp như vậy, thử hỏi giáo dân Việt Nam có sẵn sàng lắng nghe hay chăng, dù những đòi hỏi của họ tự bản chất không xấu? Hay lại phản đối và cho rằng Đức Tân Giám Mục không chịu bênh vực cho Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam, thậm chí có thể quá khích còn đi đến chỗ cho ngài là tay sai của Giáo Hội Công Giáo Mỹ?

Đó là lý do chúng ta chẳng những mừng mà còn phải lo cho chính chúng ta và cho ngài nữa. Xin Chúa đừng để cho việc Tòa Thánh quan tâm đến cộng đồng Công Giáo Việt Nam ở Hoa Kỳ nói chung và giáo phận Orange nói riêng trở thành một bất hạnh cho Giáo Hội Mẹ Việt Nam sau này!


11/6 Thứ Tư

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ Cảm Nhận về chuyến tông du 100 ở Croatia

Vào buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, từ ngày lên làm giáo hoàng đến nay, gần 25 năm trời, Ngài luôn luôn dùng để dạy giáo lý cho đàn chiên của mình. Tuy nhiên, những buổi dạy giáo lý theo từng loạt chủ đề này, chẳng hạn chủ đề Cầu Nguyện bằng Thánh Vịnh đã tới bài thứ 75, thỉnh thoảng bị gián đoạn bởi những cuộc lễ, như Thứ Tư Lễ Tro, Tuần Thánh, các Lễ Trọng trong tuần, nhất là sau các chuyến Tông Du Ngài thường dùng để chia sẻ cảm nghiệm của mình. Ngày Thứ Tư 11/6/2003 hôm nay Ngài đã nói về chuyến tông du 100 của Ngài 5 ngày thăm năm nơi ở Croatia vừa thực hiện từ Thứ Năm 5/6 đến Thứ Hai 9/6/2003.

Trước hết, việc đầu tiên Ngài làm tại Croatia trong chuyến tông du 100 của Ngài là việc Ngài “phong chân phước cho Nữ Tu Marija of Jesus Crucified Petkovic, vị sáng lập dòng Nữ Tử Tình Thương của Dòng Ba Thánh Phanxicô… Theo tinh thần của nhân vật đáng ca ngợi này, Tôi đã gửi cho phụ nữ Croatia một sư ù điệp đặc biệt là thúc giục họ hãy đóng góp những gì về tinh thần và luân lý cho Giáo Hội cũng như xã hội”.

Vào ngày thứ hai của chuyến tông du, Ngài nói: “Tôi vui mừng chủ sự buổi long trọng kết thúc Công Đồng lần thứ hai cũng là dịp mừng kỷ niệm 150 năm thành lập giáo tỉnh Zagreb. Nhân cơ hội này, Tôi chia sẻ về sự thánh thiện là ơn gọi của hết mọi người Kitô hữu, (kêu gọi) nhất là tín hữu hãy hết sức coi trọng ơn Phép Rửa và Phép Thêm Sức. Chỉ có những ai được tác động bởi một đức tin vững chắcvà một tình yêu quảng đại mới có thể trở thành những vị tông đồ của sự hòa giải cũng như của việc tái thiết luân lý là những gì vẫn còn bị nhức nhối bởi những vết thương đau của một quá khứ đau thương khốn khó”.

Vào Ngày Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, 8/6, Ngài đã giảng về gia đình và nhấn mạnh đến “giá trị xã hội chính yếu của cơ cấu gia đình, xin hãy chú trọng đặc biệt và thực hiện việc hỗ trợ cụ thể thuận lợi cho vấn đề củng cố, phát triển và bền vững của gia đình”.

Sau hết, “chỗ cuối cùng trong chuyến đi của Tôi là Zadar ở Dalmatia. Tôi đã cử hành Giờ Kinh Thứ Sáu vào Ngày Lễ của Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội… một nối dài của Lễ Trọng Kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là lễ khiến chúng ta sống lại bầu không khí của Nhà Tiệc Ly”.

Trong phần kết thúc bài chia sẻ của mình, Đức Thánh Cha còn nhấn mạnh là trong chuyến đi của Ngài, Ngài cũng lợi dụng để “bày tỏ việc Kitô giáo đã đóng góp ra sao vào tình trạng phát triển về nghệ thuật và văn hóa, nhất là vào tình trạng phát triển về tinh thần và luân lý của nước Croatia và nhân dân nước này. Chính ở trên nền tảng vững chắc này mà giờ đây, vào lúc mở màn cho thiên niên kỷ thứ ba này, quốc gia Croatia thân yêu mới có thể tiếp tục vấn đề hiệp nhất và bền vững của mình để hội nhập một cách hợp hòa với tổ hợp các dân tộc Âu Châu”.

Bài Giảng Lễ Phong Chân Phước cho Nữ Tu Maria của Chúa Giêsu Tử Giá Petkovic (1892-1966), Sáng Lập Dòng Phanxicô Nữ Tử Tình Thương, ngày 6/6, về ơn gọi và tinh hoa của nữ giới.

1. “Thưa Thày nhân lành, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?” (Mk 10:17). Đây là một vấn nạn được một con người trẻ hỏi Chúa Giêsu khi anh ta gặp Người hôm đó và quì xuống trước mặt Người.

Hôm nay, anh chị em thân mến, qui tụ để cử hành phụng vụ nơi đây như là những người môn đệ của “Vị Thày Nhân Lành”, chúng ta cũng phải đặt vấn nạn ấy với Chúa Giêsu, vì chúng ta muốn biết đường lối dẫn đến một sự sống bất tận. Câu trả lời của Chúa Giêsu giản dị và tức thời là: “Anh hãy giữ các giới răn!” Câu trả lời này phát xuất từ Đấng là nguồn mạch đích thực của sự thật và sự sống.

Qui tụ lại nơi đây để hân hoan hành lễ này, dân chúng ở Dubrovnik, cùng với những người hành hương đến từ khắp nơi của đất nước Croatia, từ Bosnia-Herzegovina, từ Montenegro cũng như từ các xứ sở khác, tỏ ra hào hứng chấp nhận lời mời gọi của Vị Thày Nhân Lành ấy, và xin Người trợ giúp ban ơn để cóthể quảng đại và thâm tín đáp lại.

2. (Chào vị giám mục địa phương, nhất là dòng của vị tân chân phước, và chính quyền dân sự)

Theo bước chân của vị tiền nhiệm của Tôi là Đức Piô IV, vị đã làm Tổng Giám Mục ở đây, Tôi hân hoan đến với thành phố Dubrovnik cổ kính và vinh hiển này, một thành phố hãnh diện về lịch sử và truyền thống tự do, công chính và phát tiến công ích của mình. Điều này được thấy nơi câu nói được ghi khắc trên thành trì của Thánh Lawrence: “Non bene pro toto libertas venditur auro” (“Tất cả tiền bạc trên thế giới này không thể nào mua được tự do”), cũng như được thấy trên cánh cửa của Sảnh Đường Hội Đồng ở Tòa Thống Đốc: “Obliti privatorum, publica curate” (“Hãy quên đi tất cả mọi tư lợi và hãy chú ý tới công chúng”.

Tôi hy vọng rằng cái gia sản của những giá trị nhân bản và Kitô giáo này, một gia sản được chống chất qua nhiều thế kỷ, với sự trợ giúp của Thiên Chúa cũng như của Vị Thánh Quan Thày Blase của anh chị em, sẽ tiếp tục trở thành một kho thành quí giá nhất cho nhân dân ở xứ sở này.

