GIÁO HỘI HIỆN THẾ
Ý Chỉ của Đức Thánh Cha cho Tháng 9/2003
Ý Chung: “Xin cho các xứ sở đang chịu cảnh chiến tranh, khủng bố và bạo loạn được tìm thấy đường lối hòa giải, hòa hợp và hòa bình”.
Ý Truyền Giáo: “Xin cho các cộng đồng Kitô hữu ở Trung Á đang sống giữa thành phần thuộc các truyền thống tôn giáo khác biết dấn thân truyền bá tin mừng Nước Trời bằng chứng từ tích cực đức tin của họ”.
___________________________________________
14-20/9/2003
20/9 Thứ Bảy
Thánh Gioan CHARLES CORNAY TÂN
Linh mục Thừa sai Paris
(1809 - 1837)Thanh Gươm Sẽ Xức Dầu Cho Con
“Lạy Chúa xin nhận lời con thống hối thay cho việc xưng tội, và máu con đổ ra thay cho bí tích xức dầu. Lương tâm con không vương mắc tội trọng nào, nhưng không vì thế, con coi mình là công chính... Xin Đức Maria chứng giám cho việc thống hối, và thanh gươm sẽ xức dầu cho con”.
Đó là lời cầu nguyện và lời chia sẻ chân thành của linh mục Gioan Tân trong ngày bị xử tử. Trước mặt cha giờ đây, một Thiên Chúa công bằng xét định tội phúc, cũng là một Thiên Chúa yêu thương khoan hồng tất cả, khi con người dám dâng trọn vẹn vì tình yêu Ngài.
Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương
Gioan Cornay Tân sinh ngày 28.2.1809 tại Loudun, nước Pháp, trong một gia đình giàu có. Thời niên thiếu, ngoài việc học hành, cậu chỉ vui chới với chúng bạn. Hết bậc thang trung học, được Chúa kêu gọi, cậu xin vào chủng viện Saumur, Mont Morillon, và sau đó vào đại chủng viện Thừa sai Paris năm 1830. Năm sau thầy lãnh chức phó tế, và xuống tàu đi giảng đạo ở Viễn Đông. Khi đến Macao, bề trên phái thầy đi đến tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa, nhưng vì khi đó đường vào Quảng Đông bị cấm ngặt, thầy phải đến Việt Nam, có ý đi bộ theo lối Vân Nam cho an toàn hơn.
Đến Việt Nam thầy lấy tên là Tân và ở xứ An Tôn chờ đợi. Chẳng may hai giáo hữu Trung Hoa qua đất Việt Nam để đón thầy, khi đến Hà Nội lại mắc bệnh dịch tả và qua đời, nên thầy Tân liền xuống địa phận Nam, được Đức cha Harvard Du truyền chức linh mục ngày 20.4.1834. Sau đó, cha ngược lên Sơn Tây phục vụ ở địa phận Tây Đàng Ngoài. Đường đi Trung Hoa vẫn còn trắc trở, nên 1836 cha chính thức xin ở lại Việt Nam, và được gửi đến xứ Bầu Nọ giúp thừa sai Marette. Hỗ trợ cho cha có hai thầy giảng Phaolô Mỹ và Phêrô Đường, sau cũng bị bắt một ngày với cha.
Với cha Tân, Việt Nam là quê hương thứ hai mà cha rất thân thương. Khi mang bệnh nặng, nhiều người đã khuyên cha về Pháp chữa trị, cha nói rằng: “Được Chúa sai đến đây, tôi sẽ không chịu bỏ về, dù phải chết đi nữa”. Và sau này cha đã toại nguyện.
Tình Ngay Lý Gian
ở làng Bầu Nọ có một người tên Đức chỉ huy một băng cướp, đã bị các tín hữu bắt nộp cho quan. Để trả thù, anh ta tố cáo dân làng Bầu Nọ, che giấu linh mục Âu châu. Khi ấy, quan trấn Sơn Tây Lê văn Đức cũng chẳng thiết tha với lệnh bách hại đạo cho lắm, nên cũng lờ đi. Anh liền tố cáo cha Tân xúi dân nổi loạn, y dặn vợ là Yến giả xin học đạo để biết chỗ cha ở, rồi lẻn đến chôn giấu vũ khí trước khi báo cho quan. Lần này y thành công. Quan nghe tin có nổi loạn, liền đưa đại quân gồm 1500 lính đến bao vây làng Bầu Nọ ngày 20.6.1837.
Mới đầu viên lý trưởng Bầu Nọ cũng là người Công giáo, đã tìm cách che chở cho cha Tân, nhưng khi quan đưa ông tới chỗ giấu gươm giáo và đánh đòn điều tra, ông liền tiết lộ chỗ của vị thừa sai. Lúc ấy cha Tân đang núp trong bụi rậm, thấy gươm giáo của lính đâm ngay bên mình, biết là không thoát khỏi, cha đứng dậy bước ra trình diện. Quan liền sai lính đóng gông nhốt vào cũi giải về Sơn Tây.
Cha kể lại trong một lá thơ rằng: “Thứ Năm ngày 22.6, đoàn áp tải khởi hành từ sớm. Suốt con đường tôi cầu nguyện, nói chuyện và ca hát không ngừng. Dân chúng tụ tập và khen tôi vui vẻ quá”. Tiếng hát của cha khá độc đáo và kích thích sự tò mò của nhiều người. Mấy ngày liền, quan bắt cha phải hát, rồi mới ăn. Cha liền chọn một khúc thánh ca chúc tụng Đức Mẹ để hát... Từ đây cha bị nhốt tù gần ba tháng.
Nhận được tin, vua Minh Mạng ủy quyền cho các quan tỉnh cử án. Các quan cho điệu cha ra tòa, ép cha nhận tội phiến loạn. Cha trả lời:
“Thưa quan, chúng tôi chỉ chuyên giảng đạo dạy người ta làm lành lánh dữ, dạy con cái thảo kính cha mẹ, dạy dân vâng phục vua quan. Tôi đâu thể đi ngược lại giáo huấn của mình mà chống đối nhà vua được”.
Ngày 11.8 cha bị năm mươi roi kép bện bằng nhiều sợi giây, đầu mỗi sợi có một miếng chì, khiến thân thể cha bị rách da xé thịt, máu tuôn thắm cả y phục. Thế nhưng cha không một lời kêu trách, đứng lên cha lại tiếp tục hát thánh ca. Tám ngày sau, quan bắt cha đạp thánh giá, cha ôm thánh giá lên hôn một cách cung kính. Lính đánh cha nát ba cây roi mây trước khi trả cha về ngục. Lần khác, khi bị ép nhận tội làm loạn, cha khẳng khái tuyên bố:
“Không, tôi thà chịu đủ mọi cực hình, hơn là nhận tội tôi không phạm đó. Được sống đây, nhưng phải mang tiếng xấu suốt đời”.
Chết Vẫn Còn Hát Ca
Cuối cùng các quan kết án cha phải chém đầu, nhưng khi gởi vào Huế, vua Minh Mạng sửa thành án lăng trì. Nhận được tin do cha Jaccard Phán báo, cha Tân viết thơ cảm ơn và gởi lời vĩnh biệt mọi người. Cha viết thơ về cho gia đình:
“Cha mẹ yêu quý, đừng buồn về cái chết của con. Đó không phải là ngày than khóc, mà là ngày vui mừng. Xin hãy nghĩ rằng sau những đau khổ ngắn ngủi con chịu thì con sẽ luôn nhớ đến cha mẹ trên trời cao. Xin nhận nơi đây tấm lòng thảo hiếu của con. Cornay.”
Ngày 20.9.1837, cha bị đưa ra pháp trường Năm Mẫu ngoài thành Sơn Tây. Ngồi trong cũi giữa đoàn lính tráng đông đảo, cha vẫn vui vẻ tươi cười đọc kinh và hát thánh ca. Đến nơi xử, cha xin phép cầu nguyện một lát, rồi tự cởi áo và nằm trên thảm trải sẵn. Lý hình đóng bốn cọc bốn phía, trói chân tay ngài vào đó.
Theo luật xử án lăng trì, lẽ ra phải chặt chân tay trước, nhưng viên quan đã tỏ ra nhân đạo hơn, cho chém đầu cha trước, rồi mới đến tay chân. Cuối cùng phân xử thân mình cha làm bốn khúc. Toán lý hình thấy lòng can đảm của tử tội, thì mơ ước hão huyền: Họ móc gan của vị thừa sai rồi ăn sống, có kẻ liếm máu còn đọng lại trên gươm đã chém đầu cha, họ hy vọng nhờ đó họ thêm can đảm.
Được phép quan, tín hữu xứ Bách Lộc đến chôn cất thi thể vị tử đạo tại chỗ. Hai tháng sau đem về an táng tại Chiêu ửng.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Gioan Cornay Tân lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900.Hiếu Trung, OP
Học Hỏi Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria (35-37): Ðọc và cảm nghiệm
Lời Nguyện Ngắn Kết Thúc
35. Qua việc thực hành hiện nay, lời chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi được tiếp nối bằng một lời cầu nguyện kết tùy theo thói lệ địa phương. Cần phải ghi nhận ở đây là, việc suy niệm các mầu nhiệm Mân Côi không hề làm suy giảm giá trị của những lời nguyện ngắn này, mà còn có thể mang lại trọn vẹn hiệu quả thiêng liêng nếu cố gắng kết thúc mỗi chục kinh bằng một lời nguyện cầu cho những hoa trái đặc biệt đối với mỗi một mầu nhiệm. Như thế mới thấy được Kinh Mân Côi có liên hệ với đời sống Kitô hữu. Đề nghị nên sử dụng một lời nguyện phụng vụ đàng hoàng trong việc mời gọi chúng ta cầu nguyện để chúng ta, qua việc suy niệm các mầu nhiệm Mân Côi, có thể tiến đến chỗ “bắt chước những gì các mầu nhiệm này chất chứa và chiếm được những gì những mầu nhiệm ấy hứa hẹn” ("...concede, quaesumus, ut haec mysteria sacratissimo beatae Mariae Virginis Rosario recolentes, et imitemur quod continent, et quod promittunt assequamur". Missale Romanum 1960, in festo B.M. Virginis a Rosario).
Một lời cầu nguyện kết thúc như vậy có thể mặc những hình thức thích hợp khác nhau, như thực sự vẫn cho thấy như vậy. Nhờ đó, Kinh Mân Côi có thể thích ứng hơn với các truyền thống thiêng liêng khác nhau cũng như với các cộng đoàn Kitô giáo khác nhau. Thế nên, hy vọng là sẽ có những công thức thích hợp được phổ biến rộng rãi theo nhận thức về mục vụ và có thể sau khi đã thử dùng ở các trung tâm hay đền thánh đặc biệt dâng hiến cho Kinh Mân Côi, để Dân Chúa được hưởng ích lợi từ sự phong phú của những kho tàng thiêng liêng chân thực, cũng như tìm thấy được của dưỡng nuôi cho việc họ chiêm niệm riêng tư.
Cảm nghiệm người đọc:
Lời nguyện tắt sau mỗi chục kinh, theo Đức Thánh Cha là “một lời cầu cho hoa trái đặc biệt đối với mỗi mầu nhiệm”. Đối với các tín hữu Việt Nam, thì lời nguyện Fatima: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con. Xin cứu chúng con cho khỏi lửa hỏa ngục. Xin đưa các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng thương xót Chúa hơn”, là lời cầu mà chúng ta đọc sau mỗi chục kinh.
Nhưng Đức Thánh Cha muốn rằng lời cầu đó phải phù hợp và đặc biệt đối với mỗi mầu nhiệm. Và do đó, cần phải có một lời cầu có tính cách phụng vụ để “tiến tới chỗ bắt chước những gì các mầu nhiệm này chất chứa và chiếm được những gì mầu nhiệm ấy hứa hẹn”.
Đức Thánh Cha ao ước có một lời cầu mang tính chất thống nhất và được phổ biến rộng rãi mang cách thức phụng vụ. Ngài viết: “Hy vọng là sẽ có những công thức thích hợp được phổ biến rộng rãi theo nhận thức về mục vụ (…) để Dân Chúa được hưởng ích lợi từ sự phong phú của những kho tàng thiêng liêng chân thực, cũng như tìm thấy được của nuôi dưỡng cho việc họ chiêm niệm riêng tư”.
Tóm lại, đối với Đức Thánh Cha, những lời nguyện tắt như thế cũng là một nối tiếp vào những gì mà ta đang suy niệm nơi mỗi chục kinh và mỗi Mầu Nhiệm Mân Côi.
Các Hạt Chuỗi Mân Côi
36. Việc lần hạt Mân Côi từ trước đến nay vẫn được thi hành bằng việc sử dụng một cỗ tràng hạt. Nếu lần hạt mà chẳng để ý gì lắm thì các hạt chuỗi thường trở thành một cái máy thuần túy đếm thứ tự các Kinh Kính Mừng. Tuy nhiên, những hạt chuỗi này cũng có thể trở thành một biểu hiệu cho việc sâu xa chiêm niệm nữa.
Ở đây, điều đầu tiên phải để ý là cách thức những hạt chuỗi này đồng qui nơi Cây Thánh Giá, nơi vừa mở ra lại vừa đóng lại cái tiến trình tỏ hiện của việc nguyện cầu. Đời sống và việc cầu nguyện của người tín hữu được tập trung vào Chúa Kitô. Hết mọi sự được bắt đầu từ Người, hết mọi sự đều qui về Người, hết mọi sự nhờ Người mà đến cùng Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần.
Là một phương tiện để đếm tiến trình của kinh nguyện này, các hạt chuỗi gợi lên cho thấy hình ảnh về một con đường bất tận của việc chiêm niệm cũng như của sự hoàn thiện Kitô giáo. Chân Phước Bartolo Longo cũng thấy những hạt chuỗi ấy như là một “sợi giây xích” thắt kết chúng ta với Thiên Chúa. Phải, một sợi giây xích, nhưng lại là một sợi giây xích êm ái dịu dàng; vì việc gắn bó với Thiên Chúa, Đấng cũng là Cha của chúng ta, thực sự thì êm ái dịu dàng. Đó là sợi giây xích cửa “tình con thảo” làm cho chúng ta sống theo cung cách của Mẹ Maria, “người tì nữ của Chúa” (Lk 1:38), nhất là theo cung cách của chính Chúa Kitô, Đấng mặc dù thân phận là Thiên Chúa những đã vì yêu chúng ta biến mình trở thành một “người nô bộc” (Phil 2:7).
Cách hay nhất để quảng diễn thêm tính cách biểu hiệu của các hạt chuỗi này là chúng ta dùng những hạt chuỗi ấy để nhớ đến những mối liên hệ của chúng ta, nhớ đến mối hiệp thông và huynh đệ liên kết tất cả chúng ta nên một trong Chúa Kitô.
Cảm nghiệm người đọc:
Đọc một cách kỹ lưỡng và tìm hiểu đầy đủ những gì Đức Thánh Cha viết ở đoạn này, người đọc sẽ nhận ra Đức Thánh Cha đã có một nhận thức hết sức phong phú và tỷ mỷ khi phân tích và say sưa nói về tràng Mân Côi. Từ Kinh Lạy Cha đến Kinh Kính Mừng và Kinh Sáng Danh. Từ việc suy ngắm các mầu nhiệm Mân Côi đến lời nguyện kết thúc mỗi chục kinh. Và đến đây là ý nghĩa của các hạt Mân Côi.
Những hạt Mân Côi, theo Ngài, đã đồng quy nơi cây Thánh Giá, vì Chúa Giêsu chính là khởi điểm và cùng đích của mọi lời cầu. Chính Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta đến với Chúa Cha và hiệp nhất chúng ta trong Thánh Thần.
Do đó, những hạt Mân Côi không chỉ là phương pháp giúp đếm khi lần hạt, mà chính những hạt Mân Côi này như những “sợi xích” nối kết chúng ta lại với Thiên Chúa. Đức Thánh Cha đã nhắc lại tư tưởng của Á Thánh Bartolo Longo nói về những hạt kinh Mân Côi và so sánh như những mắt xích êm ái liên kết và trói buộc chúng ta lại với Thiên Chúa. Ngài viết: “Đó là sợi giây xích của tình con thảo, làm cho chúng ta sống theo cung cách của Mẹ Maria, người nữ tỳ của Chúa, theo cung cách của chính Chúa Kitô, Đấng mặc dù thân phận là Thiên Chúa những đã vì yêu chúng ta biến mình trở thành một người nô bộc”.