3. “Lạy Thày nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” (Mk 10:17). Đây là vấn đề đã được Nữ Tu Maria of Jesus Crucified hỏi Chúa từ thời còn trẻ ở Blato trên đảo Korcula, lúc chị tích cực tham gia vào sinh hoạt giáo xứ của mình và quảng đại dấn thân phục vụ tha nhân trong Hiệp Hội Chúa Chiên Lành, trong Hiệp Hội Các Bà Mẹ Công Giáo cũng như trong Nhà Bếp của dân chúng.

Lời giải đáp đã vang vọng rõ ràng trong lòng của chị, đó là “Hãy đến theo Thày!” Được tình yêu Thiên Chúa bao chiếm, chị đã quyết tâm vĩnh viễn dâng mình cho Ngài và hoàn thành ước vọng của mình trong việc hết mình dấn thân cho sự phúc hạnh về tinh thần cũng như thể chất của những ai khẩn thiết nhất. Sau đó chị đã lập Hội Dòng Nữ Tử Tình Thương thuộc Dòng Ba Thánh Phanxicô, thực hiện công việc đặc biệt là “truyền bá kiến thức về tình yêu Thiên Chúa bằng những hoạt động tình thương về tinh thần cũng như thể chất”.

Trước không thiếu những khốn khó, Chị Maria đã can trường một cách bất khuất, bằng việc hiến dâng những đau khổ của mình trở thành như những tác động tôn thờ cũng như bằng việc nâng đỡ các chị em dòng mình trong lời nói và gương lành. Trong 40 năm trời, chị đã hướng dẫn Hội Dòng của mình bằng một đức khôn ngoan của một người mẹ, hướng hội dòng về việc dấn thân truyền giáo ở những quốc gia khác nhau thuộc Châu Mỹ Latinh.

4. Hình ảnh của Vị Chân Phước Maria Propetoga Isusa nhắc nhở cho Tôi nghĩ đến tất cả mọi người phụ nữ Croatia, những người làm vợ và làm mẹ, những con người với cuộc sống không bao giờ quên được nỗi đau thương về việc mất mát một phần tử gia đình của mình trong cuộc chiến tranh tàn khốc của thập niên 1990, hay về những trục trặc rắc rối khác họ từng phải chịu đựng.

Chị em phụ nữ thân mến, Tôi nghĩ đến chị em vì, bằng tính nhậy cảm, lòng quảng đại và sức kiên cường của chị em, “chị em làm thế giới thêm thông cảm hơn và giúp cho những mối liên hệ về nhân bản thêm thành kính và chân thực hơn” (Thư gửi Phụ Nữ, đoạn 2). Thioên Chúa đặc biệt đã ký thác con cái cho chị em coi sóc, bởi thế chị em được kêu gọi để trở nên một sức nâng đỡ quan trọng nơi đời sống của hết mọi người, nhất là trong môi trường của gia đình.

Việc đua đòi hào nhoáng bề ngoài của cuộc sống tân tiến có thể dẫn đến tình trạng lu mờ, thậm chí đến tình trạng mất mát những gì thực sự là người. Có lẽ hơn bất cứ một giai đoạn lịch sử nào khác, thời đại chúng ta đây đang cần đến “cái ‘tinh hoa’” của giới phụ nữ và là cái có thể bảo đảm cho cảm thức về con người trong mọi hoàn cảnh” (“Mulieris Dignitatem”, đoạn 30).

Hỡi nữ giới Croatia, ý thức được ơn gọi làm ‘vợ’ và ‘làm mẹ’ cao quí của mình, xin các chị hãy tiếp tục nhìn hết mọi con người bằng con mắt của tâm hồn. Các chị hãy tiếp tục vươn mình ra với họ và hãy đứng bên họ bằng một cảm thức phát xuất từ bản năng làm mẹ của chị em. Sự hiện diện của chị em là những gì bất khả thiếu trong gia đình, xã hội và cộng đồng giáo hội.

5. Tôi đặc biệt nghĩ đến chị em, hỡi nữ giới tận hiến tu trì, thành phần, như Maria Petkovi, đã hết lòng chấp nhận lời mời gọi theo Chúa Giêsu Kitô tinh tuyền, nghèo khó và tuân phục. Các chị hãy không ngừng trung thành đáp lại Tình Yêu duy nhất của cuộc sống chị em.

Vì cuộc sống tận hiến tu trì không phải chỉ là một cuộc quảng đại dấn thân về phần con người; trước hết và trên hết nó là việc đáp ứng tặng ân bởi trời là tặng ân đòi phải được hết sức cởi mở chấp nhận. Chớ gì cảm nghiệm hằng ngày về tình yêu ban phát nhưng không của Thiên Chúa tác động chị em trong việc hoàn toàn hiến thân phục vụ Giáo Hội và anh chị em mình, bằng việc trao phó tất cả mọi sự, hiện tại và tương lai, vào bàn tay của Ngài.

6. “Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh ta” (Mk 10:21). Thiên Chúa âu yếm đoái nhìn tất cả những ai muốn làm theo ý muốn của Ngài và bước theo đường lối của Ngài (x Ps 1:1-3). Tất cả mọi người, từng người theo ơn gọi riêng của mình, đều được kêu gọi hiện thực dự án của Thiên Chúa nơi bản thân mình cũng như nơi tất cả những gì về họ. Đó là lý do tại sao Thần Linh của Chúa cho những kẻ tín nghĩa của Thiên Chúa tràn đầy “lòng xót thương, nhân ái, khiêm hạ, hiền lành và nhẫn nhịn” (Col 3:12). Chỉ có thế thành đô dương trần mới có thể được xây dựng nên theo hình ảnh của thiên đô.

Chớ gì cộng đồng Kitô hữu của anh chị em được phát triển và kiên cường trong sự thứ tha cho nhau, trong tình bác ái và trong an bình: đó là lời nguyện cầu Vị Giáo Hoàng này hôm nay dâng lên Chúa cho tất cả mọi anh chị em. “Bất cứ những gì anh em làm, trong ngôn ngữ hay hành động, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa là Cha” (Col 3:17). Nguyện Chúa Kitô được muôn đời vinh hiển!

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 6/6/2003.
 

10/6 Thứ Ba

Lời Mở Đầu tại Phi Trường Rijeka: “Tôi đến giữa anh chị em để…”

Thưa Ngài Tổng Thống,

Quí Huynh khả kính trong hàng Giáo Phẩm,
Quí Tôn Vị Thẩm Quyền,
Anh Chị Em thân mến,

1. Tôi hết sức vui mừng đặt chân lần thứ ba đến mảnh đất yêu dấu Croatia. Tôi xin cám ơn Thiên Chúa Toàn Năng đã cho Tôi được dịp trở lại với anh chị em vào Chuyến Tông Du Mục Vụ 100 này của Tôi.

(Chào các vị thẩm quyền dân sự, cộng đồng Công Giáo Croatia, nhất là hàng giáo phẩm, cách riêng những vị thuộc giáo phận Krk ra đón Ngài ở phi trường trong giáo phận; sau hết Ngài cũng chào cả các đại diện cộng đồng Kitô hữu khác, và các vị thuộc các tôn giáo khác, như Do Thái giáo và Hồi giáo với những lời lẽ đại kết như sau):

“Tôi vui mừng vì vào dịp này nữa chúng ta có thể hợp nhau chứng thực trách nhiệm chung của chúng ta trong việc xây dựng xã hội trong công lý và sự tương kính.

2. Tôi đến giữa anh chị em để hoàn tất sứ vụ Thừa Kế Thánh Phêrô của Tôi cũng như để mang lại cho tất cả những ai đang sống ở xứ sở này lời chào bình an và lời nguyện cầu thiết tha cho hòa bình. Trong việc viếng thăm các Giáo Phận Dubrovnik, Djakovo-Srijem, Rijeka và Zadar, Tôi sẽ dược dịp tôn kính các nguồn gốc Kitô giáo cổ kính của mảnh đất thấm đẫm máu tử đạo này. Tôi nghĩ tới các vị tử đạo ở ba thế kỷ đầu tiên, nhất là chung các Vị Tử Đạo ở Sirmium cũng như ở Roman Dalmatia, rồi Tôi cũng nghĩ đến những thế kỷ sau đó, cho tới thế kỷ vừa rồi, với hình ảnh anh hùng của Chân Phước Hồng Y Alouzije Stepinac.

Tôi cũng sẽ hân hoan phong chân phước cho Nữ Tu Marija Propetoga Isusa Petkovic, vị sẽ được phong chân phước trước chân phước trẻ Ivan Merz mấy tuần. Việc tưởng nhớ đến những chứng nhân bất khuất cho đức tin làm Tôi hết sức cảm kích suy nghĩ và tri ân một Giáo Hội đã hạ sinh ra những vị chứng nhân này, và là một Giáo Hội trong những thời gian khốn khó vẫn hăng say bảo trì lòng trung thành của mình với Phúc Âm.

3. Đảo Krk có một gia sản Glagolitic phong phú đã được phát triển trở thành việc sử dụng trong phụng vụ và đời sống hằng ngày của nhân dân Croatia. Kitô giáo đã góp phần lớn lao cho việc phát triển của nước Croatia trong quá khứ. Kitô giáo vẫn còn tiếp tục thực hiện việc đóng góp một cách hiệu nghiệm cho hiện tại và tương lai của Croatia. Vì có những giá trị, như phẩm giá của con người, tính cách nguyên vẹn của luân lý và tri thức, quyền tự do tôn giáo, việc bênh vực gia đình, việc cởi mở và tôn trọng sự sống, tình đoàn kết, tình cách phụ trợ và tham dự, việc tôn trọng thành phần thiểu số, là những gì được in ấn nơi bản tính của hết mọi con người, thế nhưng lại là những gì Kitô giáo đã có công vạch định và loan báo. Chính vì những giá trị này mà quốc gia mới được bền vững và thực sự cao cả.

Croatia mới đây đã xin trở thành, theo quan điểm chính trị và kinh tế, một phần tử chung của đại gia đình các dân tộc Âu Châu. Tôi chỉ có thể bày tỏ niềm hy vọng của Tôi là ước vọng ấy sẽ được hiện thực một cách tốt đẹp, ở chỗ, truyền thống phong phú của Croatia chắc chắn sẽ góp phần làm kiên cường Khối Hiệp Nhất Âu Châu này, một khối hiệp nhất như là một đơn vị quản trị và lãnh giới đồng thời như là một thực tại về văn hóa và tinh thần nữa.

4. Xứ sở này, như một vài xứ sở lân bang, vẫn còn mang những dấu hiệu đau thương của một quá khứ vừa qua; chớ gì những ai thực thi quyền bính dân sự cũng như tôn giáo đừng bao giờ thôi nỗ lực chữa lành những vết thương gây ra bởi một cuộc chiến tranh tàn khốc cũng như nỗ lực cải tổ những hậu quả của một chế độ chuyên chế mà đối với tất cả mọi người đã cố gắng áp đặt quá lâu một ý hệ chống lại con người và phẩm giá của con người.

Vì gần 15 năm nay Croatia đã bước vào con đường tự do và dân chủ. Khi nước này tin tưởng và hy vọng hướng về tương lai, giờ đây nó cần phải củng cố, bằng việc đóng góp một cách có trách nhiệm và quảng đại của hết mọi người, một tình trạng vững vàng về xã hội có thể phát triển hơn nữa về công ăn việc làm vững chắc, về việc trợ giúp xã hội, về guồng máy giáo dục cởi mở cho tất cả mọi con người trẻ, và về tình trạng thoát khỏi tất cả mọi hình thức nghèo khổ và chênh lệch, trong một bầu khí liên đới thân tình với các quốc gia lân bang.

Tôi kêu xin Thánh Giuse, Quan Thày của Croatia, và Trinh Nữ Maria, Đấng Cầu Bầu của Croatia, Người Hết Sức Mẹ Trung Thành, chuyển cầu cho những hướng vọng ấy.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho mảnh đất này cũng như cho nhân dân của nó!

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 8/6/2003.

 


Lời Chào Biệt ở Forum Zadar Thứ Hai 9/6/2003: “Hãy đến gần Mẹ và học theo gương Mẹ”.
 

1. Chuyến Tông Du của Tôi ở Croatia đã đến lúc kết thúc, Tôi sung sướng được tham dự với anh chị em, tín hữu của TGP Zadar và các vùng lân cận, ở Công Trường Diễn Đàn dưới bóng của Vương Cung Thánh Đường Thánh Anastasia, vị tử đạo ở Sirmio. Chúng ta tập trung ở nơi đây để cử hành buổi Cầu Nguyện Ban Trưa, giờ kinh Sext.

Nhân danh Chúa Tôi chào anh chị em với lòng cảm mến, khi Tôi nhớ lại sự hiện diện của vị tiền nhiệm của Tôi, Đức Alexander III, Vị đã dừng chân ở thành phố này vào Tháng Ba năm 1177 và đã thăm một số nơi quanh vùng. (Lời chào quí vị trong giáo quyền và chính quyền).

2. Cuộc họp nhau cử hành phụng vụ đây diễn ra sau Ngày Lễ Trọng Kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, ngày nhân dân Croatian cử hành ngày lễ của Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội. Bài đọc chúng ta vừa trình thật cho thấy Mẹ Maria ở Nhà Tiệc Ly, chung quanh Mẹ là một cộng đồng sơ khai. Nhóm nhỏ này, tập họp ở “căn thượng lầu” của ngôi nhà (Acts 1:13), nguyện cầu và chờ đợi. Khi Chúa Thánh Thần đến, các cánh cửa phòng bật mở, làm cho việc rao giảng Phúc Âm được phổ biến ở các đường phố Giêrusalem, rồi sau đó ở trên các nẻo đường thế giới.

Như vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Đức Trinh Nữ vẫn ở giữa tín hữu Kitô giáo qua các thế kỷ, kêu cầu việc liên lỉ tuôn để các tặng ân của Thần Linh xuống trên Giáo Hội khi Giáo Hội phải đương đầu với những khó khăn thử thách nổi lên ở các giai đoạn khác nhau trong giòng lịch sử của Giáo Hội.

Như thế Mẹ Maria thi hành trọn vẹn sứ vụ của mình là một Người Mẹ: Người là Mẹ chẳng những vì Người đã hạ sinh và nuôi dưỡng Con Thiên Chúa; Người còn là Mẹ vì Người là “Vị Trinh Nữ đã trở thành Giáo Hội”, như Thánh Phanxicô Assisi thích gọi Mẹ như thế (x Fontes Francescani, 259). Cả Thánh Phanxicô nữa cũng đã đi qua Zadar vào đầu thế kỷ 13, trong cuộc hành trình về Phương Đông và về Thánh Địa của thánh nhân.

3. Trinh Nữ Maria, khi qui tụ chung quanh mình những vị Tông Đồ và các người môn đệ, thành phần đã hoảng chạy tán loạn, đã hiến dâng các vị cho “ngọn lửa” của Thần Linh, Đấng sẽ sai các vị lên đường truyền giáo. “Cảm thức đức tin” của Dân Kitô giáo sẽ nhận thấy sự hiện diện chủ động của Mẹ Maria, chẳng những ở cộng đồng tiên khởi, mà còn suốt giòng lịch sử Giáo Hội nữa. Vì lý do này Giáo Hội đã không ngần ngại tặng Mẹ tước hiệu “Nữ Vương Các Tông Đồ”.