Khai Mào Và Kết Thúc
37. Hiện nay, ở những nơi khác nhau trong Giáo Hội, có nhiều cách để bắt đầu Kinh Mân Côi. Tại một số nơi vẫn được bắt đầu bằng những lời mở của Thánh Vịnh 70: “Ôi Chúa Trời, xin hãy đến giúp con; Ôi Chúa, xin mau đến giúp con”, như để nuôi dưỡng nơi những ai đang nguyện cầu một nhận thức khiêm cung về tình trạng thiếu thốn của họ. Tại những nơi khác, Kinh Mân Côi được bắt đầu bằng việc đọc Kinh Tin Kính, để lấy lời tuyên xưng đức tin này làm khởi điểm cho hành trình chiêm niệm sắp được thực hiện. Những thói lệ này và những thói lệ tương tự, một khi giúp vào việc sửa soạn cho tâm trí chiêm niệm, tất cả đều hợp pháp như nhau. Thế rồi Kinh Mân Côi được chấm dứt bằng lời nguyện cầu theo ý Đức Giáo Hoàng, để mở rộng nhãn giới của người cầu nguyện ra bao trùm tất cả mọi nhu cầu của Giáo Hội. Chính vì để khuyến khích thực hành chiều kích Giáo Hội này nơi Kinh Mân Côi mà Giáo Hội đã thấy xứng hợp để ban ân xá cho những ai lần hạt hội đủ những điều kiện cần thiết.
Nếu được cầu nguyện như thế, Kinh Mân Côi thực sự trở thành một hành trình thiêng liêng do Mẹ Maria đóng vai Thân Mẫu, Sư Phụ và Hướng Đạo, bằng việc Mẹ lấy lời cầu bầu quyền năng của Mẹ để nâng đỡ tín hữu. Vậy có lạ hay chăng khi linh hồn cảm thấy rằng, sau khi đọc kinh Mân Côi và cảm nghiệm sâu xa thấm thía được tình mẫu tử của Mẹ Maria, họ cần phải vang lên lời chúc tụng Đức Trinh Nữ bằng Kinh Lạy Nữ Vương hay bằng Kinh Cầu Đức Bà? Đây là giây phút tột đỉnh của một cuộc hành trình nội tâm đã đưa người tín hữu đến chỗ được giao tiếp một cách sống động với mầu nhiệm của Chúa Kitô và của Mẹ Thánh Người.
Cảm nghiệm người đọc:
Càng đọc kỹ Tông Thư, người đọc càng khám phá ra lòng sùng mộ Kinh Mân Côi của Đức Thánh Cha. Không những chỉ chú trọng đến những kinh nguyện, và các mầu nhiệm, Ngài còn tỷ mỷ hướng dẫn cách thức lần hạt như thế nào, bắt đầu và kết thúc ra sao.
Thông thường, người tín hữu Việt Nam có thói quen bắt đầu lần hạt bằng Kinh Đức Chúa Thánh Thần, Kinh Aên Năn Tội, và ba Kinh Tin, Cậy, Mến rồi sau đó mới lần hạt. Điều này phù hợp với ý Đức Thánh Cha khi Ngài muốn rằng trước khi lần hạt phải đọc một - Thánh Vịnh Thống Hối 70 chẳng hạn, và giục lòng tin, cậy, kính mến bằng Kinh Tin Kính. Ngoài ra, sau khi lần hạt, Đức Thánh Cha còn muốn rằng phải kết thúc bằng một lời cầu theo ý Đức Giáo Hoàng. Ngài muốn ân phúc của việc lần hạt không những đem lại lợi ích thiêng liêng cho người đọc, mà cả Giáo Hội nữa.
Sau cùng là phần kết thúc, Đức Thánh Cha khuyên nên đọc Kinh Lạy Nữ Vương hoặc nếu có giờ, đọc Kinh Cầu Đức Bà. Đối với thói quen được coi như một truyền thống, người tín hữu Việt Nam khi kết thúc lần hạt, hay các buổi đọc kinh thường là đọc kinh Trông Cây, và những lời nguyện tiếp theo. Đay cũng là một thói lệ rất tốt và vẫn còn hợp thời theo tinh thần của Đức Thánh Cha trong Tông Thư. Một điều mà nếu để ý kỹ, ta sẽ thấy rằng Đức Thánh Cha còn sốt sắng hơn chúng ta khi Ngài đề nghị đọc kinh Cầu Đức Bà sau mỗi buổi lần hạt. Và điều này cho thấy những ai nghĩ rằng Kinh Mân Côi rườm ra, đọc kinh nọ, kinh kia rườm rà là những ý nghĩ không đúng, nhất là khi chúng ta chạy đến với Đức Mẹ.
Người đọc và cảm nghiệm: Trần Mỹ Duyệt
19/9 Thứ Sáu
Chuyến Tông Du Mục Vụ 102 ở Slovakia 11-14/9/2003
Tổng Quan
Như chương trình đã được sắp xếp, ĐTC Gioan Phaolô II rời Rôma vào Thứ Năm 11/9/2003, đúng ngày khủng bố tấn công Hoa Kỳ cách đây 2 năm, để đến Cộng Hòa Slovak, và sẽ về lại Rôma vào Chúa Nhật 14. Trưa Thứ Năm 11, Ngài được tiếp đón tại phi trường và ngỏ lời chào. Sau đó Ngài về tòa khâm sứ và gặp ba vị lãnh đạo nước này là tổng thống, chủ tịch quốc hội và thủ tướng. Chiều Ngài thăm vương cung thánh đường và trở về tòa khâm sứ lúc 7 giờ 45 tối. Thứ Sáu 12, buổi sáng, Ngài bay tới Banska Bitrica và cử hành Thánh Lễ tại Công Trường Quốc Gia Risorgimento lúc 10 giờ 30. Sau đó, Ngài gặp gỡ và dùng trưa với Hội Đồng Giám Mục nước này cùng phái đoàn tùy tùng của Ngài. Vào lúc 6 giờ 30 chiều, Ngài trở về Bratislava sau nửa tiếng bay. Thứ Bảy 13, Ngài bay tới Kosice và tới Roznava cử hành Thánh Lễ, dùng bữa trưa ở tòa giám mục và bay về lại lúc 7 giờ 45 tối. Chúa Nhật 14, Ngài cử hành Thánh Lễ ở Bratislava và phong chân phước cho các vị tử đạo Basile Hopko và Zdenka Schelingova, dùng trưa ở tòa khâm sứ và trở về tới Rôma 8 giờ tối.
Nếu tính vào tháng 12/2001, thì nước này có 5.400.000 dân, trong đó có 75%, tức 4.034.000, là Công giáo, với 20 giám mục, 2.474 linh mục, 3.075 tu sĩ nam nữ và 1.092 chủng sinh. Giáo Hội Công giáo ở đây phụ trách 100 trường tiểu học, 48 trường trung học đệ nhất cấp và 2 trường trung học và đại học, 2 nhà thương, 8 y viện, 20 nhà dưỡng lão và tật nguyền, 18 cô nhi viện, 2 trung tâm tham vấn về gia đình phò sự sống và 24 trung tâm giáo dục và huấn nghiệp phục hồi.
Khai từ
Đức Thánh Cha đọc đoạn đầu và cuối của lời mở đầu này bằng tiếng quốc gia Slovak, ngoài ra một vị linh mục đọc các phần còn lại. Không phải đây là lần đầu tiên ĐTC yếu đến nỗi cần phải đọc thay cho Ngài nhưng phải kể đây là lần đầu tiên có một vị cần phải đọc phụ với Ngài trong bài khai từ tông du. ĐTC đã đến thăm Bratislava này vào năm 1990 khi nó còn là một phần của Czechoslovakia. Vào ngày 1/1/1993, trong một cuộc thay đổi ôn hòa, Czechoslovakia đã trở thành hai quốc gia, Cộng Hòa Czech và Cộng Hòa Slovak. ĐTC đã viếng thăm Slovakia vào thời gian 30/6-3/7/1995. Trong chuyến đi lần này, Ngài sẽ viếng thăm các giáo phận Ngài chưa đến.
ĐTC đã thực hiện những điều đáng kể về mục vụ đối với Giáo Hội ở Slovakia từ khi nước này độc lập. Ngài đã bổ nhiệm 2 hồng y và tất cả mọi vị giám mục của nước này; năm 1995 Ngài đã nâng giáo phận Kosice lên cấp TGP; năm 1997 Ngài đã lập một giáo phận ở Kosice cho những người Công giáo theo lễ nghi Byzantine, và Ngài đã nâng nhiều nhà thờ lên bậc vương cung thánh đường; năm 1980 Ngài đã thiết lập ở Canada một giáo phận Slovak theo lễ nghi Byzantine Thánh Cylilô và Mêthôdiô, và năm 1997 Ngài đã thành lập ở Rôma một Đại Học Giáo Hoàng Slovak Thánh Cylilô và Mêthôdiô.
Trong khi cả rừng cờ phất lên chào mừng Ðức Thánh Cha thì các tay náo động của nhóm đồng tính luyến ái trong đám đông cố gắng bày tỏ sự bất mãn của họ về việc Giáo Hội xen vào đời sống xã hội và cá nhân. Một trong những ngời này cầm biểu ngữ có hàng chữ "Tôi có ý nghĩ khác đó - chẳng lẽ ông lại thiêu sống tôi sao?"
Ngài Tổng Thống Nước Cộng Hòa,
Quí Tôn Vị Thẩm Quyền,
Quí Huynh Đáng Kính trong Hàng Giáo Phẩm,
Anh Chị Em thân mến!
1. Tôi tạ ơn Chúa vì hôm nay đây đã cho tôi đặt chân trên mảnh đất Slovakia thân yêu này lần thứ ba. Tôi đến như một người hành hương của Phúc Aâm để mang lời chào bình an và hy vọng đến cho tất cả mọi người…. (Ngài chào tổng thống, thẩm quyền dân sự, hàng giáo phẩm, và nhân dân nước này).2. Lịch sử về dân sự cũng như tôn giáo của Slovakia đã được viết lên bằng những đóng góp chứng nhân Phúc Aâm anh dũng và sinh động. Tôi muốn dâng niềm tri ân lên tất cả các vị. Dĩ nhiên là Tôi nghĩ đến hai người anh em lừng danh ở Thessalonika, Thánh Cylilô và Mêthôđiô, những vị tông đồ của các dân tộc sắc chủng Slavic. Tôi cũng nhớ đến tất cả những ai quảng đại phụng sự Thiên Chúa và anh chị em đồng hương của mình, thành phần làm cho những miền đất này nổi bật bởi đời sống nhân đức của họ. Cùng với những vị ấy, đến nay chúng ta có thêm Giám Mục Vasil Hopko và Sơ Zdenka Schelingova. Chúa Nhật tới đây Tôi sẽ hân hoan ghi danh các vị vào bậc Chân Phước. Tất cả các vị đã để lại một mùa gặt phì nhiêu thiện ích nơi gia sản văn hóa Slovakia. Lịch sử của Đất Nước này thật sự có thể được coi như là một lịch sử của lòng trung thành với Chúa Kitô và với Giáo Hội của Người.
3. Trong một tương lai không xa, xứ sở của anh chị em sẽ trở thành một phần tử thực thụ của Cộng Đồng Aâu Châu. Anh chị em thân yêu, hãy đóng góp truyền thống Kitô giáo sâu xa của mình vào việc kiến thiết cái căn tính mới của Aâu Châu! Đừng thỏa mãn với việc tìm kiếm các thứ tiến bộ về kinh tế mà thôi. Thật ra tình trạng đại thịnh cũng có thể phát sinh ra tình trạng đại bần. Chỉ khi nào bất chấp hy sinh và khó khăn trở ngại để xây dựng một xã hội biết tôn trọng sự sống con người trong tất cả mọi hình thức của nó, một xã hội cổ võ gia đình như một nơi của tình yêu thương nhau và là nơi phát triển con người, một xã hội tìm kiếm công ích và chú trọng tới các nhu cầu của thành phần hèn kém nhất, mới có thể bảo đảm cho một tương lai được xây dựng trên các nền tảng vững chắc và là một tương lai phong phú thiện hảo cho tất cả mọi người.
4. Trong những ngày tới đây, Tôi sẽ hành hương tới các Giáo Phận Bratislava-Trnava, Banska Bustrica và Roznava. Thế nhưng, vào lúc này đây, ít là Tôi muốn ôm lấy trong tinh thần tất cả mọi người con nam nữ Slovakia, cũng như các vị đại diện thuộc những thành phần thiểu số quốc gia cũng như thuộc các tôn giáo khác. Tôi muốn gặp gỡ và nói chuyện với mỗi một người và hết mọi người trong anh chị em, muốn kêu gọi hết mọi gia đình, muốn thăm viếng xứ sở đẹp đẽ của anh chị em, và muốn gặp gỡ tất cả mọi cộng đồng giáo hội của Quốc Gia thân yêu đây. Xin biết rằng vị Giáo Hoàng này đang nghĩ đến từng người trong anh chị em và cầu nguyện cho hết mọi anh chị em.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho Slovakia và ban cho tất cả anh chị em bằng an, thịnh vượng và hòa thuận trên tình nghĩa huynh đệ và hiểu biết nhau.
Diễn Từ tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Tẩy Giả
Vào lúc 5 giờ chiều ngày Thứ Sáu, ĐTC đã dùng chiến giáo hoàng xa của Ngài đi từ tòa khâm sứ ở Bratislava đến Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Tẩy Giả Giáo Phận Trnava, một tòa nhà linh thánh đầu tiên theo kiểu Baroque của xứ sở này, nơi trở thành vương cung thánh đường vào năm 1977, có thể dung chứa 400 người. Trnava là một trong những thành phố cổ nhất Slovak và đã đóng vai trò quan trọng trong lịch sử của xứ sở này. Nó xuất thân là một trung tâm thương mại, là giao điểm giữa những lộ trình thương mại Aâu Châu liên kết giữa các miền Czech với Hung Gia Lợi và những người Balkan, cũng như giữa các xứ Địa Trung Hải với Biển Baltic. Nó đã là thủ đô của vùng này từ cuộc canh tân hành chánh vào năm 1996 và có hơn 70 ngàn dân cư.
Anh Chị Em thân mến!Tôi vui mừng đến viếng thăm ngôi Vương Cung Thánh Đường đẹp đẽ này của TGP Bratislava-Trnava được cung hiến cho vị Tiền Hô thánh của Chúa là Thánh Gioan Tẩy Giả…. (chào hỏi)
Thánh Gioan Tẩy Giả là một con người sống một nơi tịch liêu đầy sự hiện diện của Thiên Chúa và ngài trở thành tiếng nói loan báo việc xuất hiện của Con Chiên Cứu Độ (x Lk 3:1-18).
Tôi khuyên Anh Chị Em thân yêu hãy nuôi dưỡng trong mình cảm quan về sự hiện diện của Thiên Chúa, bằng việc lắng nghe Lời của Ngài, bằng việc cầu nguyện, bằng việc cử hành các phép bí tích, bằng việc phục vụ anh chị em của mình. Nhờ đó, trong đời sống hằng ngày của mình, như Thánh Gioan Tẩy Giả, anh chị em mới có thể trở thành những người loan báo tin mừng và là những chứng nhân cho sự hiện diện yêu thương và cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới ngày nay. (Ban phép lành).
Bài giảng Thánh lễ ở Banska BystricaSáng nay, ĐTC bay từ Bratislava to Banska Bystrica, 190 cây số về phía đông bắc của thủ đô này sau đó đi xe đến Công Trường National Risorgimento để dâng Thánh Lễ lúc 10 giờ 30 sáng Kính Thánh Danh Mẹ Maria, một thánh lễ được các cộng đồng giáo hội Tin Lành hiệp dâng.
1. “Lòng tôi hân hoan trong Chúa” (Đáp Ca). Tôi rất vui mừng và tạ ơn Thiên Chúa về việc được cùng anh chị em ở công trường này, hỡi Anh Chị Em thân mến, để cử hành lễ nhớ Thánh Danh Mẹ Maria hôm nay.
Nơi chúng ta đang tụ họp nhau đây rất có ý nghĩa đối với lịch sử của thành phố anh chị em đây. Nó gợi nhớ đến việc tôn kính và lòng sùng mến của Cha Ông anh chị em đối với Thiên Chúa Toàn Năng và Đức Trinh Nữ Maria. Đồng thời nó cũng gợi nhớ lại nỗ lực muốn tục hóa cái gia sản quí hóa này, được thực hiện bởi một chế độ lạnh lùng cách đây không nhiều năm lắm. Cái tháp Đức Trinh Nữ Maria này là một nhân chứng âm thầm chứng kiến thấy tất cả những điều ấy.