Rất Thánh Trinh Nữ, Đấng mà theo lời của Thánh Ký Luca, “đã giữ tất cả những sự ấy mà suy niệm trong lòng” (2:19), tiếp tục gợi lên trí nhớ của các tín hữu những biến cố lịch sử làm nền tảng đức tin của họ. Là một chứng nhân cho các nguồn gốc của Giáo Hội và là bảo đảm viên cho lòng trung tín của Kitô hữu hết mọi thế hệ, Mẹ Maria lập lại trong mọi thời đại những lời Mẹ đã nói ở tiệc cưới Cana, đó là “Hãy làm những gì Người bảo” (Lk 2:5).

4. Những lời nói và gương mẫu của Mẹ Maria là tiêu biểu cho một thứ học đường cao sang dạy sống động, một học đường đã hình thành các vị tông đồ. Các vị tông đồ ngày xưa cũng như các vị tông đồ ngày nay. Mẹ Maria tiếp tục sửa soạn cho họ thực hiện sứ vụ truyền giáo bằng lời Mẹ nhiệt thành nguyện cầu cùng Chúa Cha, bằng việc Mẹ gắn bó với Con Mẹ, cũng như bằng việc Mẹ cởi mở trước tác động của Thần Linh.

Tôi lấy làm vui khi biết rằng Tổng Giáo Phận này đã chứng kiến thấy trong những năm gần đây tình trạng phát triển và lan tràn những hình thức khác nhau của việc giáo dân dấn thân và làm tông đồ. Anh chị em thân mến, anh chị em hãy học nơi Mẹ Maria cách trở thành những chứng nhân khả tín và những vị tông đồ quảng đại, khi anh chị em góp phần của mình vào cộng cuộc cao cả của việc tân truyền bá phúc âm hóa. Anh chị em đừng bao giờ quên rằng một vị tông đồ chân thực trước hết cần phải hội ngộ thân mật với Chúa Giêsu là Đấng Hằng Sống và là Chúa (x Rev 1:17-18).

5. Mẹ Maria Rất Thánh vẫn là một mô phạm cho tất cả mọi người nghe lời Chúa và thực hành lời Ngài (x Lk 8:21). Bởi thế làm sao lại không có một sự hiểu biết thiêng liêng sâu xa giữa tất cả mọi tín hữu với Vị Trinh Nữ của Ca Vịnh Ngợi Khen? Thành phần nghèo khổ và thành phần khiêm nhu ở hết mọi thời đại đã không lầm lẫn khi họ coi Mẹ Maria thầm lặng làm Vị Bầu Cử của mình và Mẹ Maria phục vụ làm Nữ Vương của họ.

Chúng ta hãy đến gần Mẹ và học theo tinh thần của Mẹ đơn sơ và cởi mở đối với Thiên Chúa. Là những con người hành trình của ngàn năm thứ ba, chúng ta cũng hãy phó mình cho việc chuyển cầu của Mẹ, để nhờ lời Mẹ nguyện cầu, Mẹ bảo trì đức tin của chúng ta, nuôi dưỡng đức cậy của chúng ta và trổ sinh đức mến của chúng ta:

Mẹ Maria Thánh Hảo, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ riêng của chúng con,
Xin Mẹ hãy ghé mắt nhìn xuống tất cả đoàn con cái của Mẹ
Và hãy đến cứu giúp chúng con.

Xin Mẹ hãy dẫn chúng con đến cùng Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống;

Từ Chúa Cha, xin Mẹ hãy nài xin cho chúng con các tặng ân của Thần Linh,
Cầu xin cho chúng con được bảo vệ khỏi mọi cạm bẫy và thoát khỏi tất cả mọi sự dữ.
Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết làm chứng nhân
Cho sự phong phú của tình yêu cũng như cho ý nghĩa đích thực của đời sống;
Xin Me dạy chúng con biết cùng Mẹ xây dựng Vương Quốc của Con Mẹ
Một Vương Quốc công chính, yêu thương và an bình.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 9/6/2003.
 

9/6 Thứ Hai

Bài Giảng Lễ Thánh Thần Hiện Xuống ở Croatia về đời sống hôn nhân gia đình

1. Vào những ngày cuối cùng của cuộc đời trần gian, Chúa Giêsu hứa hẹn với các môn đệ của mình tặng ân Thánh Linh như di sản cao cả nhất của Người, như việc Người tiếp tục hiện diện.

Bài Phúc Âm vừa được công bố đã làm cho chúng ta sống lại giây phút hiện thực của lời hứa này, đó là việc Chúa Phục Sinh hiện ra ở Nhà Tiệc Ly, chào các môn đệ, thở hơi trên các vị mà phán: ‘Các con hãy lãnh nhận Thánh Thần’ (Jn 20:22). Lễ Hiện Xuống, như được diễn tả trong bài đọc thứ nhất hôm nay trích từ Sách Tông Vụ, là biến cố được thể hiện một cách công khai sau 50 ngày Chúa Giêsu đổ tặng ân ấy xuống trên các môn đệ của Người vào tối Ngày Phục Sinh.

Giáo Hội Chúa Kitô bởi thế luôn luôn ở trong tình trạng Thánh Thần Hiện Xuống, bởi vì Giáo Hội luôn tập trung cầu nguyện ở Nhà Tiệc Ly, đồng thời, được thúc đẩy bởi ngọn gió Thần Linh, Giáo Hội cũng luôn luôn giảng dạy trên các đường phố. Giáo Hội bao giờ cũng trẻ trung và sống động, duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, vì Thần Linh liên lỉ xuống trên Giáo Hội để nhắc nhở Giáo Hội về tất cả những gì Chúa Kitô đã nói với Giáo Hội (x Jn 14:25), và dẫn dắt Giáo Hội vào tất cả sự thật (x Jn 16:13).

2.- (Chào các vị trong giáo quyền và chính quyền, cách riêng các gia đình)

Tôi đặc biệt chào nhiều gia đình hiện diện nơi đây trong ngày giành cho gia đình này: anh chị em là một yếu tố quan trọng của xã hội cũng như của Giáo Hội, vì “hôn nhân và gia đình làm nên một trong những giá trị cao quí nhất của nhân loại” (Tông Huấn Familiaris Consortio, 1).

3.- Chúng ta qui tụ lại dưới chân ngọn đồi này, bên dưới Đền Thánh Trsat, nơi mà, theo truyền thống đạo đức kể lại, thì ngôi nhà của Trinh Nữ Maria đã dừng lại. Việc nhớ lại đời sống của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse ở Nazarét nhắc nhở chúng ta về cái vẻ đẹp của khổ hạnh và tính cách giản dị, cũng như về tính cách linh thánh và bất khả vi phạm của gia đình Kitô hữu.

Trong việc chiêm ngưỡng Mẹ Maria và Thánh Giuse hiến dâng Con Trẻ Giêsu trong Đền Thánh hay trong cuộc hành trình lên Giêrusalem của các vị, cha mẹ Kitô hữu có thể thấy hình ảnh về mình, khi họ tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật với con cái của họ hay tập trung cầu nguyện ở nhà. Đền đây Tôi muốn nhắc lại chương trình được các vị Giám Mục của anh chị em phát động những năm trước đây ở Nin, đó là “Gia đình Công Giáo Croatia hằng ngày cầu nguyện và hằng tuần cử hành Thánh Lễ”. Nếu điều này xẩy ra, thì thực sự anh chị em tỏ ra tôn trọng sự thánh hảo của Ngày Chúa Nhật, ngày cho các phần tử trong gia đình cùng nhau suy tư và hợp nhau thực hiện việc thờ phượng Thiên Chúa.

Hiện nay, gia đình, cả ở Croatia nữa, đòi phải đặc biệt chú trọng và đòi phải có những qui chế cụ thể trong việc cổ võ và bảo vệ bản tính tự nhiên của gia đình, việc phát triển và vững bền của gia đình. Ngoài các điều khác, Tôi đang nghĩ đến những vấn đề trầm trọng liên quan tới vấn đề nhà cửa và việc làm. Anh chị em không được quên rằng, trong việc giúp đỡ gia đình, chúng ta cũng giúp giải quyết các vấn đề quan trọng khác nữa, như trợ giúp thành phần yếu đau và già lão, chặn đứng việc lan tràn của tội ác, và tìm kiếm phương dược chữa trị việc nghiện hút.

4. Các gia đình Kitô giáo thân mến, anh chị em đừng sợ phải trình bày với kẻ khác, trước hết và trên hết bằng chứng từ đời sống của anh chị em, dự án chân chính của Thiên Chúa về gia đình như là một cộng đồng sự sống được thiết lập trên đời sống hôn nhân, nói cách khác, trên mối hiệp nhất vững vàng và thủy chung của con người nam nữ, một mối hiệp nhất liên kết với nhau bằng một mối giây được công khai biểu bày tỏ và nhìn nhận.

Anh chị em có trách nhiệm giáo dục con cái mình về phương diện nhân bản và Kitô giáo, đồng thời cũng tin tưởng vào sự trợ giúp chuyên môn của các nhà giáo dục và giáo lý tận tâm có khả năng. Thành phố Rijeka này tôn kính Thánh quan thày Vitus, một con người trẻ trung không ngần ngại hy sinh mạng sống của mình để giữ lòng trung thành với Chúa Kitô là Đấng ngài đã học được từ cha mẹ thánh của mình là Modestus và Crescentia. Như hai người làm cha làm mẹ thán h thiện này, anh chị em cũng phải giúp cho con cái mình gặp gỡ Chúa Giêsu mà theo Người theo con đường dẫn tới niềm vui chân chính, ngay cả giữa những chước cám dỗ thách đố giới trẻ.

Trong việc thi hành tác vụ làm cha mẹ của mình, anh chị em đừng thôi lập lại lời kêu cầu mà qua nhiều thế kỷ dân thành Rijeka tin tưởng dâng lên Cây Thập Tự làm phép lạ được tôn kính ở Vương Cung Thánh Đường của họ: “Pomogao nam sveti Kriz svetog Vida!” (Xin Cây Thập Giá thánh của Thánh Vitus đến cứu giúp chúng con!”).

5. Xã hội ngày nay đang bị phân mảnh và chia rẽ một cách thảm thương. Đó là lý do tại sao nó bị khắc khoải một cách thất vọng. Thế nhưng, Kitô hữu không lùi bước trước nỗi nhọc nhằn hay bị tê liệt bởi sự trì trệ. Chớ gì anh chị em là một dân tộc của niềm hy vọng! Chớ gì anh chị em là một dân tộc nguyện cầu: “Từ bốn phương trời xin hãy đến, Ôi hơi thở, để thổi trên những sát tử thi này để chúng được sống” (Ez 37:14). Chớ gì anh chị em là một dân tộc tin vào Lời Chúa nói, Lời được hoàn tất nơi Chúa Kitô: “Ta sẽ đặt Thần Linh của Ta trong các ngươi để các ngươi được sống, và Ta sẽ đặt các ngươi vào đất của các ngươi; nhờ đó các ngươi biết rằng Ta là Chúa đã nói và Ta sẽ thực hiện, Chúa Phán” (Ez 37:14).

Ước vọng của Chúa Kitô đó là tất cả mọi dân tộc được hiệp nhất nên một trong Người, để tất cả mọi ngươiụi cảm nghiệm được trọn vẹn niềm vui của Người (x Jn 15:11, 17:13). Cả đến hôm nay, Người cũng muốn bày tỏ nỗi ước mong này nữa đối với Giáo Hội là chính chúng ta đây. Vì lý do này, Người, cùng với Cha, đã sai Thánh Thần đến với chúng ta. Thần Linh không thôi hoạt động ở chỗ thắng vượt hết mọi chia rẽ và chữa lành hết mọi vết thương.

6. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta rằng “hoa trái của Thần Linh là yêu thương, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, thiện hảo, thành tín, hiền lành, tự chủ” (Gal 5:22-23). Hôm nay Vị Giáo Hoàng này kêu xin các tặng ân này của vị Thần Linh này xuống trên tất cả mọi cặp vợ chồng Croatia, để nhờ việc trao tặng mình cho nhau, trung thành với nhiệm vụ của đời sống hôn nhân cũng như phục vụ Phúc Âm, họ trở thành một dấu hiệu của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại trên thế gian này.

Tôi kêu xin những tặng ân này cho tất cả mọi anh chị em đang tham dự vào cuộc cử hành này, cũng như cho tất cả những ai ở đây để tái xác nhận việc anh chị em quyết tâm làm chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm của Người.

“Lạy Thánh Thần, xin hãy đến tràn đầy lòng trí các tín hữu của Ngài và đốt lên nơi họ ngọn lửa yêu thương” (Lời công bố Phúc Âm).
Xin Thánh Linh hãy đến. Amen.

Bài Giảng trong Thánh Lễ ở Osijek-Cepin Airfield về “Ơn gọi của Kitô hữu là nên thánh”.
 

1. “Tôi xin anh em hãy sống một đời sống xứng đáng với ơn gọi anh em đã được kêu gọi” (Eph 4:1). Thánh Phaolô viết những lời này cho tín hữu Êphêsô. Anh chị em thân mến, lời huấn dụ của thánh nhân vang vọng hôm nay nơi cộng đồng chúng ta đây rất đúng lúc.

Thế nhưng, ơn kêu gọi của một người Kitô hữu là gì? Câu trả lời gắt gao nhưng rõ ràng: ơn gọi của một người Kitô hữu là nên thánh. Đó là ơn gọi bắt nguồn từ Phép Rửa và được các bí tích làm mới lại, nhất là Bí Tích Thánh Thể.

Anh chị em thuộc các Giáo Phận Djakovo và Srijem thân mến, Vị Giám Mục Rôma đã đến giữa anh chị em hôm nay đây để nhân danh Chúa Kitô nhắc nhở anh chị em rằng anh chị em được kêu gọi nên thánh suốt cả cuộc đời: ở mùa xuân của tuổi trẻ, mùa hè của thành niên, rồi mùa thu và mùa đông của tuổi già, sau hết vào trong giờ lâm tử và thậm chí cả sau giờ lâm chung, tức trong cuộc thanh tẩy cuối cùng được tình yêu nhân hậu Thiên Chúa ấn định từ trước.

2. Hôm nay đây Tôi muốn nhắc lại sự thật nồng cốt này, khi Tôi cùng với anh chị cử hành việc long trọng kết thúc Công Đồng thứ hai của Giáo Hội địa phương anh chị em, một Công Đồng được anh chị em giành gần năm năm trời để nguyện cầu và suy tư về đề tài: “Anh chị em là Chúa Kitô đối với chúng tôi cũng như đối với tất cả mọi con người nam nữ”. Chớ gì Công Đồng này trổ sinh muôn vàn hoa trái cho việc canh tân cuộc dấn thân Kitô giáo ở đất nước liên kết chặt chẽ với Tòa Thánh Phêrô. Thật vậy, hôm nay, mùng 7/6, là ngày mừng kỷ niệm Đức Giáo Hoàng Gioan VIII vào năm 879 đã gửi những bức thư cho Ông Hoàng Branimir cũng như cho Đức Giám Mục Throdosius, những bức thư đánh dấu một ngày quan trọng trong lịch sử của anh chị em.

(Chào các vị trong Giáo Hội Công Giáo, các cộng đồng Kitô giáo, các tôn giáo ngoài Kitô giáo như Do Thái Giáo và Hồi Giáo, cùng các vị thẩm quyền dân sự).