(Chào mọi thành phần trong giáo phận và lân cận cùng Tổng Thống và chính quyền dân sự)
2. “Này tôi là nữ tỳ Chúa” (Lk 1:38), Mẹ Maria đã thưa như thế trong đoạn Phúc Aâm chúng ta vừa nghe. Mẹ nói với Thiên Thần Gabiên là vị truyền đạt cho Mẹ biết việc Thiên Chúa muốn kêu gọi Mẹ làm mẹ Con của Ngài. Biến Cố Nhập Thể của Lời là giây phút quyết liệt trong “dự án” đã được Thiên Chúa tỏ ra cho biết ngay từ đầu của lịch sử loài người sau nguyên tội. Ý định của Ngài là thông đạt cho loài người chính sự sống của Ngài, bằng việc kêu gọi con người nam nữ trở nên con cái của Ngài. Lời mời gọi này chờ đợi mỗi người đáp ứng. Thiên Chúa không áp đặt ơn cứu độ; Ngài phác họa ra ơn cứu độ như là một sáng kiến của tình yêu, một sáng kiến con người cần phải đáp lại bằng việc tự do chọn lựa được tình yêu thúc đẩy.
Cuộc đối thoại trao đổi giữa Thiên Thần và Mẹ Maria, giữa trời và đất, theo chiều hướng ấy là một mẫu gương rất hay: chúng ta hãy rút ra từ đó một số ý nghĩa cho mình.
3. Thiên Thần tỏ những gì Thiên Chúa mong muốn thấy nơi tương lai của nhân loại. Mẹ Maria đã đáp lại bằng việc nhắc nhớ đến trách nhiệm của Mẹ trong tình trạng của Mẹ bấy giờ, đó là tình trạng Mẹ đã đính hôn với Thánh Giuse, đã hứa làm bạn đời của ông (x Lk 1:34). Mẹ Maria không đưa ra những chống đối về tương lai được Thiên Chúa sửa soạn; Mẹ xin soi sáng cho biết về những hoàn cảnh nhân loại hiện nay liên quan đến Mẹ. Thiên Chúa đã đáp lại lời Mẹ yêu cầu bằng việc đối thoại với Mẹ. Ngài muốn hành sử với những con người hữu trách và tự do.
Chúng ta đã học được bài học nào nơi tất cả những điều ấy? Mẹ Maria tỏ ra cho chúng ta thấy con đường dẫn tới một thứ tự do trưởng thành. Vào thời đại của chúng ta đây, nhiều Kitô hữu đã lãnh nhận phép rửa chưa lấy đức tin làm của mình một cách trưởng thành và ý thức. Họ xưng mình là Kitô hữu mà họ lại không đáp ứng một cách hoàn toàn hữu trách đối với ân sủng nhận được; họ vẫn không biết những gì họ muốn và tại sao họ muốn điều đó.
Đây là bài học cần phải học hôm nay: việc thứ giáo dục sống tự do là một điều khẩn trương.Nhất là trong gia đình, cha mẹ cần phải giáo dục cho con cái của mình biệt sử dụng tự do đúng đắn, để sửa soạn cho chúng đáp lại tiếng Chúa gọi các thích hợp. Gia đình là cái nôi dưỡng của các thứ cây nhỏ bé, của những thế hệ mới. Tương lai của Quốc Gia được khuôn đúc trong gia đình.
Theo chiều hướng ấy, Tôi cầu nguyện để Hội Nghị Giáo Phận anh chị em sắp sửa cử hành sẽ là một cơ hội thuận lợi cho việc tái phát động thừa tác mục vụ gia đình cũng như cho việc tìm những cách thức mới mẻ hơn bao giờ hết để loan báo Phúc Âm cho những thế hệ mới ở Đất Nước Slovakia cao quí này.
4. “Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi theo như lời của Ngài” (Lk 1:38). Mẹ Maria tin tưởng và vì thế Mẹ thưa “xin vâng”. Đức tin của Mẹ đã trở thành đời sống; nó trở nên việc dấn thân cho Thiên Chúa, Đấng làm cho Mẹ tràn đầy chính bản thân Ngài qua vai trò làm mẹ thần linh của Mẹ. Nó trở thành việc dấn thân cho tha nhân của Mẹ, thành phần đang chờ Mẹ giúp đỡ nơi con người chị họ của mẹ là bà Isave (x Lk 1:39-56). Mẹ Maria đã từ bỏ chính mình một cách tự nguyện và ý thức cho tác động của Thiên Chúa, tác động sẽ đạt thành nơi Mẹ “những điều trọng đại” mirabilia Dei.
Với tấm gương của Trinh Nữ Maria trước mắt, chúng ta được mời gọi để suy tư: Thiên Chúa có ý đồ đối với mỗi một người trong chúng ta, Ngài “kêu gọi” hết mọi người. Điều quan trọng là làm sao biết cách nhận ra tiếng gọi này, làm sao chấp nhận nó và làm sao trung thành với nó.
5. Anh Chị Em thân mến, chúng ta hãy giành chỗ cho Thiên Chúa! Theo sự dồi dào của các thứ ơn gọi khác nhau, mỗi một người được kêu gọi, như Mẹ Maria, hãy chấp nhận Thiên Chúa vào đời sống riêng tư của mình và hãy tiến bước trên các nẻo đường thế gian với Người, loan truyền Phúc Aâm của Người và làm chứng cho tình yêu của Ngài.
(Lời nguyện kết thúc)
ĐTC chia sẻ với các vị giám mụcHôm nay, vào lúc 1 giờ 45, ĐTC ăn trưa ở chủng viện Banska Bystrica với các vị giám mục của Hội Đồng Giám Mục Slovak trong dịp kỷ niệm 10 năm thành lập vào ngày 15/9, và phái đoàn tùy tùng của Ngài. Tất cả có mặt trong bữa trưa này là 19 vị giám mục Slovak (9 vị chính và 7 vị phụ tá, 1 vị phó và 2 vị hưu) và 2 vị hồng y Jan Chryzostom Korec, SJ, giám mục Nitra và Josef Tomko, bộ trưởng hưu trí Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Aâm Cho Các Dân Tộc.
Cùng Các Vị Mục Tử Khả Kính của Giáo Hội ở Slovakia
1. Quí Huynh trong Hàng Giáo Phẩm thân mến, Tôi hết sức vui mừng được cùng với Quí Huynh thông phần vào giây phút chia sẻ huynh đệ này, một giây phút nhắc nhớ việc các vị Tông Đồ tập hợp lại quanh Chúa Giêsu để lui vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi giữa cuộc đời lao nhọc rao giảng và tông đồ (x Mk 6:30-32).
“Ecce quam bonum et quam iucundum habitare fratres in unum!” (Ps 133:1) – Anh em xum họp một nhà bao là tốt đẹp bao là sướng vui. Tôi xin chào tất cả Quí Huynh và ôm ấp Quí Huynh trong Chúa, và Tôi muốn lập lại lòng cảm mến và biết ơn của Giáo Hội đối với lòng nhiệt thành Quí Huynh tỏ ra khi chăn dắt tín hữu được trao phó cho Qúi Huynh (x 1Pt 5:2-3).
Tôi hết lòng hiệp cùng Quí Huynh trong việc tạ ơn Chúa trong dịp Quí Huynh cử hành mừng 10 năm thành lập Hội Đồng Giáo Phẩm của Qúi Huynh.
2. Giáo Hội Chúa ở Slovakia, sau những ngày tăm tối của việc bị bắt bớ và thầm lặng, những ngày đã cống hiến một chứng từ sáng lạn của lòng trung thành với Phúc Aâm, đã có thể, trong những năm này, tiếp tục những hoạt động của mình và cung ứng cho mình những cơ cấu cần thiết để tự do thi hành sứ vụ của mình.
Tôi sung sướng nhớ đến, trong số những điều khác, Bản Thỏa Hiệp căn bản tổng quan với Cộng Hòa Slovak vào năm 2000, đến công việc của những ủy ban hỗn hợp trong việc soạn thảo những phần thỏa hiệp khác, đến việc thiết lập Military Ordinariate, việc mở Đại Học Công Giáo ở Ruzomberok và việc củng cố những truyền đạt của Đài Phát Thánh Ánh Sáng.
3. Cùng với những hoạt động đã được đề cập trên đây, Quí Huynh còn hoàn toàn dấn thân vào việc canh tân đời sống Kitô hữu ở mọi lãnh vực. Thành quả đạt được chúng ta đang thấy thật là an ủi. Nhiều người đã tái phục hồi lòng can đảm phúc âm để công khai tuyên xưng Đức Tin Công Giáo của mình, như được thấy trong niên giám năm 2001. Công việc tông đồ, dưới sự hướng dẫn của Quí Huynh, được thực hiện bởi rất nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ nhiệt thành và thành phần giáo dân dấn thân, đang sinh hoa kết trái. Chúng ta hãy cùng nhau chúc tụng Danh Chúa!
Tôi xin Quí Huynh hãy tiếp tục một cách can đảm đi theo con đường anh em đã bắt đầu. Việc huấn luyện và nhân bản cũng như về thiêng liêng, cùng với việc sửa soạn đầy đủ về văn hóa, phải là đối tượng của mối quan tâm đặc biệt nơi các chủng viện và dòng tu, hầu cung cấp cho Giáo Hội cũng như cho thế giới những linh mục và tu sĩ có thể là những vị tông đồ khiêm nhượng và nhiệt tình của Phúc Âm. Cần phải đảm nhận công việc khẩn trương để cổ võ các ơn gọi linh mục và tu sĩ mới, bằng việc cầu xin cùng “Chủ ruộng”, bằng việc khơi lên cảm quan tính của lương tâm, bằng hành động mục vụ khôn ngoan. Thật vậy, tương lai của Giáo Hội ở Slovakia lệ thuộc vào việc này.
Hơn nữa, Quí Huynh khả kính, hãy tin tưởng và khôn ngoan cậy dựa vào việc hợp tác của thành phần giáo dân dấn thân để làm thẩm thấu các giá trị Kitô giáo vào các thực tại trần thế. Phải rất chú trọng tới gia đình là đền thờ của yêu thương và sự sống. Hãy loan truyền và bênh vực sự hiệp nhất và tính cách bất khả phân ly của hôn nhân. Hãy âu yếm nhìn đến giới trẻ là hiện tại và tương lai của Giáo Hội cũng như của xã hội. Hãy vun trồng một cuộc đối thoại cởi mở với thế giới văn hóa, một cuộc đối thoại với niềm xác tín là “đức tin và lý trí hỗ tương lẫn nhau, bên nào cũng chi phối nhau, khi chúng cống hiến cho nhau một thứ suy nghĩ sáng tỏ và một thứ kích thích để theo đuổi việc tìm hiểu sâu xa hơn” (Thông Điệp “Đức Tin và Lý Trí”, 100).
4. Hãy chăm sóc thành phần yếu kém và nghèo nàn, thành phần Chúa Giêsu muốn Người được nhận biết nơi họ (x Mt 25:40). Hãy gần gữi với thành phần thất nghiệp bằng mối quan tâm mục vụ. Hãy thông cảm với hoàn cảnh khó khăn của họ và phấn khích tất cả mọi lãnh vực xã hội tìm kiếm những đường lối khả dĩ để tạo nên những thứ công ăn việc làm mới, để nhất là giới trẻ có thể tìm thấy cơ hội hợp với khả năng của họ, những khả năng thường được bồi dưỡng từ việc sửa soạn về lý thuyết và thực hành.
Qúi Huynh đã quá rõ việc phát động nhân bản cần thiết ra sao đối với việc truyền bá phúc âm hóa, một việc truyền bá phúc âm hóa bao giờ cũng là việc dấn thân chính yếu của Giáo Hội. Về vấn đề này, Tôi lấy làm vui được nói lên là việc cử hành các cuộc Công Nghị Giáo Phận, đã được triệu tập ở các Giáo Phận Banska Bustrica và Kosice, sẽ là một dụng cụ ích lợi cho việc canh tân và phát triển hoạt động mục vụ cũng như việc loan báo Tin Mừng cho con người nam nữ của thời đại chúng ta.
5. Quí Huynh khả kính, vị Giáo Hoàng này biết rằng thừa tác vụ Giáo Phẩm đầy gai góc và thánh giá thường ẩn dấu trong cõi lòng. Thế nhưng Ngài cũng biết, như Quí Huynh biết, là trong dự án nhiệm mầu của Thiên Chúa, những đau khổ này là bảo đảm cho sinh lực tông đồ sẽ phát sinh muôn vàn hoa trái theo ơn Chúa giúp.
Đừng chán nản. Đừng để cho mình bị khống chế bởi khó khăn và nhọc mệt. Hãy luôn cậy dựa vào sự nâng đỡ của ơn Chúa là những gì thực hiện những việc lạ lùng qua nỗi yếu hèn của chúng ta (x 2Cor 12:9).
Quí Huynh thân mến, ý nghĩ cuối cùng của cuộc chúng ta gặp gỡ nơi đây đó là Tôi hân hoan cùng với Quí Huynh đọc lại những gì đã được nói đến trong phần kết của Bản Hướng Dẫn Thừa Tác Mục Vụ của Các Vị Giám Mục: “vì là trung tâm điểm hiệp nhất sinh động hữu hình của Giáo Hội riêng mà vị Giám Mục là người đứng hành đầu trong việc phụng sự Thiên Chúa và dân thánh của Thiên Chúa. Tất cả quyền bính của ngài, tất cả mọi sứ vụ của ngài, nếu được hiểu và thi hành theo tinh thần Phúc Aâm, là một phục vụ trổi vượt và liên tục mà đức ái trọn hảo nhất sẽ làm cho họ thậm chí sẵn sàng hiến mạng sống cho anh em mình. Đặc biệt trong trường hợp của một vị Giám Mục thì chủ trì là hữu dụng và coi sóc là phục vụ; cai trị là yêu thương và danh vọng là gánh nặng”.
Xin Trinh Nữ Maria, Đấng được tôn kính nơi xứ sở này như là Mẹ Sầu Bi của Chúa, canh giữ Quí Huynh tất cả trong trái tim từ mẫu của Người và xin cho Quí Huynh tất cả muôn vàn ân sủng thần linh.
Tôi ưu ái ban Phép Lành của Tôi cho Quí Huynh cũng như cho các cộng đồng của Quí Huynh.
Bài Giảng Thánh Lễ Kính Thánh Gioan Kim KhẩuĐTC rời Bratislava vào lúc 9 giờ sáng để đi máy bay một tiếng tới Kosice, miền đông của Slovakia. Sau đó Ngài đi xe 65 cây số tới Roznava vào lúc 11 giờ để dâng Thánh Lễ ở Podrakos Field là nơi chưa được 500 ngàn người, Thánh Lễ kính Thánh Gioan Kim Khẩu, vị được coi như chiếc cầu nối giữa Đông Tây. Thánh Lễ này được cử hành với sự tham dự của tổng thống Slovakia và vô vàn tín hữu từ các xứ sở lân bang. ĐTC đã ngỏ lời chào phái đoàn hành hương Hung Gia Lợi bằng thổ ngữ của họ.
(Bằng tiếng Slovak):
1. “Tôi nài xin anh em hãy sống một đời sống xứng với ơn gọi anh em đã lãnh nhận” (Eph 4:1). Lời kêu gọi thiết tha này của Thánh Tông Đồ Phaolô gửi cho cộng đồng Kitô hữu Êphêsô có một ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta đang qui tụ nơi đây. Việc vừa làm môn đệ vừa làm tông đồ được trao phó cho hết mọi tín hữu với tính cách đa diện của các ơn gọi và đặc sủng: làm môn đệ ở chỗ khiếm tốn lắng nghe lời cứu độ; làm tông đồ ở chỗ nhiệt thành sống nhân chứng theo Phúc Âm.
Ngạn ngôn Slovak có câu: “Lời nói trách móc, gương lành tác động”. Phải, Anh Chị Em thân mến, cả anh chị em nữa, bằng “lối” sống Kitô hữu của mình, cũng có thể góp phần rất nhiều vào việc truyền bá phúc âm hóa thế giới ngày nay cũng như vào việc xây dựng một xã hội công chính hơn và huynh đệ hơn. Đó là lý do cùng với Thánh Tông Đồ Phaolô Tôi muốn kêu gọi anh chị em: “Hãy chú ý tới ơn gọi của mình” (1Cor 1:26).