3. “Thày sai các con đi để sinh hoa trái và cho hoa trái của các con tồn tại” (Jn 15:16). Làm thế nào chúng ta lại không tạ ơn Thiên Chúa về việc thành phần tín hữu giáo dân nam cũng như nữ từ sau Công Đồng Chung Vaticanô II ý thức hơn nữa về phẩm giá của bí tích rửa tội là phẩm giá của họ chứ? Những người môn đệ của Chúa Kitô không bao giờ có thể vun trồng được một cách đầy đủ ý thức về căn tính xứng hợp của mình. Đó thực sự là kiểu mẫu sống cho sứ vụ của họ.

Bởi thế mới có những vấn đề thiết yếu chúng ta cần phải tiếp tục giải đáp, chẳng hạn như tôi đã làm gì với Phép Rửa Tội và Phép Thêm Sức của tôi? Chúa Kitô có thực sự là tâm điểm của cuộc đời tôi sống hay chăng? Tôi có giành thì giờ cho việc cầu nguyện trong ngày hay chăng? Tôi có sống cuộc đời của mình như là một ơn gọi và là một sứ vụ hay chăng?

4. Vào lúc mở màn cho thiên niên kỷ thứ ba này, Thiên Chúa đang kêu gọi các tín hữu, nhất là giáo dân, dấn thân vào cuộc truyền giáo mới mẻ. Sứ vụ không phải là “một cái gì thêm thắt” vào ơn gọi của Kitô hữu. Thật vậy, Công Đồng Chung Vaticanô II đã nói rằng ơn gọi Kitô hữu tự bản chất là một ơn gọi làm việc tông đồ (cf. Apostolicam Actuositatem, 2).

Anh chị em thân mến, Giáo Hội ở Slavonia và Srijem vẫn cần đến anh chị em! Sau nhiều lần nếm mùi chiến tranh là những gì còn hắn vết thương đau chưa hoàn toàn lành mạnh nơi dân chúng ở miền này, cần phải thực hiện một cuộc dấn thân tiến đến chỗ hòa giải, kết đoàn và công bằng xã hội nơi những con ngươiụi cá nhân được đức tin chi phối, cởi mở trước tình yêu huynh đệ và lo bênh vực phẩm giá con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa.

Tín hữu giáo dân nam nữ thân mến, anh chị em được kêu gọi để quảng đại lãnh nhận lấy phần trách nhiệm của mình đối với đời sống của các cộng đồng kitô hữu của anh chị em. Hình ảnh được các giáo xứ biểu hiệu, như những nơi tiếp nhận và truyền giáo, cũng lệ thuộc vào anh chị em. Là những người thông phần vào vai trò tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô (x Lumen Gentium, 34-36), một vai trò được thăng tiến bởi các tặng ân Thánh Thần, anh chị em có thể góp phần vào những lãnh vực phụng vụ và giáo lý, cũng như vào việc ủng hộ truyền giáo và nhiều thứ hoạt động bác ái khác nhau. Không một người đã lãnh nhận phép rửa nào được phép ngồi không!

Anh chị em đừng nản chí trước những trường hợp rắc rối! Hãy tìm kiếm bằng nguyện cầu nguồn mạch của tất cả sức mạnh cần thiết cho việc tông đồ và hãy kín múc từ Phúc Âm thứ ánh sáng soi dẫn đường đi nước bước cho anh chị em.

5. “Chúa cao cả nơi tất cả mọi việc Ngài làm”, Bài Đáp Ca công bố như thế. Trên chuyến bay đến Osijek, Tôi có dịp nhìn ngắm vẻ đẹp của bình nguyên Slovonia, một bình nguyên mang danh “kho chứa của Croatia”, và Tôi tự nhiên nghĩ đến các người lao động đồng áng quá nhiều ở vùng này. Tôi đặc biệt chào họ với lòng cảm mến.

Anh chị em thân mến, Tôi biết rằng đời sống của anh chị em là một đời sống khó nhọc và việc sản xuất hoa trái của trái đất này nhiều khi không đáp ứng việc làm khó nhọc đòi anh chị em phải thực hiện. Tôi cũng biết rằng công việc đồng áng có những khó khăn trầm trọng riêng của nó: ở chỗ nó đã làm mất đi một phần giá trị của nó, nên người trẻ đã chọn sống ở ngoại ô ngay cả trước khi cuộc chiến vừa rồi xẩy ra, một cuộc chiến đã để lại nhiều làng mạc rất hiếm có người ở.

Tôi mời gọi anh chị em đừng đánh mất niềm tin tưởng và hãy nhớ rằng bằng việc làm tay chân của mình, những công việc hùng hồn nhắc lại nhiệm vụ Thánh Linh đã được trao phó cho con người trong việc “làm chủ” trái đất cũng như “cai trị” thế giới hữu hình (x Gen 1:28), anh chị em là “những hợp tác viên” của Thiên Chúa Hóa Công. Anh chị em hãy biết rằng Vị Giáo Hoàng này và Giáo Hội gần gũi với anh chị em, và hết sức cảm phục tầm quan trọng cũng như phẩm giá của lao công vất vả nơi anh chị em, cả hai cầu nguyện cho việc đồng áng cũng như cho những người thợ đồng áng, cả nam lẫn nữ, để họ được nhiòn nhận trong toàn diện việc phát triển cộng đồng (cf. Gaudium et Spes, 67; Laborem Exercens, 21).

7. Thánh Tông Đồ Phaolô đã nhắc nhở chúng ta rằng chỉ có “một Thiên Chúa và là Cha của tất cả chúng ta, Đấng ở trên tất cả, nhờ tất cả và trong tất cả. Kitô hữu có thể làm biến đổi thế giới…….

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của Vatican được Zenit phổ biến ngày 8/6/2003)
 

8/6 Chúa Nhật

Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi

Theo tinh thần gắn bó với Giáo Hội, Phong Trào Thiếu Nhi Fatima luôn học hỏi những gì được Đức Thánh Cha nhắn nhủ và kêu gọi cho giới trẻ. Chẳng hạn Thiếu Nhi Fatima đã học hỏi các sứ điệp của ĐTC gửi cho riêng giới trẻ từ năm 1997 đến 1999 để sửa soạn Mừng Đại Năm Thánh 2000, sau đó, từ năm 2001, hằng năm Thiếu Nhi Fatima cũng lấy sứ điệp của Ngày Giới Trẻ Thế Giới hằng năm để làm đề tài cho Khóa Tĩnh Huấn cuối năm, như năm 2001 “Các con là muối đất, là ánh sáng thế gian”, đề tài cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XVII ở Canada vào tháng 7/2002. Ngoài ra, trong buổi Tĩnh Tâm Mùa Chay hằng năm, Thiếu Nhi Fatima cũng lấy các sứ điệp của ĐTC về mùa chay trong năm đó để suy niệm và chia sẻ, như năm 2003 về đề tài “Cho đi phúc hơn nhận lãnh”.

Riêng Năm Mân Côi được bắt đầu từ ngày 16/10/2002 tới 19/10/2003, Thiếu Nhi Fatima cũng học hỏi Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Bằng cách có 5 đoàn, mỗi đoàn phụ trách một phần của bức Tông Thư, ba phần thân cùng với phần mở và kết. Đoàn nào tới phiên tổ chức Thứ Bảy Đầu Tháng tại đoàn mình sẽ phụ trách trình bày và chia sẻ phần Tông Thư được chỉ định. Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng Thánh Tâm 7/6/2003 tới phiên Đoàn Thiếu Nhi Fatima Đức Mẹ Mân Côi Pomona trình bày và chia sẻ phần Mở Đầu của Bức Tông Thư. Em huynh trưởng đại diện đoàn đã không nói hoàn toàn trong giới hạn về phần Mở Đầu mà là nói đến điểm cốt lõi của Bức Tông Thư, điểm đã đánh động em, (vì em đã đọc hết văn kiện này bằng tiếng Anh), đó là vấn đề Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi.

Lợi dụng dịp này, tôi cũng bổ túc thêm cho những gì em này cảm nhận và đồng thời cho chung các em Thiếu Nhi Fatima tham dự bấy giờ biết cách để chứng minh Chúa Kitô quả thực là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi. Những đoạn tiêu biểu Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh cái cốt lõi của Kinh Mân Côi trong Bức Tông Thư của Ngài như sau:

•     “Mặc dù rõ ràng là mang đặc tính Thánh Mẫu, Kinh Mân Côi tự bản chất là một kinh nguyện có tâm điểm là Chúa Kitô. Nơi những yếu tố bình dị của mình, Kinh Mân Côi chất chứa tất cả những gì sâu xa của toàn thể sứ điệp Phúc Âm, có thể nói được rằng Kinh Mân Côi là một tổng hợp Phúc Âm (Pope Paul VI, Apostolic Exhortation Marialis Cultus [2 February 1974], 42: AAS 66 [1974], 153). Kinh này còn là tiếng vọng của lời Mẹ Maria cầu nguyện, đó là Ca Vịnh Ngợi Khen bất hủ của Mẹ về công cuộc của Việc Nhập Thể cứu chuộc được bắt đầu trong cung lòng trinh nguyên của Mẹ”.

•     “Có điều rõ ràng là, mặc dù Kinh Mân Côi lập đi lập lại được trực tiếp dâng lên Mẹ Maria, nhưng tác động yêu thương với Mẹ và nhờ Mẹ cuối cùng lại được nhắm đến Chúa Giêsu. Việc lập đi lập lại được nuôi dưỡng bằng ước muốn nên giống Chúa Kitô hoàn toàn hơn, một hoạt trình đích thực của đời sống Kitô hữu… Kinh Mân Côi giúp chúng ta nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn cho đến khi chúng ta đạt tới tầm mức thánh thiện thực sự” (đoạn 26).

Thế rồi, sau khi chứng thực cho các em thấy Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi, tôi tiếp tục cho các em biết rằng Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi có thể được chứng thực qua ba điều, thứ nhất qua cấu trúc của chính tràng hạt Mân Côi, thứ hai qua ý nghĩa hay nội dung của Kinh Kính Mừng, và thứ ba qua bố cục của Kinh Mân Côi.

Trước hết, Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi qua cấu trúc của Tràng hạt mân Côi, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Ngài về cây thánh giá vừa là khởi điểm vừa là qui điểm của tràng chuỗi Mân Côi như sau:

•     “Việc lần hạt Mân Côi từ trước đến nay vẫn được thi hành bằng việc sử dụng một cỗ tràng hạt. Nếu lần hạt mà chẳng để ý gì lắm thì các hạt chuỗi thường trở thành một cái máy thuần túy đếm thứ tự các Kinh Kính Mừng. Tuy nhiên, những hạt chuỗi này cũng có thể trở thành một biểu hiệu cho việc sâu xa chiêm niệm nữa. Ở đây, điều đầu tiên phải để ý là cách thức những hạt chuỗi này đồng qui nơi Cây Thánh Giá, nơi vừa mở ra lại vừa đóng lại cái tiến trình tỏ hiện của việc nguyện cầu. Đời sống và việc cầu nguyện của người tín hữu được tập trung vào Chúa Kitô. Hết mọi sự được bắt đầu từ Người, hết mọi sự đều qui về Người, hết mọi sự nhờ Người mà đến cùng Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần” (đoạn 36).

Sau nữa, Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi ở chỗ ý nghĩa hay nội dung của Kinh Kính Mừng, một ý nghĩa và nội dung được tập trung nơi câu “Và Giêsu Con lòng bà gồm phúc lạ”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cập đến điều này như sau:

•     “Trọng tâm nơi Kinh Kính Mừng, cái then chốt thực sự gắn nối hai phần của kinh này lại với nhau đó là tên của Chúa Giêsu. Đôi khi, vì vội vàng lần hạt chúng ta đã không để ý đến trọng tâm này cho lắm, và bởi thế cũng chẳng chú ý tới việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm Chúa Kitô liên quan đến trọng tâm ấy. Tuy nhiên, chính việc chăm chú đến danh của Chúa Giêsu cũng như đến mầu nhiệm của Người là dấu hiệu chứng tỏ việc lần hạt Mân Côi có ý vị và hiệu quả” (đoạn 33.2).

Thật vậy, mở đầu Kinh Kính Mừng là lời Sứ Thần Gabiên chúc tụng Mẹ: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Thế nhưng, tại sao Mẹ Maria được Đầy Ơn Phúc? Nếu không phải vì “Đức Chúa Trời ở cùng Bà”. Và tại sao “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ”? Nếu không phải vì “Giêsu Con lòng bà gồm phúc lạ”.

Chưa hết, Mẹ Maria “đầy ơn phúc” không phải chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa ở cùng, và “có phúc hơn mọi người nữ” không phải chỉ vì Mẹ được diễm hạnh thụ thai, cưu mang và cho Con Chúa Trời bú (x Lk 11:27), mà còn “có phúc vì đã tin những gì Chúa phán sẽ được thực hiện” (Lk 1:45). Đó là lý do, ở Mầu Nhiệm Mùa Thương, dù Con Mẹ có bị khổ nạn thế nào đi nữa, nhất là có bị đóng đanh trên thập giá chất vô cùng thảm thương và ô nhục mấy đi nữa, chúng ta vẫn chúc tụng Mẹ: “Kính mừng Maria đầy ơn Phúc”. Nếu chính bản thân và cả cuộc đời của Mẹ Maria tập trung vào Chúa Kitô và hiệp nhất với Chúa Kitô, “Giêsu Con lòng bà gồm phúc lạ”, như thế, thì quả thực Chúa Kitô chính là Tâm Điểm cho ý nghĩa và nội dung của Kinh Kính Mừng vậy, một Kinh tóm gọn tất cả mọi sự về Mẹ Maria, một kinh gói ghém tất cả Mầu Nhiệm Maria.

Chính vì thế, dù cả đời của mình, từng giây từng phút, chúng ta có lập lại lời Kinh Kính Mừng này, một lời kinh được Thánh Linh phát ngôn qua cửa miệng thần trời và thánh nhân, chúng ta, với tư cách cá nhân, cũng không xứng đáng và hoàn toàn chúc tụng Mẹ Maria cho đủ, vì Mẹ là kỳ công ân sủng tuyệt vời nhất của Thiên Chúa. Ðó là lý do chúng ta cứ phải lập đi lập lại Kính Mừng Maria mãi mãi để chúc tụng Mẹ. Tuy nhiên, khi chúng ta chúc khen Mẹ diễm phúc là chúng ta cùng với Mẹ chúc tụng chính Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ những sự lạ lùng vậy (x Lk 1:49). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bày tỏ cảm nhận này trong Tông Thư Kinh Mân Côi như sau:

•     “Khi hiểu đúng Kinh Kính Mừng, chúng ta sẽ thấy một cách rõ ràng là tính cách Thánh Mẫu của kinh này không nghịch lại với đặc tính Kitô học của kinh ấy, nhưng lại là đặc tính được kinh này thực sự nhấn mạnh và đề cao… Việc lập đi lập lại Kinh Kính Mừng nơi Kinh Mân Côi làm cho chúng ta được thông phần vào việc Thiên Chúa ngắm nghía và mãn nguyện, ở chỗ, chúng ta hân hoan thán phục nhìn nhận phép lạ cả thể nhất lịch sử loài người. Lời tiên tri của Mẹ Maria ở đây đã được nên trọn: ‘Từ nay hết mọi thế hệ sẽ khen tôi diễm phúc’ (Lk 1:48)” (đoạn 33.1).