2. (Lời chào và cảm tạ cho cả đạo lẫn đời)
(Bằng tiếng Hung Gia Lợi)
Tôi muốn ngỏ lời đặc biệt đến cộng đồng nói tiếng Hung Gia Lợi rất đông đảo ở miền này và là một phần làm nên Giáo Phận này. Anh Chị Em thân mến, hãnh diện về truyền thống của anh chị em, và trung thành với các giáo huấn của Cha Ông anh chị em, anh chị em hãy giữ đức tin vững vàng và niềm hy vọng sống động, rồi anh chị em lấy được sức mạnh từ việc anh chị em gắn bó với Chúa Kitô cũng như với Giáo Hội của Người. Sự hiện diện liên tục của anh chị em đã làm giầu cho Slovakia, và Tôi biết rằng các vị Mục Tử của Giáo Hội địa phương đây chú trọng tới việc đáp ứng những thao thức thiêng liêng của anh chị em, đồng thời lúc nào cũng bảo toàn mối hiệp nhất giáo hội, một yếu tố phát triển về nhân bản và thiêng liêng của toàn thể xã hội Slovak.
(Bằng tiếng Slovak):
3. Anh Chị Em thân mến, cuộc hành trình của Tôi từ Bratislava cũng như từ Kosice đã cho Tôi cơ hội ngắm nhìn những miền trồng cấy bát ngát là những gì cho thấy việc làm và nỗ lực của anh chị em. Tôi hết sức thông cảm với tất cả những ai hiến thân cho việc canh nông cũng như những ai dấn thân đóng góp những gì bất khả thiếu cho đời sống của Quốc Gia này. Tôi cảm mến chào anh chị em. Trong bài dụ ngôn Phúc Âm chúng ta vừa nghe công bố, Chúa Giêsu ví Người như người gieo giống, người gieo hạt giống lời của Người một cách tin tưởng vào mảnh đất tâm can con người.
Hoa trái không chỉ lệ thuộc vào nguyên có hạt giống, mà còn vào cả những điều kiện khác nhau của mảnh đất nữa, tức là vào mỗi một người chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe chính Chúa Giêsu giải thích về dụ ngôn. Hạt giống bị các thứ chim trời ăn mất nhắc nhớ đến việc nhúng tay vào của Tên Gian Ác là tay làm cho lòng trí con người hiểu lầm đường lối của Thiên Chúa (x Mk 8:33), một đường lối bao giờ cũng là đường lối Thánh Giá.
Hạt giống không mọc rễ cho thấy tình trạng Lời Chúa chỉ được nhận lãnh hời hợt bề ngoài, không thiết tha gắn bó với Chúa Kitô và trung thành yêu mến Người (x Col 2:7) là Đấng duy nhất làm cho hạt giống tồn tại.
Hạt giống bị chết nghẹt biểu hiệu cho những lo lắng của cuộc sống hiện tại, của lòng ham hố quyền bính, giầu thịnh và kiêu hãnh.
4. Lời Chúa không tự động sinh hoa kết trái, mặc dù là thần linh và do đó cũng toàn năng; Lời Chúa thịch ứng với các thứ điều kiện của đất đai, hay nói đúng hơn, Lời Chúa cần sự đáp ứng của đất đai là thái độ cũng có thể tiêu cực. Đây là một Mầu Nhiệm của việc Thiên Chúa chiếu cố, Đấng chiếu cố đến nỗi đã hoàn toàn đặt mình vào trong tay loài người! Bởi vì, thực tế cho thấy hạt giống rơi xuống các thứ đất đai khác nhau ấy là chính Chúa Giêsu (x Jn 12:24).
Dụ ngôn và lời dẫn giải này của Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người khiến chúng ta cần phải suy nghĩ. Anh Chị Em thân mến, chúng ta là mảnh đất được Chúa không ngừng gieo trồng hạt giống Lời Người và tình yêu của Người. Chúng ta đã lãnh nhận hạt giống này với thái độ ra sao? Chúng ta đã để cho hạt giống ấy sinh ra bao nhiêu hoa trái?
5. Thánh Gioan Kim Khẩu, vị chúng ta cử hành phụng vụ lễ nhớ hôm nay, đã viết: “Tôi mang bên mình lời của Người; đó là cây gậy của tôi, là sự bảo vệ của tôi. Đó là sức mạnh của tôi và là sự bênh vực của tôi” (cf. Homilies before Exile, 1-3: PG 52, 428).
Vị Giáo Hoàng này hôm nay đây trao phó cho tất cả anh chị em kho báu của lời này; giống hệt như một con người tin tưởng gieo giống cấy trồng vào mật thất của mỗi cõi lòng “tin mừng” về Nước Trời. Hãy trở thành mảnh đất tốt và phì nhiêu, một mảnh đất trổ sinh muôn vàn hoa trái để đáp ứng nguyện vọng của Giáo Hội cũng như của thế giới.
Một câu ngạn ngữ khác của anh chị em đã nói: “Những nỗ lực của con người chỉ vô là đồ bỏ nếu không được Thiên Chúa chúc phúc”. Bởi thế, Tôi xin Đấng Tối Cao ban cho anh chị em cũng như việc anh chị em dấn thân sống theo đường lối Kitô giáo dồi dào phép lành của Ngài. Amen.
Ðể tỏ ra việc Giáo Hội Công Giáo chống lại việc phá thai được phép thi hành ở nước này, hai em gái 4 tuổi sinh đôi dính sườn nhau trước khi được mổ xẻ phân ra đã lên dâng lên Ðức Thánh Cha quà tặng trong Thánh Lễ. Giáo Hội Công Giáo địa phương đã lấy người mẹ của hai em làm gương mẫu vì bà đã không chịu phá thai mặc dù biết rằng bà cưu mang một cặp sinh đôi dính liền.
Bài Giảng Phong Chân Phước cho ĐGM Vasil Hopko (1904-1976) và Sơ Zdenka Schelingova (1916-1955).
ĐTC đã dâng Thánh Lễ Sáng Chúa Nhật ở Bratislava để phong chân phước cho hai chứng nhân đức tin thuộc thế kỷ 20. Tham dự Thánh Lễ có Tổng Thống của nước này, nhiều vị thẩm quyền dân sự và cả hằng ngàn ngàn tín hữu chẳng những nội quốc mà còn của các nước láng giềng nữa.
1. "O Crux, ave spes unica!" Ôi kính chào Thánh Giá là hy vọng duy nhất của chúng tôi!”.
Anh Chị Em thân mến, trong cuộc cử hành Phụng Vụ Chúa Nhật tuần này, chúng ta được mời gọi nhìn lên Thánh Giá. Đó là một “nơi hồng ân” đã tỏ hiện và chứng tỏ cho chúng ta thấy tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giám Mục Vasil Hopko và Sơ Zdenka Schelingova, hai vị Tôi vui mừng ghi danh vào danh sách thành phần Chân Phước hôm nay, đã nhìn lên Thánh Giá bằng một đức tin bất khuất. Cái khốn nạn của loài người và tình thương thần linh gặp gỡ nhau trên cây Thánh Giá. Việc chiêm ngắm tình thương vô biên này, đối với con người, là đường lối duy nhất hướng con người về mầu nhiệm được Thánh Giá tỏ cho thấy.
Thánh Giá được trồng cấy trên mặt đất và dường như đâm rễ vào cái xấu xa gian ác của con người, thế nhưng Thánh Giá lại thực sự hướng lên trời, hướng lên sự thiện hảo của Thiên Chúa. Với Thập Giá Chúa Kitô, Tên Gian Ác đã bị thảm bại, sự chết bị khống chế, sự sống đã được ban cho chúng ta, hy vọng được phục hồi và ánh sáng đã tỏa rạng. "O Crux, ave spes unica!"
2. (Lời chào gửi đến các chức sắc đạo đời và nhân dân quốc gia này)
3. “Như Moisen treo con rắn trong hoang địa thế nào, Con Người cũng bị treo lên như vậy, để ai tin vào Người thì có sự sống đời đời” (Jn 3:14-15). Vậy chúng ta đã nhìn thấy gì khi chúng ta hướng mắt nhìn lên cây thập giá treo Chúa Giêsu (x Jn 19:37)? Chúng ta chiêm ngưỡng dấu hiệu chứng tỏ tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại.
"O Crux, ave spes unica!" Thánh Phaolô đã nói về cùng một đề tài trong bức thư gửi cho giáo đoàn Êphêsô chúng ta vừa nghe. Chẳng những Chúa Giêsu Kitô trở thành con người, nên giống loài người mọi sự, Người còn mặc lấy thân phận của một người tôi đòi và hạ mình xuống hơn nữa bằng việc vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (x Phil 2:6-8).
Phải, “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến ban người Con duy nhất của mình” (Jn 3:16). Chúng ta ngây ngất và hả hê chiêm ngắm chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Chúa Kitô vượt trên tất cả mọi kiến thức (x Eph 3:18-19)! "O Crux, ave spes unica!"
4. Chắc hẳn là việc suy niệm về mầu nhiệm cao cả và lạ lùng này đã bảo trì Chân Phước Giám Mục Vasil Hopko và Chân Phước Nữ Tu Zdenka Schelingova trong việc chọn sống đời tận hiến, nhất là trong việc chịu đựng những khổ đau bị giam nhốt kinh hoàng.
Cả hai đều chiếu sáng trước mắt chúng ta như những tấm gương rạng ngời của lòng trung thành trong những lúc bắt đạo dữ dội và dã man. ĐGM Vasil không bao giờ tách lìa lòng gắn bó của mình với Giáo Hội Công Giáo cũng như với Đức Giáo Hoàng. Sơ Zdenka cũng không ngần ngại liều mạng sống mình để hỗ trợ các vị thừa tác viên của Thiên Chúa.
Cả hai đều phải đối diện với một cuộc xử án bất công và một bản án hạ cấp, với cuộc hành hạ, nhục nhã, cô độc và chết chóc. Nhờ đó Thánh Giá đối với các vị đã trở thành đường lối dẫn đến sự sống, trở thành một nguồn mạch kiên cường và hy vọng, của chứng cớ yêu mến Thiên Chúa và con người. "O Crux, ave spes unica!"
5. Trong Vườn Địa Đường, có một người phụ nữ là Evà đứng ở dưới chân của một thân cây (x Gen 3). Bị Tên Gian Ác dụ dẫm, bà đã chiếm thủ những gì bà nghĩ là sự sống thần linh. Thế nhưng nó lại là mầm mống sự chết đã đột nhập vào bà (x James 1:15; Rm 6:23).
Trên đồi Canvê, một người nữ khác là Mẹ Maria đứng dưới chân cây thập giá (x Jn 19:25-27). Bằng việc chấp nhận dự án của Thiên Chúa, Mẹ đã thông phần một cách mật thiết vào việc Người Con hiến mình cho Chúa Cha vì sự sống của thế giới, và bằng việc lãnh nhận Tông Đồ Gioan theo lời ký thác của Chúa Giêsu, Mẹ đã trở nên Mẹ của toàn thể nhân loại. Chính Vị Trinh Nữ hết sức Sầu Bi này, Đấng chúng ta sẽ tưởng nhớ vào ngày mai trong phụng vụ và là Đấng anh chị em sùng kính tôn vinh như Vị Nữ Quan Thày của mình. Tôi ký thác cho Mẹ hiện tại và tương lai của Giáo Hội và Đất Nước Slovakia, để cả hai phát triển dưới chân Thập Giá Chúa Kitô, và lúc nào cũng biết tìm kiếm và chấp nhận sứ điệp yêu thương và cứu độ của Thập Giá.
Vì mầu nhiệm Thánh Giá Chúa và cuộc phục sinh của mình, Ôi Chúa, xin cứu chúng con! Amen.
Đức Thánh Cha tỏ ra yếu sức khỏe trong chuyến tông du 102 này. Ngài đã cần phải được giúp để đọc hai bài diễn từ của ngày đầu tiên. Ngài khá hơn một chút vào ngày Thứ Sáu, nhưng trở nên rất yếu vào ngày Thứ Bảy khi chủ tế Thánh Lễ với 100 ngàn người tham dự. Có những lúc Ngài thở hổn hển, khó lòng đọc được các lời nguyện, bàn tay trái của Ngài lẩy bẩy, Ngài đã đọc lời chào trong bài giảng hai lần, thậm chí có lúc Ngài không còn đọc được nữa, một vị hồng y đã phải đọc thay cho Ngài.
Mặc dầu sức khỏe suy yếu như thế, Ngài vẫn cương quyết tiếp tục vai trò mục vụ hoàn vũ của mình, cho dù có đi ngược lại với lời khuyên của các bác sĩ và các vị làm việc với Ngài là Ngài cần phải nghỉ ngơi nhiều hơn. Theo dự trình, năm tới Ngài, theo lời mời, Ngài có thể sẽ thực hiện các chuyến tông du nữa đến Áo, Pháp, Thụy Sĩ , Balan và Mễ Tây Cơ. Vấn đề có nhận lời mời thực hiện những chuyến tông du như được mời hay chăng hoàn toàn do Đức Thánh Cha. Cho đến nay ngày giờ vẫn chưa được ấn định.
Vị giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh là tiến sĩ Navarro-Valls cho biết: “Ai hiểu vị Giáo Hoàng này thì cũng biết rằng người ta không bao giờ có thể nói ‘Đây là chuyến đi cuối cùng’. Vì tất cả tùy thuộc vào ý muốn và lòng monh ước của Ngài. Theo cá nhân tôi thì những lời mời sẽ được Đức Giáo Hoàng chấp nhận… Vấn đề việc Đức Giáo Hoàng tiếp tục hành trình vất vả như vậy có bõ hay chăng, dù Ngài phải chịu nhiều đau khổ, là vấn đề cần phải được trả lời bởi các dân tộc Ngài đến viếng thăm, như trong trường hợp của nhân dân Slovak đã đợi chờ Ngài và mừng rỡ Ngài”.
Các viên chức Công Giáo ở xứ sở này cho biết họ cần Ngài giúp để ngăn chặn vấn đề trong một đạo luật về phá thai sẽ cho phép phá bào thai ở vào thai kỳ 6 tháng nếu bào thai có những hư hại trầm trọng về di truyền. Hiện tại ở đây mới được phép phá ở thai kỳ thứ nhất là 3 tháng đầu mà thôi. Theo cuộc thăm dò mới đây thì hầu hết dân chúng nước này đều cho mình là Công Giáo, nhưng lại thiên về những khoản luật cấp tiến phá thai, một xu hướng chung của các quốc gia thành viên trong Khối Hiệp Nhất Âu Châu nước này sắp sửa gia nhập.
Chia Sẻ Cảm Nghiệm về Chuyến Tông Du 102Bao giờ cũng thế, sau mỗi chuyến tông du, Đức Thánh Cha cũng chia sẻ cảm nghiệm của mình trong buổi triều kiến chung sau đó. Vẫn biết Ngài đã hết nghỉ hè từ cuối Tháng 8, và đã trở về với chương trình thường nhật của Ngài từ đầu Tháng Chín, tuy nhiên, bình thường Ngài vẫn ở nhà nghỉ mát Castelgandolfo của Ngài cho tới cuối Tháng Chín mới về lại Điện Vatican. Sáng nay, Ngài đã đi xe về Công Trường Thánh Phêrô lúc 10 giờ 30 để gặp gỡ 11 ngàn giáo lữ và chia sẻ về cảm nghiệm tông du của mình tuần vừa rồi.
Trước hết, Ngài nhận định về nhân dân Slovak là một dân tộc “trung thành với Chúa Kitô và với Giáo Hội. Đó là những gì Slovakia tỏ mình ra trong lịch sử của mình. Nhờ đích thân đi đến đó, Tôi mới thấy được xứ sở này trung thành tiến về tương lai một cách tin tưởng. Tôi hài lòng ngắm nhìn thấy việc phát triển về kinh tế và xã hội đã được thể hiện trong những năm này. Tôi tin rằng khi nước nàygia nhập Khối Hiệp Nhất Âu Châu, nhân dân Slovak sẽ biết làm sao để góp phần thực sự cùng với các giá trị vào việc xây dựng Âu Châu”. Ngài còn nhận định là nước Slovakia “có một gia sản thiêng liêng phong phú, đến nỗi bất chấp cuộc bắt đạo dữ dội phải trải qua trong quá khứ, nước này cũng đã biết kiên trì vững vàng. Có thể nhận thấy qua chứng từ hùng hồn của việc này đó là tình trạng phát triển hứa hẹn đời sống Kitô giáo và các ơn gọi làm linh mục và tu sĩ hôm nay đây”.
Thế rồi ĐTC đã chia sẻ cảm nghiệm ở từng chặng Ngài đến. Cuối cùng Ngài kết luận: “Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em, hỡi nhân dân Slovakia thân mến! Cám ơn tình anh chị em giành cho Giáo Hội cũng như cho vì Thừa Kế Thánh Phêrô!”.
Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp và chuyển dịch cho theo tài liệu được Zenit, VIS và CNN phổ biến
18/9 Thứ Năm
Thánh Đaminh TRẠCH, Lm dòng Đaminh
(1793 - 1840)
Chứng Nhân Sự Sống Bất Diệt
“Thưa quan, nếu quan muốn được sự sống bất diệt, xin quan thờ lạy Thánh giá này”. Vị anh hùng Kitô giáo khi bị ép buộc bước qua thập giá, đã bình tĩnh hiên ngang giảng về thập giá cho chính viên quan, đó là Thánh Đaminh Trạch.
Chào đời năm 1793 tại họ Ngoại Vối (xứ Ngoại Bồi), tỉnh Nam Định. Đaminh Trạch vào ở với cha xứ từ bé. Trong thời vua Gia Long, cậu có hoàn cảnh được học đầy đủ chương trình ở chủng viện và thụ phong linh mục năm 30 tuổi. Năm sau, cha xin vào dòng Đaminh và tuyên khấn ngày 3.6.1825.
Không Sợ Cũng Chẳng Hối Tiếc
Những người làm chứng trong hồ sơ phong thánh ca tụng cha Trạch sống nghiêm ngặt và hết lòng tuân giữ kỷ luật dòng. Tuy mang trong mình chứng bệnh lao phổi nan y, cha vẫn giữ đủ luật ăn chay hãm mình và chu toàn mọi công tác. Cha coi xứ Quần Cống, rồi về Lục Thủy để dưỡng bệnh và kiêm nhiệm việc linh hướng cho các chủng sinh. Năm 1839, cha bị bắt ở Ngọc Cục, nhưng dân làng bỏ ra hai trăm quan để chuộc cha về. Từ đó, cha ở nhà ông lang Thiện và ông trùm Bảo ở Trà Lũ.
Ngày 11.4.1840, khi lên thăm hai linh mục Vinh và Thản ở Ngưỡng Nhân, cha bị quân lính phát hiện. Do tình trạng bệnh hoạn, sức yếu chân chậm, cha không kịp chạy trốn trên đường về Tử Liêu, cha bị bắt và giải về phủ Xuân Trường. Sau một thời gian bị giam và bị tra hỏi ở đây, cha Trạch được chuyển qua ngục thất tỉnh Nam Định.
Sự hiện diện của cha trong ngục là niềm vui và khích lệ cho nhiều Kitô hữu, cả những phạm nhân khác đang bị giam ở đó. Mặc dù sức đã kiệt, cha Trạch vẫn cố gắng an ủi khuyên nhủ các giáo hữu và giải tội cho họ, đặc biệt cha đã giúp thầy Tôma Toán, sau khi đạp lên thánh giá lần thứ hai thống hối trở về với Chúa và can đãm chịu tử đạo. Cha kêu mời anh em cùng cầu nguyện, nhất là đọc kinh Mân Côi. Khuôn mặt cha lúc nào cũng vui vẻ, cha thường nói:
“Tuy tôi sức lực yếu đuối, nhưng đã vì đạo mà bị bắt, tôi chẳng sợ gì, cũng chẳng hối tiếc chi”.
Ra tòa lần nào cha cũng bị vặn hỏi về linh mục Hermosilla Vọng dòng Đaminh, vị thừa sai Tây Ban Nha mà quan tưởng là người cuối cùng chưa bị bắt. Cha còn hứa trả tự do nếu cha chịu bước qua thập giá và đe dọa: “Hãy nhìn cây thập giá kia, một là bước qua, hai là chết”. Cha Đaminh Trạch không trả lời ngay, tự động quỳ xuống hôn kính thờ lạy thánh giá rồi quay về phía quan và nói: “Thưa quan, thánh giá là giường Chúa Kitô nằm chết thay cho nhân loại, nếu quan muốn sự sống đời đời, xin quan thờ lạy thánh giá này. Tôi thà bị chết chớ không bước qua thánh giá”.
Cứ Để Tôi Đi Trước
Nghe vậy quan tổng đốc nổi giận tát vào mặt nhà thuyết giáo, rồi đấm đá túi bụi. Quan bắt lính cầm hai đầu gông khiêng cha qua thánh giá, nhưng cha co chân lên mặc cho lính đánh đập tàn nhẫn. Vừa mỏi mệt thất vọng, vừa phẫn nộ điên cuồng, các quan đồng thanh kết án xử cha. Ngày 18.9.1840, bản án được vua Minh Mạng châu phê ra tới Nam Định và được thi hành ngay tức khắc. Quan cho một cơ hội ân xá cuối cùng nếu bước qua thánh giá, nhưng cha từ chối.
Khi sắp rời ngục đi xử, cha tạm biệt các cha Ngân, Nghi, Thịnh, thuộc Địa Phận Tây Đàng Ngoài cùng bị giam tại đó. Như một người xác tín mình sắp được vào thiên quốc vĩnh cửu, cha nói: “Các cha ở lại để tôi đi trước”. Dân chúng hiếu kỳ theo ngài ra pháp trường đông như xem hội. Đến nơi xử, lính tháo gông cho cha. Sau đôi phút cầu nguyện, cha Trạch đưa đầu lãnh nhát gươm tử đạo tiến về Nước hằng sống. Thi thể ngài được an táng tại chỗ, năm sau các tín hữu cải về nhà chung ở Lục Thủy.
Ngày 27.5.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn linh mục dòng Thuyết giáo, cha Đaminh Trạch lên bậc Chân Phước.
17/9 Thứ Tư
Thánh Emmanuel NGUYỄN VĂN TRIỆU, Linh mục (1756 - 1798)
Cho Tròn Đạo Hiếu
Là một linh mục địa phận Đông Đàng Ngoài, với biết bao bận rộn vì công tác mục vụ, nhưng cha Emmanuel Nguyễn văn Triệu vẫn không quên người mẹ già ở quê nhà. Năm 1798 giữa cơn bách hại gay gắt của vua Cảnh Thịnh, nhất là tại kinh đô, cha đã xin phép bề trên về Phú Xuân thăm mẹ, và ở lại gần ba tháng để xây dựng cho bà một mái nhà nhỏ xinh. Chính vì muốn trọn đạo hiếu với mẫu thân, mà vị linh mục đã bị bắt.
Không Phải Chúa Trịnh Mà Là Thiên Chúa
Emmanuel Nguyễn văn Triệu sinh năm 1756 tại làng Kim Long, Phú Xuân (nay là Huế). Thân phụ cậu là ông Cai Lương, Nguyễn văn Lương, một võ quan Công giáo phò Chúa Nguyễn đã bị tử trận trong một cuộc chiến với Tây Sơn. Sớm mồ côi cha, cậu Triệu sống với mẹ ở Thợ Đúc, gia nhập quân đội năm 1771 khi mới 15 tuổi. Năm 1774, khi Chúa Trịnh chiếm được Phú Xuân, anh cùng các bạn gia nhập quân đội của vua Lê chúa Trịnh, chiếm được Phú Xuân. Đến khi Tây Sơn từ phía Nam đánh lên, trở thành chủ nhân ông mới của Phú Xuân, vệ binh Nguyễn văn Triệu đành theo Trịnh Khải rút về Thăng Long (1786).
Tháng Sáu năm đó, quân Tây Sơn thừa thắng xông lên, tiến ra Bắc lấy cớ phò Lê diệt Trịnh. Trịnh Khả phải mỗ bụng tự tử. Rồi vua Lê Cảnh Hưng băng hà, Lê Chiêu Thống lên ngôi, miền Bắc lại xẩy ra nội chiến giữa hai phe Trịnh Lê và Trịnh Bồng. Chính bối cảnh nhiễu nhương thay ngôi đổi chúa đó đã làm cho anh vệ binh Triệu phải suy nghĩ và đi đến quyết định dứt khoát cho cuộc đời mình.
Ba mươi tuổi đời, mười lăm năm binh nghiệp với biết bao thăng trầm, Emmanuel Triệu bước vào một khúc quanh mới giã từ vũ khí để phụng sự Vua trên trời và qua đó phục vụ tha nhân đích thực hơn. Mới đầu anh được một linh mục dòng Tên ở Hà Nội hướng dẫn, nhưng sau anh được Đức cha Obelar Khâm địa phận Đông Đàng Ngoài nhận vào học tại trường thần học Trung Linh. Và năm 1793, Đức cha Alonso Phê truyền chức linh mục. Khi đó cha Triệu 37 tuổi.
Nhờ nền giáo dục chu đáo từ nhỏ, cùng với những kinh nghiệm lâu năm trong đời sống quân ngũ, và nhất là nhờ ơn Chúa giúp, cha Emmanuel Triệu trở thành một mục tử hăng say nhiệt tình và làm việc có phương pháp. Sáu năm phục vụ trong địa phận Đông, cha đã thu hoạch được nhiều kết quả và được các bề trên quý mến.
Đường Lao Vào Tù
Dưới thời vua Cảnh Thịnh (1792-1802) tình hình chính trị trong nước ngày càng phức tạp. Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau này) tổ chức quân đội ngày càng mạnh, hùng cứ ở Gia Định, hằng năm cứ đến mùa gió nồm lại đem quân ra đánh Huế. Hỗ trợ cho Nguyễn Ánh có một số quân Pháp do Đức cha Bá Đa Lộc chiêu mộ. Do đó, vua Cảnh Thịnh sinh ra ác cảm với đạo, nhất là cuối năm 1797, khi bắt được lá thư của Nguyễn Ánh gửi Đức cha Labartette Bình (giám mục Đàng Trong) ở Phú Xuân, nhà vua càng nghi ngờ đạo Công giáo tiếp tay cho giặc.
Một quan văn có đạo, quan thượng Hồ Cung Điều nhiều lần thanh minh trước mặt nhà vua rằng: “Đạo dạy trung quân vương, hiếu phụ mẫu, chớ có phải đạo dạy làm giặc đâu”. Vua nghe nói thì chần chừ. Nhưng viên quan nội hầu tên Lợi, cứ gièm pha mãi, nên cuối cùng, tháng 8.1798, một chiếu chỉ cấm đạo được ban hành. Trước đó ba tháng, cha Emmunuel Triệu vì thương nhớ mẹ già, nên trở về khu Thợ Đúc, Phú Xuân (Huế). Thật bùi ngùi cảm động sau mười hai năm xa cách, hai mẹ con lại gặp nhau. Giờ đây mái tóc của người mẹ đã bạc phơ, còn con nay đã bốn mươi hai tuổi và là linh mục của Chúa. Cha Triệu thấy xót xa trước cảnh mẫu thân mình phải ăn nhờ ở đậu nhà người khác. Cha quyết định ở lại, cùng với bà con lối xóm, dựng cho mẹ một mái nhà nhỏ để có nơi nương thân. Thời gian này cha Triệu nhân thể cũng đi thăm viếng và dâng lễ tại các họ đạo gần đó. Cha được các tín hữu ở đây thương mến nhiều.
Ngày 7.8.1798, theo chiếu chỉ nhà vua mới ban hành, bốn cơ binh (mỗi cơ năm mươi quân) bất thần bao vây bốn xứ vùng kinh đô. Tại xứ Thợ Đúc, quan quân có ý tìm cha chính xứ, cha Nhơn, nhưng nhờ quan thượng Điều đã báo tin, nên ngài đã trốn thoát kịp. Còn cha Triệu thì mới về, nên quan không biết, quan quân bắt một số giáo hữu trong đó có cha Triệu và tra khảo về các linh mục. Cha Triệu tự nguyện cung khai, nhận mình là người mà họ lùng bắt. Quân lính liền trói tay cha lại dẫn đi. Khi thấy mẹ già khóc lóc thảm thiết cha Triệu dừng lại nói vài câu từ giã: “Thiên Chúa đã cho con vinh dự làm chứng cho Ngài. Xin mẹ đừng khóc nữa. Mẹ hãy vui lòng vâng theo ý Chúa”.
Vượt Qua Gian Khổ
Tiếp theo đó là bốn mươi ngày đêm thử thách trong cảnh ngục tù. Cổ mang gông, tay chân bị xiềng xích, cha còn bị đưa ra tòa nhiều lần, chịu ba trận đòn dữ dội. Khi các quan thẩm tra lý lịch, cha nói rõ mình sinh quán ở Phú Xuân, vì hoàn cảnh khó khăn mới phải ra Đàng Ngoài để làm ăn, rồi được học giáo lý trong đạo và làm linh mục. Quan hỏi: “Thầy có vợ con ở đây hay ở Đàng Ngoài?”. Cha đáp: “Tôi không lấy vợ, vì là linh mục nên tôi sống độc thân”.
Ngày 17.8 các quan định kết án voi giày nhưng một viên quan không đồng ý nên vụ án được trì hoãn.
Thời gian ở trong ngục cha Triệu vẫn giữ được niềm vui vẻ và tin tưởng vào Chúa. Điều an ủi cha nhất, là được một linh mục cải trang vào thăm và giải tội. Thân mẫu cha nhiều lần cũng đến thăm. Cha an ủi bà, xin bà cầu nguyện nhiều cho mình được trung kiên. Ngoài ra, cha tranh thủ mọi giờ rảnh rỗi để chuẩn bị tâm hồn lãnh phúc tử đạo.
Giờ Phút Vinh Quang
Ngày xử được ấn định là 17.9.1798. Sáng sớm hôm đó, các quan hỏi cha lần cuối: “Thầy có muốn bỏ nghề đạo trưởng trở về quê quán sinh sống không? Nếu thầy đồng ý, ta sẽ xin vua tha cho”. Cha Triệu khẳng khái trả lời: “Thưa không, tôi là đạo trưởng, tôi thà chết chớ không bỏ việc giảng đạo”. Thế là đến mười giờ sáng cha Triệu bị điệu ra pháp trường cùng với sáu tên trộm cướp cũng bị tử hình hôm đó. Cha bước đi bình tĩnh, trang nghiêm như một chiến sĩ thận trọng trước giờ lâm chiến. Các tín hữu nghe tin lũ lượt đi phía sau. Đằng trước cha, một người lính cầm thẻ bài đọc bài ghi bản án:
“Tên Triệu, con nhà Nguyễn văn Lương, chuyên giảng đạo Hoa Lang, quyến rũ dân chúng theo đạo đáng ghê tởm ấy. Vậy y phải trảm quyết”.
Tại Bãi Dâu, nơi thi hành bản án, cha Triệu quỳ xuống cầu nguyện. Theo thói lệ, quan phát cho mỗi tử tội một quan tiền để ăn uống trước khi chết. Cha từ chối, viên quan liền nói: “Của vua ban không được coi thường”. Cha trả lời: “Vậy xin ai đó cầm tiền giúp tôi, gởi cho người nghèo”. Một người lính thấy thế liền tát vào mặt ngài một cái. Viên quan nổi giận và mắng anh ta: “Chưa đến giờ xử mà mi dám ngạo ngược như thế sao?”. Rồi ông quay qua mời vị chứng nhân đức tin ngồi và nói: “Khi nào đến giờ, tôi sẽ báo cho thầy”. Cha Triệu liền ngồi và tiếp tục cầu nguyện.
Đúng ngọ (mười hai giờ trưa), viên quan nói với vị linh mục: “Giờ đã đến rồi”. Cha triệu quỳ lên giơ cổ cho lý hình chém. Thi hài vị tử đạo được các tín hữu an táng tại họ Dương Sơn, sau được cải vào nhà thờ Dương Sơn.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Emmanuel Nguyễn văn Triệu ngày 27.5.1900.
16/9 Thứ Ba
"Hiệp nhất không phải là đồng nhất. Chúng ta không thể xây dựng hòa bình ở chỗ bất cần nhau mà là qua việc đối thoại và gặp gỡ".
ĐTC Gioan Phaolô II đã gửi một sứ điệp cho Hội Ngộ Quốc Tế Cầu Nguyện Cho Hòa Bình lần thứ 17 ở Aachen, Đức Quốc vào ngày 7-9/2003. Cuộc Hội Ngộ được tổ chức hằng năm bởi Cộng Đồng Thánh Egidio. Năm nay với đề tài “Giữa chiến tranh và hòa bình là cuộc gặp gỡ đức tin và các nền văn hóa”. ĐTC gửi sứ điệp này cho ĐHY chủ tịch hưu trí của Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình của Tòa Thánh là Roger Etchegaray, cũng như cho những vị đại diện thuộc các Giáo Hội/Cộng Đồng Kitô giáo và các tôn giáo lớn trên thế giới tham dự cuộc Hội Ngộ này.