Sau hết, Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi ở bố cục của Kinh Mân Côi. Đúng thế, Kinh Mân Côi có hai phần rõ rệt, phần khẩu nguyện, với kinh chính yếu là Kinh Kính Mừng, và phần tâm nguyện, phần bao gồm 20 Mầu Nhiệm Chúa Kitô (kể cả 5 Mầu Nhiệm Ánh Sáng mới được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thêm vào trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria từ đầu Năm Mân Côi 16/10/2002).

Theo Đức Thánh Cha Phaolô VI và Gioan Phaolô II thì bởi vì các Mầu Nhiệm Chúa Kitô là hồn sống của Kinh Mân Côi, mà Kinh Mân Côi tự bản chất là một kinh nguyện chiêm niệm, một yếu tố chiêm niệm mà nếu không được thực hiện thì việc lần hạt Mân Côi chẳng khác gì như một cái xác vô hồn.

•     “Chính vì được bắt nguồn từ cảm nghiệm riêng của Mẹ Maria, Kinh Mân Côi là một kinh chiêm niệm tuyệt hảo. Thiếu chiều kích chiêm niệm này, Kinh Mân Côi sẽ mất đi ý nghĩa của mình, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tỏ tường vạch ra cho thấy điều ấy: ‘Thiếu chiêm niệm, Kinh Mân Côi là một cái xác không hồn, và việc lần hạt có nguy cơ sẽ trở thành một việc lập đi lập lại theo công thức như máy móc, một việc phạm đến lời cảnh cáo của Chúa Kitô: Khi cầu nguyện chớ lảm nhảm như kiểu của Dân Ngoại, vì họ nghĩ rằng cứ phải nhiều lời thì việc cầu nguyện của họ mới có công hiệu (Mt 6:7). Tự bản chất của mình, việc lần hạt Mân Côi đòi phải có một nhịp điệu nhẹ nhàng và một tốc độ chậm rãi, giúp cho con người nhờ đó có thể suy niệm về các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Kitô là những gì đã được nhìn thấy bằng ánh mắt của Vị ở gần Người nhất. Nhờ đó, kho tàng khôn thấu của các mầu nhiệm này mới được tỏ hiện’ (Apostolic Exhortation Marialis Cultus [2 February 1974], 47: AAS [1974], 156)”.

Tóm lại, chính vì Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã định nghĩa việc lần hạt Mân Côi hay cầu kinh Mân Côi là việc cùng Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô:

•     “Hãy chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô với Mẹ Rất Thánh của Người và tại học đường của Mẹ Người. Việc lần hạt Mân Côi không là gì khác ngoài việc cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô” (Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, đoạn 3).

•     “Bằng việc đọc lên những lời của Thiên Thần Gabiên và của bà Thánh Isave trong Kinh Kính Mừng, chúng ta cảm thấy mình liên lỉ được thúc đẩy tìm kiếm lại nơi Mẹ Maria, nơi đôi cánh tay của Mẹ, cũng như nơi trái tim của Mẹ, ‘quả phúc của lòng Mẹ’” (đoạn 24).
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, Thứ Bảy Đầu Tháng Thánh Tâm, 7/6/2003
 

Tâm Thư Tĩnh Tâm Kairos

Theo thông lệ hằng năm, sau khi năm học kết thúc, trường Trung Học Công Giáo Damien ở San Dimas thuộc TGP Los Angeles tổ chức ba ngày Tĩnh Tâm Kairos (Kairos nghĩa là thời gian đặc biệt) cho học sinh nào muốn tham dự để thăng tiến về tinh thần đạo đức. Hai năm trước đứa con trai lớn của chúng tôi đã tham dự, và năm nay tới phiên cậu con trai thứ hai của chúng tôi. Hôm nay cậu lên đường đi tĩnh tâm cho tới tối Thứ Tư này mới về. Cha mẹ có những người con tham dự được ban tổ chức yêu cầu phải tích cực hỗ trợ con cái mình, bằng cách đến tham dự một Thánh Lễ vào ngày đầu tiên và tham dự tối bế mạc. Nhất là cha mẹ và anh em trong nhà được thúc giục phải viết cho tham dự viên một bức tâm thư và trao trực tiếp cho ban tổ chức (đừng cho tham dự viên biết) để họ trao cho đứa con đọc trong những ngày tĩnh tâm. Sau đây là bức thư chúng tôi đã viết cho con của chúng tôi trng cuộc Tĩnh Tâm Kairos của cháu:

"Giang-Phong, người con yêu quí của bố mẹ.

"Con đã biết rằng bố mẹ rất để ý đến việc đạo đức và tinh thần của các con. Đó là lý do bố mẹ đã gửi các con vào học ở các trường Công Giáo, tốn tiền. Và đó cũng là lý do bố mẹ rất mừng khi thấy các con tự mình chú ý tới việc đọc kinh, lần hạt, dự lễ, đọc sách thiêng liêng v.v. Bố mẹ vẫn nói với các con là dù các con được tất cả mọi sự trên đời này, học hành rất giỏi, nhiều tiền giầu có, nhiều tài nổi tiếng v.v. nhưng nếu các con không có lòng đạo đức, không có đức tin, không biết mến Chúa yêu người, thì tất cả những cái các con có đó sẽ rất nguy hiểm cho các con, thay vì mang lại lợi ích cho các con.

"Con cũng thường nghe bố mẹ nói cuộc đời trần gian của chúng ta đi qua mau chóng lắm. Cuối cùng tất cả mọi sự sẽ qua đi, ai cũng phải chết, nhưng cái gì còn lại nơi mình mới là cái quan trọng, cái làm cho mình sống đời đời đó con, cái đó là đức mến, là tình yêu. Như thế, Giang-Phong ơi, con hãy sống làm sao để đạt tới cùng đích cuộc đời của mình con nhé. Con hãy coi mọi sự là phương tiện để đạt đích, chứ đừng coi phương tiện là cùng đích nhé. Con phải làm chủ mọi sự chứ đừng để mọi sự làm chủ con. Chỉ có Chúa mới là chủ tể của con mà thôi. Và con chỉ làm tôi phụng sự một mình Chúa mà thôi con nhé. Sau này, khi con chết đi, Đấng mà con sẽ con sẽ sống đời đời là Chúa chứ không phải là những gì con yêu thích ở trên đời này, hay không phải là những gì con sợ hãi trên đời này. Con đừng sợ gì nhé, ngoài sợ Chúa. Đừng sợ bạn bè chê bai con không biết những gì họ biết, hay không dám làm những điều họ dám làm trái với lương tâm và hại đến phẩm giá làm người của họ.

"Bố mẹ rất vui mừng khi nghe thấy con muốn tham dự những cuộc tĩnh tâm như thế này, hay tự động muốn làm những việc lành, việc bác ái như sang giúp người ta ở bên Mễ. Bố mẹ cũng rất mừng khi nghe con hỏi bố mẹ về vấn đề đi truyền giáo. Con cũng biết là bố mẹ rất mong ước trong số những đứa con Chúa ban cho bố mẹ có được ít là một đứa dâng mình cho Chúa để làm nữ tu hay làm linh mục. Bố mẹ sẽ cầu nguyện cho tất cả các con. Con hãy mở lòng mình ra để sẵn sàng khi nghe thấy tiếng Chúa mời gọi thì hãy thưa xin vâng và theo Ngài con nhé.

"Bố mẹ sẽ cầu nguyện cho con để con tham dự những ngày tĩnh tâm này cho sốt sắng và có kết quả. Con cũng đừng quên bố mẹ và anh em trong gia đình của con trong những ngày tĩnh tâm gần Chúa này nhé. Xin Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Thiên Chúa. Amen.

"Bố mẹ và anh em của con".

 

(Giáo Hội Hiện Thế các tuần trước)