Gửi Đến Người Anh Em Đáng Kính, Hồng Y Roger Etchegaray,1. … (lời cảm tạ và chào thăm)
Vào năm 1986, năm Tôi muốn bắt đầu một con đường mới ở Assisi, trong đó Aachen là một chặng đường mới, thì thế giới vẫn còn bị chia làm hai phe và cảm thấy lo sợ vì chiến tranh nguyên tử. Khi thấy nhu cầu hết sức khẩn trương cho thành phần nghèo khổ có thể thấy được một tương lai hòa bình và thịnh vượng cho hết mọi người, Tôi đã mời những tín đồ của các tôn giáo khác nhau trên thế giớiqui tụ lại cầu nguyện cho hòa bình. Tôi đã nghĩ đến nhãn quan tuyệt vời của tiên tri Isaia, đó là việc tất cả mọi dân tộc sẽ tiến về từ các nơi khác nhau trên thế giới qui tụ lại quanh Thiên Chúa như một gia đình duy nhất, lớn lao và muôn mầu. Đó là nhãn quan của Chân Phước Gioan XXIII, một nhãn quan đã khiến Ngài viết bức thông điệp “Hòa Bình Dưới Thế”, một văn kiện năm nay chúng ta mừng kỷ niệm 40 năm.
2. Ở Assisi, giấc mơ này đã mặc một hình thức cụ thể và rõ ràng, làm bật kên nhiều ước muốn hòa bình nơi tâm hồn của chúng ta. Tất cả chúng ta đều hoan hỉ. Tiếc thay, nỗi mong ước này không được tiếp tục với một tốc độ và nồng độ cần thiết. Trong những năm ấy chúng ta đã đầu tư rất ít vào việc bênh vực hòa bình cũng như vào việc hỗ trợ cho giấc mơ về một thế giới phi chiến tranh. Chúng ta đã chú trọng đến việc phát triển những chiều hướng riêng, đổ dồn những nguồn lợi khổng lồ vào những lãnh vực khác, nhất là vào những chi phí quân sự.
Tất cả chúng ta đều chứng kiến thấy tình trạng phát triển của những đam mê qui ngã thuộc biên giới riêng của mình, thuộc nhóm chủng tộc và quốc gia của mình. Đôi khi thậm chí ngay cả tôn giáo cũng bị bạo lực nữa. Mấy ngày nữa đây chúng ta sẽ nhắc lại cuộc tấn công thảm khốc vào tòa nhà tháp đôi ở Nữu Ước. Bất hạnh thay, nhiều niềm hy vọng về hòa bình đã sụp đổ xuống cùng với những tòa nhà tháp đôi này. Các cuộc chiến tranh và xung đột tiếp tục lan tràn và đầu độc đời sống nhiều dân tộc, nhất là các xứ sở nghèo khổ ở Phi Châu, Á Châu và Mỹ Châu Latinh. Tôi đang nghĩ đến hàng chục cuộc chiến tranh đang diễn ra cũng như đến thứ chiến tranh lan rộng gây ra bởi nạn khủng bố.
3. Những cuộc xung đột này cho tới khi nào mới chấm dứt? Cho tới bao giờ dân chúng cuối cùng mới thấy được một thế giới giải hòa? Chúng ta sẽ không làm cho tiến trình hòa bình được dễ dàng thuận lợi bằng việc dửng dưng tội lỗi để cho tình trạng bất công xẩy ra và phát triển trên trái đất của chúng ta. Những xứ sở nghèo thường trở thành những nơi bạo loạn, những lò nung đúc bạo lực. Chúng ta không muốn chiến tranh làm chủ chi phối sinh hoạt của thế giới và đời sống của các dân tộc. Chúng ta không muốn chấp nhận nghèo khổ như là một đồng bạn canh cánh bên mình của tất cả mọi quốc gia trong việc hiện hữu. Bởi thế chúng ta mới đặt vấn đề: Vậy chúng ta phải làm gì đây? Nhất là thành phần tín hữu phải làm những gì? Làm sao có thể tin được là có hòa bình trong thời điểm đầy chiến tranh này? Bởi thế, Tôi tin rằng “Những Cuộc Hội Ngộ Quốc Tế Cầu Nguyện Cho Hòa Bình” được Cộng Đồng Thánh Egidio tổ chức đây đã là một câu trả lời cụ thể cho các câu hỏi ấy. Những Cuộc Hội Ngộ này đã diễn ra 17 năm, và hoa trái hòa bình của chúng đã hiển nhiên trông thấy. Hằng năm con người từ các niềm tin khác nhau gặp gỡ, làm quen với nhau, giải quyết những căng thẳng, học cách sống chung, và chia sẻ trách nhiệm chung đối với vấn đề hòa bình.
4. Cuộc Hội Ngộ ở Aachen khi mở màn cho một tân thiên kỷ này một lần nữa mang đầy ý nghĩa. Thành phố này, ở tâm điểm của lục địa Âu Châu, rõ ràng nói về truyền thống cổ kính của Âu Châu, nói về những căn gốc xa xưa của nó, bắt đầu từ những căn gốc Kitô giáo là những gì làm hòa hợp và kiên vững những căn gốc khác nữa. Các căn gốc Kitô giáo không phải là một thứ ký ức về tính cách tôn giáo chuyên nhất mà là một thứ nền tảng của tự do, vì chúng làm cho Âu Châu trở thành như một cái nồi nung nấu đủ các thứ văn hóa và kinh nghiệm khác biệt với nhau. Chính từ những thứ căn gốc cổ kính này mà các dân tộc Âu Châu mới được thúc đẩy đi đến tận chân trời góc biển của trái đất này cũng như mới tiến vào chiều sâu của con người, của phẩm vị bất khả vi phạm nơi họ, của quyền bình đẳng căn bản nơi hết mọi người, của quyền công lý và hòa bình đại đồng.
Hiện nay Âu Châu, trong khi nới rộng tiến trình hiệp nhất của mình, được kêu gọi để tái nhận thức cái nghị lực này, ý thức được những căn gốc sâu xa nhất của mình. Quên đi những căn gốc này không phải là những gì lành mạnh. Chỉ hiểu ngậm mà thôi không đủ để soi sáng các tâm hồn. Giấu diếm chúng đi là làm cho tâm can héo hắt. Âu Châu sẽ trở nên mạnh mẽ hơn đối với thế giới hiện nay cũng như sau này ở chỗ cơn khát của nó được giải quyết nơi những nguồn mạch truyền thống về tôn giáo và văn hóa của nó. Kho tàng khôn ngoan về tôn giáo và nhân bản Âu Châu đã chất chứa qua các thế kỷ, bất chấp tất cả mọi thứ căng thẳng và tương phản kèm theo, là một thứ gia sản có thể lại được sử dụng vào việc phát triển của toàn thể nhân loại. Tôi tin rằng Âu Châu, nếu biết bám chặt lấy các thứ căn gốc của mình, sẽ phát triển một cách gia tốc tiến trình hiệp nhất nội bộ, cũng như sẽ thực hiện việc đóng góp thiết yếu của nó vào tình trạng tiến bộ và hòa bình nơi tất cả mọi dân tộc trên thế giới.
5. Trong một thế giới chia rẽ đang tiến tới chỗ càng ngày càng phân biệt và tư biệt thì càng cần phải hiệp nhất hơn. Con người thuộc các tôn giáo khác nhau được kêu gọi để tìm kiếm những cách thức gặp gỡ nhau và đối thoại với nhau. Hiệp nhất không phải là đồng nhất. Chúng ta không thể xây dựng hòa bình ở chỗ bất cần nhau mà là qua việc đối thoại và gặp gỡ. Đó là bí mật của cuộc hội ngộ Aachen.
6. Hết mọi người đến đây có thể nói rằng, trên con đường này, hòa bình nơi con người không phải là một lý tưởng xa vời.
7. “Danh xưng của một vị Thiên Chúa duy nhất càng ngày càng cần phải trở thành những gì danh xưng này là, một danh xưng hòa bình và là một hiệu triệu hòa bình” (Tông Thư Mở Màn Một Tân Thiên Kỷ, 55).
Đó là lý do tại sao chúng ta phải đẩy mạnh cuộc hội ngộ của chúng ta và phải đặt những nền móng hòa bình vững chắc chung. Những nền móng ấy sẽ giải giới bạo lực, đặt cơ sở cho trí khôn và lòng tôn trọng, cũng như bao bọc thế giới bằng những cảm giác yên lành. Cùng với anh chị em, hỡi anh chị em hết sức quí yêu, “chúng ta hãy cương quyết tiếp tục đối thoại” (Tông Huấn Giáo Hội Tại Âu Châu”. Chớ gì đệ tam thiên kỷ này là thời điểm hiệp nhất trong vị Thiên Chúa duy nhất. Không thể nào chấp nhận gương mù chia rẽ được nữa, vì nó là cứ phủ nhận Thiên Chúa và hòa bình.
Với anh chị em, những vị đại diện rất khả kính của các tôn giáo lớn trên thế giới, chúng ta muốn đẩy mạnh việc đối thoại hòa bình, bằng việc hướng mắt về Vị Cha của các dân tộc, nhận biết rằng tất cả mọi thứ khác biệt không phải là những gì khiến chúng ta đối chọi nhau mà là những gì dẫn chúng ta tới chỗ tôn trọng nhau, chân thành hợp tác với nhau, và xây dựng hòa bình. Cùng anh chị em nam nữ thuộc truyền thống trần thế, chúng ta cảm thấy chúng ta cần phải tiếp tục đối thoại và yêu thương như đường lối duy nhất để tỏ ra tôn trọng các thứ quyền lợi của hết mọi người cũng như để đối đầu với những thách đố của tân thiên kỷ này.
Thế giới đang cần hòa bình rất nhiều. Là những người tín hữu, chúng ta biết cách nguyện cầu để tiến đến với Đấng có thể ban cho chúng ta hòa bình. Đường lối tất cả chúng ta có thể đi theo đó là đường lối đối thoại trong yêu thương. Bởi thế, với các thứ vũ khí nguyện cầu và đối thoại, chúng ta hãy tiến bước trên con đường tiến về tương lai.
Tại Castel Gandolfo ngày 5/9/2003.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày 8/9/2003Lời Kêu Gọi Hòa Bình
của Cuộc Hội Ngộ Tôn Giáo Thế Giới ở Aachen Đức Quốc
500 vị lãnh đạo tôn giáo trên thế giới đã kết thúc Cuộc Hội Ngộ Quốc Tế lần thứ 17 năm 2003 ở Aachen về chủ đề “Con Người và Các Tôn Giáo” bằng Lời Kêu Gọi Hòa Bình như sau:
“Vào lúc mở màn cho Thiên Kỷ này, một thời điểm đầy hy vọng lẫn lo âu sợ hãi, chúng tôi, những con người nam nữ thuộc các tôn giáo khác nhau, từ rất nhiều phần đất trên thế giới, đến gặp nhau tại Aachen để van xin Thiên Chúa ban cho tặng ân hòa bình, một thứ hòa bình nhân loại hầu như không thể tự tạo lấy cho mình.
“Giữa lòng Âu Châu đây, khi nhìn vào những niềm trông mong muốn thấy được hòa bình và công lý, chúng tôi tự hỏi mình về trách nhiệm của chúng tôi. Chúng tôi đã gặp thấy tình trạng khổ đau ở Miền Nam thế giới cũng như ở các cuộc chiến tranh bị bỏ mặc, ở những nạn nhân bị khủng bố cũng như ở những nỗi sợ hãi gây ra bạo lực, ở một trái đất bị khốn khổ cũng như bị vi phạm bởi việc một thứ khai thác thiêu rụi hết mọi sự, thậm chí thiệu rụi cả tương lai chung của chúng ta nữa. Những lời kêu gọi của những tù nhân cũng như của những ai từ nhỏ đã chỉ chứng kiến thấy cảnh bạo lực và những cuộc chiến tranh không ngừng đã thấu đến tai chúng ta. Chúng ta đã cảm nghiệm được một nỗi hết sức bi quan hiện lên từ những căn gốc của thế kỷ mới này. Những tiếng nói và kêu gào hầu như không được biết tới của cả triệu triệu thành phần nghèo khổ không có thuộc uống, không được chăm sóc, không có an ninh, không được tự do, không có đất sống, không được hưởng những thứ quyền lợi căn bản nhất của con người, những tiếng nói và kêu gào này đã thấu tới tai chúng ta.
“Chúng tôi chuyên tâm tới các truyền thống tôn giáo của mình, đến những Sách Thánh, bằng việc lắng nghe Thiên Chúa. Thiên Chúa nói về hòa bình. Chúng tôi đã suy niệm và cầu nguyện. Chúng tôi cảm thấy cần phải cải tiến bản thân mình, để chiếm được hòa bình trong chúng tôi. Đối với các tín hữu, hòa bình không phải chỉ là một cuộc dấn thân trên thế giới mà còn là một tặng ân cần phải tìm kiếm trong lòng của mình.
“Hòa bình nằm ở tận thâm tâm các truyền thống tôn giáo của chúng ta. Hòa bình là tên gọi của Thiên Chúa. Chúng ta cố gắng lắng nghe chẳng những nỗi sầu thương của chúng ta mà còn cả nỗi sầu thương của kẻ khác nữa. Đó là lý do tại sao hôm nay đây chúng ta dứt khoát một cách không do dự lại quyết dấn thân vào con đường đối thoại khó khăn trong một thế giới hầu như thiên về xung khắc này.
"Việc đối thoại là việc dẫn đến hòa bình. Đối thoại là một nghệ thuật khiến chúng ta không còn cái yếm thế bi quan thiển cận của những ai nói là không thể nào có chuyện sống chung với kẻ khác được, cho rằng những sai trái chúng ta từng chịu đựng buộc chúng ta không bao giờ được chấm dứt hận thù. Đối thoại là con đường có thể cứu thế giới này khỏi chiến tranh.
"Chúng tôi đã tái nhận thức được niềm hãnh diện của việc đối thoại. Và đối thoại là một nghệ thuật mà các tôn giáo, văn hóa và những ai nắm trong tay sức mạnh cũng như quyền lực nhất trên thế giới phải ôm ấp. Đối thoại không phải là một chọn lựa của kẻ nhất sợ, hay của những ai lo ngại chiến đấu, nó không làm yếu kém đi căn tính của ai hết. Nó làm cho hết mọi con người nam nữ thấy được cái hay nhất nơi nhau; nó được bắt nguồn nơi phần tuyệt hảo của bản thân con người. Đối thoại là phương dược chữa lành các vết thương và mở ra cho dân chúng và các tôn giáo thấy cái đích điểm duy nhất khả dĩ, đó là việc sống với nhau trên mặt đất này, bằng việc bảo vệ nó và cống hiến nó cho các thế hệ mai hậu một trái đất còn đáng sống hơn cả ngày hôm nay.
"Với những ai nghĩ rằng không thể nào tránh được cảnh va chạm của các nền văn minh, chúng tôi muốn nói là quí vị hãy bung mình ra khỏi cái cảm quan yếm thế dồn nén tạo nên một thế giới đầy những bức tường và đầy những kẻ thù này, nơi không thể sống yên ổn và trong an bình. Nghệ thuật đối thoại dần dần làm tan biến đi những lý do gây ra khủng bố cũng như cất đi những căn do gây ra bất công đưa đến bất mãn và bạo lực.
"Với những ai tin rằng tên gọi của Thiên Chúa có thể được sử dụng để tuôn ra hận ghét và gây ra chiến tranh, để hạ nhục, và để tàn sát mạng sống của kẻ khác, chúng tôi muốn nói rằng Hòa bình là tên gọi của Thiên Chúa. Không bao giờ được phép sử dụng tôn giáo để biện minh cho hận thù và bạo lực. Trào lưu cực đoan bảo thủ là một chứng bệnh truyền nhiễm nơi bất cứ tôn giáo và văn hóa nào. Nhu cầu cần phải tìm kẻ thù để thiết lập căn tính của mình chỉ là những gì giam hãm chúng ta mà thôi, ở chỗ nó làm cho nhau tách rời ra và coi bạo lực đáng giá hơn là hòa bình.
"Với những ai vẫn cứ sát hại, lan truyền khủng bố và gây ra chiến tranh nhân danh Thiên Chúa, chúng tôi xin là “Hãy dừng tay! Đừng sát nhân! Bạo lực là một thứ thất bại đối với hết mọi người! Chúng ta hãy cùng nhau lo nghĩ cho nhau rồi Thiên Chúa sẽ soi sáng cho tất cả chúng ta!”
"Ở tại Aachen đây, chúng tôi cảm thấy nhu cầu cần có một Âu Châu có thể hướng về tinh thần hơn nữa. Chúng tôi cảm thấy nhu cầu cần có một Âu Châu có thể sống với Miền Nam của thế giới cũng như có thể thể hiện một thứ dân chủ chú trọng đến nhân quyền, nhờ đó chúng ta có thể góp phần một cách quyết liệt cho ngàn năm thứ ba.
"Từ Aachen đây, chúng tôi đã dâng lên Thiên Chúa lời nguyện chung tha thiết cầu cho hòa bình. Xin Thiên Chúa ban cho hết mọi con người nam nữ, xin Thiên Chúa ban cho hết mọi nhà lãnh đạo, biết nhẫn nại đối thoại một cách khôn ngoan và thực tiễn. Xin Thiên Chúa giải thoát hết mọi người khỏi ảo ảnh của một thứ chiến tranh chính đáng và trong sạch. Thiên Chúa mạnh hơn những ai thích chiến tranh. Thiên Chúa mạnh hơn những ai gieo rắc hận thù. Thiên Chúa mạnh hơn những ai sống bạo động.
"Xin Thiên Chúa ban cho thế kỷ mới của chúng ta đây tặng ân hòa bình tuyệt vời.
Aachen, 9/9/2003
Các Cuộc Hội Ngộ Liên Tôn Quốc Tế đã được bắt đầu từ thập niên 1980, như là một sáng kiến của Cộng Đồng Thánh Egidio, với mục đích phát động tương kiến và đối thoại giữa các tôn giáo với nhau theo chiều hướng hòa bình.
Cộng Đồng Thánh Egidio đã tiếp tục sống tinh thần Ngày Thế Giới Cầu Nguyện ở Assisi do Đức Gioan Phaolô đề xướng vào năm 1986, bằng việc đáp lại lời kêu gọi cuối cùng của vị Giáo Hoàng này giành cho cuộc hội ngộ lịch sử ấy: “Chúng ta hãy tiếp tục loan truyền sứ điệp Hòa Bình và sống tinh thần Assisi”. Từ giây phút đó, qua một tổ chức thân hữu giữa các vị đại diện thuộc các niềm tin và văn hóa khác nhau trên 60 quốc gia, Cộng Đồng này đã phát động một cuộc hành hương hòa bình, một cuộc hành hương đã trải qua những chặng đường ở những thành phố Âu Châu và Địa Trung Hải từ năm này sang năm khác.
1987 ở Rôma với chủ đề “Cầu nguyện là mạch nguồn hòa bình”
1988 ở Rôma với chủ đề “Con người cầu nguyện trong việc tìm kiếm hòa bình”.
1989 ở Warsaw với chủ đề “Không bao giờ còn xẩy ra chiến tranh nữa”, dịp kỷ niệm 50 năm Thế Chiến Thứ Hai bùng bổ.
1990 ở Bari: “Từ Đông sang Tây, một Đại Dương Hòa Bình”.
1991 ở Malta 1991: “Các Tôn Giáo với một Đại Dương Hòa Bình”.
1992 ở Brussels với chủ đề “Âu Châu, Tôn Giáo, Hòa Bình” liên quan đến mối hiệp nhất Âu Châu và mối liên hệ của châu này với Miền Nam thế giới).
1993 ở Milan: “Trái Đất của Con Người, Những Lời Kêu Cầu cùng Thiên Chúa”.
1994 ở Assisi: “Những người bạn của Thiên Chúa, chứng nhân hòa bình”.
1995 ở Florence: “Các Tầng Trời và Trái Đất của Hòa Bình”.
1995 một cuộc hội ngộ đặc biệt diễn ra tại Giêrusalem, trung tâm của Thành Thánh, với chủ đề “Cùng nhau ở Giêrusalem: Các tín đồ của Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo”.
1996 ở Rôma: “Hòa Bình là Tên Gọi của Thiên Chúa”
1997 ở Padua-Venice: “Xung Khắc hay Gặp Gỡ: Các Tôn Giáo và Văn Hóa ở Giao Điểm”
1998 một cuộc hội ngộ ngoại lệ được tổ chức ở Bucharest với chủ đề “Hòa Bình là tên gọi của Thiên Chúa: Thiên Chúa, Nhân Loại, Các Dân Tộc”. Cuộc hội ngộ này lần đầu tiên được tổ chức bởi Cộng Đồng này cùng với Giáo Hội Chính Thống Romania. Sự hiện diện của một số các vị thượng phụ Chính Thống và các vị hồng y khiến cho bầu không khí đối thoại mới này mở đường dẫn đến cuộc viếng thăm đầu tiên của ĐTC tới một xứ sở Chính Thống xẩy ra sau đó ít tháng sau.
1999 ở Genoa: “Các Giáo Hội như Tỉ Muội, Các Dân Tộc như Huynh Đệ, Kitô Hữu Qui Tụ trước Thềm Đệ Tam Thiên Kỷ”.
2000 ở Lisbon: “Những Đại Dương Hòa Bình: Các Tôn Giáo và Văn Hóa Đối Thoại”.
2001 ở Barcelona, kỷ niệm 15 năm cuộc hội ngộ này, với chủ đề “Nơi Biên Giới Đối Thoại: Các Tôn Giáo và Nền Văn Minh trong Tân Thế Kỷ”
2002 ở Palarmo: “Các Niềm Tin và Văn Hóa trong Tương Khắc và Đối Thoại”.
2003 ở Aachen: “Chiến Tranh và Hòa Bình: Các Niềm Tin và Văn Hóa Đối Thoại”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ tài liệu được www.santegidio.org/en/index.html. phổ biến
Lộ Trình Hòa Bình Trung Đông: Chướng Ngại Vật nào cần phải loại trừ?
Tình trạng xung khắc quyền lực bên phe Palestine giữa Tổng Thống Arafat và Thủ Tướng Abbas, khiến Thủ Tướng Abbas xin từ chức, nhân vật theo phe Do Thái có thể hợp tác tích cực trong việc làm chủ các nhóm chiến đấu quân khủng bố của Palestine, làm cho phe Do Thái đi đến chỗ nghĩ rằng cần phải tiêu diệt chính Arafat, nhân vật bị họ cho như dung dưỡng các nhóm chiến đấu quân này, làm cho các nhóm chiến đấu quân ấy dễ dàng thực hiện những cuộc khủng bố tấn công sát hại dân chúng Do Thái.
Trước dự định này của phe Do Thái, hàng ngàn ngàn người Palestine ở Ramallah, Gaza City, Nablus, Tulkarem và Khan Younis xuống đường phản đối. Nhiều người trong họ đã bắn chỉ thiên, diễn hành qua đường phố tối Thứ Năm 11/9/2003 hô hoán “Arafat, chúng tôi xin lấy máu mình, lấy mạng sống mình hy sinh cho ông”, “Hỡi Sharon, hãy nghe đây, Arafat không đi đâu hết”.
Ngoại Trưởng Palestine Nabil Shaath đã cho lời loan báo của Do Thái là “một lời tuyên bố khai chiến”. Theo một bản tường trình của truyền hình, Tổng Thống Arafat tuyên bố: “Đây là đất thánh (terra sancta). Không ai có thể đá tôi đi được hết”. Trả lời cho phóng viên về sinh mạng của mình, vị tổng thống này đã nói họ “có thể giết tôi bằng bom của họ”, nhưng tôi “nhất định không” rời chỗ này.
Được CNN hỏi hội đồng nội các Do Thái có muốn dùng võ lực bắt Arafat phải rời tổng hành dinh Ramallah của ông ta chăng, phát ngôn viên của Thủ Tướng Ariel Sharon trả lời: “Không hẳn là như vậy. Hôm nay Hội Đồng Nội Các này đã quyết định loại trừ chướng ngại vật này. Thời điểm, phương pháp – những đường lối thực hiện điều này – sẽ được quyết định riêng rẽ, và những chương trình an ninh sẽ tiếp tục thanh tra tình hình và nêu lên những đề nghị về việc thích hợp như chúng đã được thực hiện trong quá khứ”. Vấn đề ỏ đây là “làm sao để loại trừ chướng ngại vật này mà không gây ra đổ vỡ hơn nữa” cho tình trạng hòa bình với người Palestine. Phe Do Thái còn khôn ở chỗ không để cho Arafat trở thành một vị tử đạo, trái lại, theo lời phát ngôn viên này, “chúng tôi chỉ muốn biến hắn thành một tay khủng bố đáng ngại hơn nhiều”.
Tân Thủ Tướng Palestine Qorei cho biết lời tuyên bố của Do Thái về Arafat là “nó sẽ làm leo thang tình hình. Nó sẽ làm cho tất cả mọi nỗ lực… đang cố gắng thực hiện lộ trình này… bất khả, vô dụng”. Ông kêu gọi các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ “hãy yêu cầu chính quyền Do Thái thay đổi quyết định này và cởi mở đối thoại với Palestine lập tức hay chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội”. Đối với phe Palestine, như ông ngoại trưởng Palestine Nabil Shaath cho biết thì “việc loại trừ chướng ngại vật cần phải được bắt đầu bằng cách loại trừ việc chiếm đóng. Chính việc chiếm đóng của Do Thái mới là chướng ngại vật. Chúng tôi không xâm chiếm lãnh thổ của Do Thái. Các lực lượng Do Thái đang chiếm chiếm cứ xứ sở của chúng tôi. Chướng ngại vật ngăn trở hòa bình bắt đầu từ đó. Chướng ngại vật thứ hai liên quan đến vấn đề chiếm cứ bằng việc định cư, bằng việc xây những bức tường ngoằn nghèo vào thung lũng Vùng Tây Ngạn, như Tổng Thống đã diễn tả”. Ông này có ý nói đến “hàng rào an ninh” ở đây.
Hôm Thứ Năm 11/9/2003, Hội Đồng Nội Các an ninh Do Thái cũng đã quyết định “đẩy mạnh việc kiến tạo hàng rào an ninh” ở vùng Tây Ngạn để đề phòng các tên khủng bố lọt vào Do Thái. Bản thông báo của Do Thái hôm Thứ Năm còn cho biết: “Do Thái phải nhấn mạnh chủ trương của mình là Do Thái sẽ thương thảo chỉ với vị thủ tướng nào lập tức thực hiện việc giải giới và loại trừ các tổ chức khủng bố”.
Phản ứng của thế giới về việc Do Thái quyết định loại trừ Arafat như sau: Về Hoa Kỳ, phát ngôn viên Bộ Nội Vụ Richard Boucher nói rằng Hoa Kỳ thấy Arafat “là một phần của vấn đề, chứ không phải là một phần của việc giải quyết. Đồng thời chúng tôi nghĩ rằng loại trừ ông ta không có ích lợi gì, vì tạo nên cho ông ta một sân khấu khác để tiếp tục trình diễn”. Tổng thống Hosni Mubarak cũng cảnh giác việc loại trừ Arafat: “Không ai có thể nói những gì sẽ xẩy ra ở các lãnh thổ Palestine một khi Arafat bị loại trừ. Khủng bố, bạo loạn sẽ bùng lên khắp nơi. Nó sẽ là một tình hình rất là nguy hiểm”. Nga Sô, qua lời của phát ngôn viên của ngoại trưởng Alexander Yakovenko, cũng chống lại việc loại trừ Arafat: “Việc thực hiện quyết định này sẽ là một lầm lỗi chính trị trầm trọng là những gì sẽ mang lại tác dụng tiêu cực tệ hại nhất cho tình hình ở một miền vốn dĩ đã hết sức phức tạp”.
Cả hàng trăm con người trẻ Hồi giáo Palestine khi xong việc cầu nguyện ban chiều ở Giêrusalem hôm Thứ Sáu đã ném đá vào những người Do Thái đang nguyện cầu ở Bức Tường Than Khóc để tỏ ra phản đối bất cứ quyết định nào của Do Thái bất lợi cho Arafat.
Hôm Thứ Sáu, 12/9/2003, trong một bản văn, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã nói: “Việc dùng võ lực để thuyên chuyển Tổng Thống Arafat la ụ những gì nguy hiểm và phản chứng trong một tình hình đang căng thẳng và bất ổn ở vùng này”. Pháp, Nga, Đức, Ý và Hiệp Vương Quốc đã cảnh giác là việc loại trừ Arafat sẽ là một lầm lẫn và Khối Liên Hiệp Ả Rập đã nói rằng Do Thái thực sự đã “tuyên chiến” đối với tiền trình hòa bình, như phát ngôn viên của Khối Hiệp Nhất Âu Châu là Diego Ojeda cho The Associated Press biết: “Chúng tôi tin rằng đó là một lầm lẫn kinh khủng sẽ gây ra những hậu quả trầm trọng khắp cả miền ấy”.
Vị phó thủ tướng Do Thái là ông Ehud Olmert hôm Chúa Nhật 14/9/2003 đã nói với CNN rằng: “Theo quan điểm luân lý cơ bản, tôi muốn đặt vấn đề này với hết mọi con người còn lương tâm: Còn bao nhiêu người dân nữa cần phải bị sát hại… trức khi có người đến nói rằng ‘Này, hãy ngăn chặn kẻ đã từng chịu trách nhiệm về tất cả những điều ấy?’”
Phản ứng lời của vị phó thủ tướng Do Thái này, bộ trưởng Palestine Saeb Erakat đã cho Đài Phát Thanh CNN biết rằng: “Các chính quyền quốc gia phải gắn bó với qui tắc của lề luật. Tôi nghĩ rằng những gì chính quyền Do Thái đang làm hiện nay không phải là hành động của một quốc gia nữa, mà giống như băng đảng”.
Ông Olmert nói rằng Arafat “là đầu của một hoạt động sát nhân là hoạt động đã từng phạm đến thành phần vô tội nhiều lần trên đường phố của chúng tôi. Mọi người đều biết hắn là một tên xúi bẩy và ủng hộ tất cả mọi tổ chức đang gieo rắc những hành động gian ác này, bởi thế mới cần phải làm một điều gì đó”.
Trong ba ngày liền, các đám đông dân chúng Palestine đã tụ họp hôm Chúa Nhật 14/9 ở bên ngoài khu vực của Arafat tỏ dấu ủng hộ vị lãnh thụ bị công hãm này.
15/9 Thứ Hai, Lễ Ðức Mẹ Ðau Thương
Mẹ Maria Liên Kết Bản Thân vào Hy Tế của Chúa Giêsu
(Bài Giáo Lý Thánh Mẫu của ÐTC Gioan Phaolô II)
1.- Regina ceali laetare, alleluia! (Hãy vui lên, hỡi Nữ Vương Thiên Đàng hãy vui mừng!)
Giáo Hội đã xướng lên như thế trong Mùa Phục Sinh đây, kêu gọi tín hữu hãy dự phần vào niềm vui thiêng liêng của Mẹ Maria, Mẹ Đấng Cứu Chuộc. Niềm hân hoan của Đức Trinh Nữ trong việc Phục Sinh của Chúa Kitô còn cao cả hơn nữa, nếu người ta xét đến việc Mẹ sâu xa tham dự vào cả cuộc sống của Chúa Giêsu.
Trong việc chấp nhận bằng tất cả tấm lòng cởi mở trước những lời của Thiên Thần Gabiên, vị truyền tin cho Mẹ rằng Mẹ sẽ trở nên Mẹ Đấng Thiên Sai, Mẹ Maria đã bắt đầu tham dự vào thảm kịch Cứu Chuộc. Việc Mẹ gắn liền với hy tế Con của Mẹ, được Simêon tiết lộ cho biết ở việc Mẹ dâng Con Mẹ trong Đền Thờ, tiếp tục chẳng những trong đoạn Phúc Âm trình thuật về việc lạc mất rồi tìm thấy thiếu nhi Giêsu 12 tuổi, mà còn suốt cả cuộc đời sống công khai của Người nữa.
Tuy nhiên, việc Đức Trinh Nữ liên kết với sứ vụ của Chúa Kitô chỉ đạt đến tột đỉnh của mình ở Giêrusalem, vào lúc Khổ Nạn và Tử Giá của Chúa Kitô mà thôi. Như Phúc Âm Thứ Bốn chứng thực, Mẹ cũng đã có mặt ở Thành Thánh vào lúc có thể là thời gian cử hành lễ Vượt Qua của người Do Thái.
2.- Công Đồng đã nhấn mạnh đến khía cạnh sâu xa của việc Đức Trinh Nữ hiện diện ở đồi Canvê, khi nhắc nhở rằng: “Mẹ kiên trì một cách trung thành trong việc hiệp nhất với Con Mẹ cho đến chân cây Thập Giá” (Lumen Gentium, 58), và vạch ra cho thấy là cuộc hiệp nhất này “nơi công cuộc cứu độ được bộc lộ từ lúc Chúa Kitô hoài thai cho đến khi chết đi” (cùng nguồn vừa trích dẫn, 57).
Với ánh mắt được soi chiếu bằng ánh quang Phục Sinh, chúng ta hãy lặng thinh để suy niệm về việc Người Mẹ tham dự vào Cuộc Khổ Nạn cứu chuộc của Con mình, một cuộc khổ nạn được hoàn tất bằng việc Mẹ thông phần vào cuộc khổ đau của Người. Một lần nữa chúng ta hãy trở lại, nhưng giờ đây theo quan điểm của biến cố Phục Sinh, với cây Thập Giá là nơi Người Mẹ này đã chịu đựng “cùng với Người Con duy nhất của mình cơn khổ đau thống thiết của Người, bằng việc liên kết bản thân Mẹ với hy tế của Người trong lòng của Mẹ, và bằng việc sẵn lòng đồng ý với việc sát tế của hy vật được Mẹ sinh ra đó” (cùng nguồn vừa dẫn, 58).
Bằng những lời này, Công Đồng nhắc nhở chúng ta về “lòng thương cảm của Mẹ Maria”; tất cả những gì Chúa Giêsu phải chịu đựng nơi thân xác và linh hồn của Người đều dội lại nơi trái tim Mẹ, vì Mẹ sẵn lòng thông phần vào hy tế cứu chuộc của Con Mẹ và liên kết nỗi đau khổ mẫu thân của Mẹ với lễ dâng tư tế của Người.
Bản văn của Công Đồng còn nhấn mạnh rằng việc ưng thuận của Mẹ cho việc Chúa Giêsu sát tế không phải là một việc chấp nhận một cách thụ động, mà là một tác động yêu thương đích thực, một tác động Mẹ thực hiện để hiến dâng Con Mẹ như là một “hy vật” đền bù tội lỗi của tất cả nhân loại.
Sau hết, Hiến Chế Lumen Gentium đã liên kết Đức Trinh Nữ với Chúa Kitô, Đấng đóng vai trò chính yếu trong việc Cứu Chuộc, bằng cách cho thấy rằng trong việc gắn bó bản thân mình “với hy tế của Người”, Mẹ đã đóng vai trò phụ trợ cho Người Con thần linh của Mẹ.
3.- Ở Phúc Âm Thứ Bốn, Thánh Gioan viết rằng “đứng bên Thập Giá của Chúa Giêsu có Mẹ của Người, cùng người chị em của Mẹ Người là Maria vợ Clêôpha, và Maria Mai-Đệ-Liên” (19:25). Sử dụng động từ “đứng”, theo nghĩa đen có nghĩa là “ở trên đôi bàn chân”, là “thẳng đứng”, có lẽ vị Thánh Ký này muốn cho thấy tư cách và sức mạnh được tỏ ra nơi nỗi buồn khổ của Mẹ Maria và của hai người nữ kia.
Việc Đức Trinh Nữ “thẳng đứng” dưới chân Thập Giá đã nhắc lại việc Mẹ không ngừng trung thành và can đảm phi thường khi đối diện với khổ đau. Nơi những biến cố thảm thương ở đồi Canvê, Mẹ Maria vẫn vững tin, một đức tin kiên cường qua những biến cố của đời Mẹ, nhất là trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Công Đồng nhắc lại rằng “Đức Trinh Nữ tiến tới trong cuộc hành trình đức tin của Mẹ và trung thành bảo trì việc Mẹ hiệp nhất với Con Mẹ cho đến chân cây Thập Giá” (Lumen Gentium, 58).
Chia sẻ với những cảm xúc sâu xa nhất của Người, Mẹ đã phản ngược lại những xỉ nhục ngạo mạn nhắm vào Đấng Thiên Sai bị đóng đinh, bằng sự chịu đựng và bằng một tấm lòng thứ tha, liên kết mình với lời Người nguyện cầu cùng Cha: “Xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lk 23:34). Trong việc thông phần vào cảm thức phó mình cho ý muốn của Chúa Cha, qua lời cuối cùng Chúa Giêsu bày tỏ trên Thập Giá: “Lạy Cha, Con xin phó thần trí Con trong tay Cha” (Lk 23:46), Mẹ cũng đã, như Công Đồng ghi nhận, tỏ ra lòng mến yêu ưng thuận của mình “về việc sát tế của hy vật được sinh ra bởi Mẹ ấy” (Lumen Gentium, 58).
4.- Lời “xin vâng” hết mình của Mẹ Maria này đã chiếu tỏa niềm hy vọng tin tưởng nơi một tương lai huyền nhiệm, một tương lai được bắt đầu với cái chết của Người Con tử giá của Mẹ. Những lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ trong cuộc hành trình lên Giêrusalem là “Con Người phải chịu nhiều khổ đau, bị các kỳ lão, trưởng tế và luật sĩ loại trừ, rồi bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại” đã vang vọng nơi trái tim Mẹ vào giờ khắc thảm thiết trên đồi Canvê, khi khơi lên niềm mong đợi và hướng vọng Phục Sinh.
Niềm hy vọng của Mẹ Maria dưới chân Thập Giá chất chứa một thứ ánh sáng mạnh hơn thứ bóng tối cai trị nơi nhiều cõi lòng, ở chỗ, trong việc Hy Tế cứu chuộc được thực hiện, niềm hy vọng của Giáo Hội cũng như của nhân loại đã được phát sinh nơi Mẹ Maria.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 9/4/1997)
Mẹ của Người đứng bên cây thập giá
(Thánh Bênađô, Đan Viện Phụ: Sermo in dom, infra oct. Assumptionis,14-15: Opera omnia, Edit Cistere 5/1968, 273-274)
Cuộc tử đạo của Đức Trinh Nữ được bày tỏ nơi lời tiên tri của Simêon cũng như trong biến cố khổ nạn thực sự của Chúa Kitô. Ông già thánh thiện đã nói về hài nhi Giêsu là: Em đã được ấn định trở thành một dấu hiệu tương khắc. Ông nói tiếp với Mẹ Maria rằng: “Và lòng của bà sẽ bị một lưỡi gươm đâm thâu”.
Ôi Thánh Mẫu, một lưỡi gươm thực sự đã đâm thâu lòng Mẹ. Vì chỉ có xuyên qua lòng của Mẹ lưỡi gươm mới có thể đâm vào xác thịt của Con Mẹ mà thôi. Thật thế, sau khi Chúa Giêsu, Đấng thuộc về hết mọi người, nhất là thuộc về Mẹ, đã tắt thở, thì một lưỡi đòng oan nghiệt, một lưỡi đòng cũng không dung tha cho thi thể vô hồn của Người, đã đâm thủng cạnh sườn của Người. Nó hoàn toàn không chạm đến linh hồn của Người và không thể tác hại được Người, nhưng nó quả thực xuyên qua lòng của Mẹ. Vì linh hồn của Người thực sự không còn ở đó nữa, nhưng linh hồn của Mẹ không thể nào không bị xâu xé. Bởi thế việc hành hung buồn đau đã làm cho lòng Mẹ đoạn trường, và chúng con có lý để coi Mẹ còn hơn là một vị tử đạo nữa, vì tác dụng cảm xúc khổ đau nơi Mẹ đã vượt ngoài sức chịu đựng khổ đau về thể lý.
Hay là những lời này: Hỡi bà, này là Con của Bà, không phải còn hơn là một lưỡi gươm đối với Mẹ hay sao, thực sự xuyên thấu lòng Mẹ, cắt đôi linh hồn và thần trí của Mẹ hay sao? Ôi cuộc trao đổi! Tông đồ Gioan được trao phó cho Mẹ thay thế Chúa Giêsu, người tôi tớ thế chỗ cho Vị Chủ, người môn đệ thay chỗ cho sư phụ.; người con của Giêbêđê thay chỗ Con Thiên Chúa, một con người thuần túy thế chỗ cho chính Thiên Chúa. Làm sao những lời ấy lại không xuyên thấu trái tim rất yêu dấu của Mẹ được, khi mà nguyên việc chúng con tưởng nhớ đến những lời này mà thôi cũng đã làm cho lòng của chúng con đau lòng rồi, cho dù nó là tấm lòng chai đá và sắt thiếc!
Anh em ơi, đừng có lấy làm lạ là Mẹ Maria được gọi là vị tử đạo trong tinh thần. Ai lạ lùng là vì họ không nhớ những lời của Thánh Phaolô nói rằng, một trong những tội ác lớn nhất của Dân Ngoại là tội họ không có tình yêu. Điều này hoàn toàn không đúng với trái tim của Mẹ Maria; chớ gì nó cũng không đúng với các tôi tớ của Mẹ.
Có thể sẽ có người nói: “Chẳng lẽ Mẹ lại không biết trước rằng Người sẽ chết hay sao?”. Điều này không có hồ nghi gì cả. “Chẳng lẽ Mẹ lại không nghĩ rằng Người sẽ sống lại hay sao?”. Chắc chắn là thế rồi. “Và chẳng lẽ Mẹ cứ thương khóc Người Con tử giá của Mẹ ư?”. Một cách da diết. Anh em là ai và khôn ngoan của anh em ở đâu mà anh em lại tỏ ra lạ lùng về cảm xúc đớn đau của Mẹ Maria hơn là cuộc khổ nạn của Con Mẹ chứ? Vì nếu Người đã chết nơi thân xác bởi một mối tình cao cả chưa từng thấy trên đời. Thì Mẹ cũng đã chết trong tinh thần bởi một mối tình không giống như bất cứ một thứ tình yêu nào khác ngoại trừ mối tình của Người.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 1554-1555)
ĐỒI CAN-VÊ LOANG MÁU
(trích Thần Ðô Huyền Nhiệm)
Sau khi Thánh Giá đã được dựng lên trên đồi Canvê, Chúa Giêsu âm thần thưa lên với Cha của Ngài những lời sau đây, trước khi nói lên bảy lời từ Thánh Giá mà Phúc Âm đã thuật lại: "Lạy Cha, từ Thánh Giá con đang nằm đây, Con tôn vinh Cha vì đã nâng Nhân Tính của Con lên chức phẩm tối cao là làm Đấng Cha tấn phong, ban cho toàn quyền thống trị mọi thụ tạo, cả trong phạm vi tự nhiên, cả trong phạm vi ân sủng. Chính vì nhờ cón Thánh Giá, mà Con hoàn toàn công cuộc Cứu Chuộc loài người, nên Con xin cho Thánh Giá nên toà án công chính và nhân hậu của chúng ta, vừa đối với những kẻ bị luận phạt vì ngoan cố nổi loạn nên chịu hỏa ngục, vừa đối với những người được tuyển chọn đã trung thành với lề luật của Con mà xứng đáng hưởng gia nghiệp Con lập. Đấng Chân Phúc trên hết là chính Mẹ rất trong sạc của con, con đặt Người là Đấng thừa kế, phổ quất toàn thể sản nghiệp tự nhiên ân sủng và vinh quan thuộc về con. Con đặt người làm chủ tuyệt đối trên các thiên thần và loài người, trên cả loài ma qủy và toàn thể các thụ tạo không có lý trí - Sau cùng, Con đặt Người làm chủ kho ban phát hết mọi của cải trên trời dưới đất, và tất cả những gì Người định đoạt trong Giáo Hội, đều được xác nhận ở cả trên trời". Đấy là đại ý bản chúc thư Chúa di lại cho loài người. Bản chúc thư này được dấu kín và cất giữ trong Trái Tim Mẹ Maria, để được thực hiện tuỳ thời gian.
Thánh Giá vừa là Ngai vương đế của Chúa Giêsu, vừa là toà giảng Chúa dạy khoa học sự sống thêm vào giáo thuyết của Ngài một mẫu gương Ngài làm, nên, trước hết, Ngài tuyên bố một lời chứa đựng đức ái ở cao độ tuyệt vời: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Như vậy là Ngài đã yêu thương cừu địch của Ngài, không những tha thứ cho họ, mà còn bào chữa cho họ, ngay trong lúc họ tỏ ra tàn ác đến độ cao nhất đối với Ngài. Nghe lời ấy, một trong hai tên đạo tặc Dimas, đã hiểu ra chút ít tình thương nhân hậu của Chúa, và nhờ có Mẹ Maria cầu xin cho, y được soi sáng trong tâm hồn, nhân ra Người chịu đóng đanh bên y là Đấng Cứu Thế. Cho nên, sau khi tự trách mình và quở trách tên đồng bạn với mình vì đã phạm thượng, y kêu lên với Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa nhớ đến con khi Chúa vào nước Chúa”. Và Chúa Giêsu đã trả lời: “Ngay hôm nay, con sẽ được vào cõi phúc”, tức là u ngục, nơi mà Ngài sắp tới để mang nguồn vui thiên đàng đến cho. Sau cuộc ban ân sủng chinh phục đó, Chúa Giêsu thưa với Mẹ Ngài: “Thưa bà, Con bà đây này”. Chúa chỉ nói tiếng “Bà” để tự tước bỏ niềm an ủi đi liền với tiếng “Mẹ” rất dịu dàng trong lúc đau đớn ấy vì loài người, nhưng trong thâm tâm, Chúa thêm rằng: “Mẹ là phụ nữ hạnh phúc hơn hết các phụ nữ, luôn luôn trung thành yêu mến con, luôn luôn ân cần phụng sự con, giờ đây, con sắp sửa về với Cha của Con, Con không sống với Mẹ nữa nhưng môn đệ dấu yêu của con sẽ phục vụ Mẹ như Con phục vụ Mẹ”. Từ lúc ấy, Mẹ Maria đã nhận Thánh Gioan làm con mình với một niềm tùng phục khiêm nhượng. Chúa Giêsu cũng nói với Thánh Gioan: “Mẹ của con đây này”. Qua lời ấy, Thánh Gioan nhận được nhiều áng sáng mới về những vẻ cao trọng của Mẹ Maria, để phục vụ Mẹ cách hoàn hảo hơn.
Vào lúc khoảng 3 giờ, Chúa Giêsu kêu lên hiển hách bằng ngôn ngữ Hibá rằng: “Ôi thiên Chúa Tôi, tại sao Ngài bỏ rơi Tôi?”. Bấy giờ Ngài đặc biệt nhìn thấy những kẽ bị trầm luân: sự chúng phải xa lìa Ngài đời đời, sau khi Ngài chịu biết bao đau khổ cho chúng như vậy làm cho Ngãi rất đau đớn, đau đớn như ở vườn Cây Dầu trong đêm vừa qua.
Để chứng tỏ tâm tình khao khát cho mọi người được cứu rỗi, Ngài kêu lên lời thứ năm: “Ta khát;” thật ra, những đau khổ Ngài chịu trong cuộc tử nạn rất có thể gây cho Ngài một sự khát nước tự nhiên, nhưng đó không phải lá duyên cớ để Ngài kêu khát. Khát đây là Ngài khát các linh hồn. Chỉ một mình Mẹ Maria mới hiểu như thế. Còn bọn lý hình hiểu theo lý thường, nên chúng muốn thỏa tính cười nhạo của chúng mà lấy một cái bọt bể, thấm vào mật đắng và dấm chua, cắm vào đầu một cái gậy, nâng lên tới miệng Ngài. Muốn làm trọn lời tiên báo của tiên tri Đavít, Chúa Giêsu đã uống một chút để tỏ ra rằng Ngài dung nhận số phận của những kẻ bị trầm luôn; song Ngài đã ngưng lại ngay vì lời Mẹ rất thống thiết của Ngài cầu xin.
Cho nên, sau cùng, Ngài ngước mắt lên trời nói lời thứ bảy: “Lạy Cha, Con phó linh hồn con trong tay Cha”. Con đã từ Cha ra đi cốt để nhận một cuộc sống chết chóc, bây giờ con bỏ nó mà trở về với Cha. Sau lời cuối cùng này, Ngài lại gục đầu xuống và trút linh hồn.
Với tư cách là Mẹ Đấng Cứu Thế và là Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, Mẹ Maria không những thấu hiểu tất cả những mầu nhiệm ấy, mà còn cảm thấy tất cả những đau khổ trong cuộc tử nạn. Đau khổ vì các chết của Con Mẹ dằn vặt Mẹ hơn tất cả những đau khổ khác, và còn vượt trên tất cả những đau khổ loài người phải chịu từ thuở tạo thành trời đất. Nếu Mẹ không chết vì các chết ấy, đó là do một phép lạ vĩ đại hơn tất cả các phép lạ đã gìn giữ Mẹ trong tất cả các phép lạ trong suốt cuộc Tự Nạn. Để ân thưởng cho sự đau đớn sau cùng này, Thiên Chúa làm cho chút hữu thể trần gian từng đã hoạt hoá thân xác Đồng Trinh của Mẹ nên thiêng liên cách đặc biệt hơn nữa.
Mẹ cũng được ân thưởng vì đã muốn cho vạn vật đảo lộn bấy giờ. Trời đất xáo động, các tầng trời ngưng vận chuyển, trái đất run giùng, núi non vỡ lở, đá vỡ ra tan nát; mồ mả mở tung; màn trong Đền Thờ xé đôi. Nhiều người xúc động trước biến cố lạ lùng ấy đã nhận biết Chúa Giêsu là Thánh, chẳng hạn như ông bách quân trưởng, và nhiều người khác vừa từ núi Canvê trở về vừa đấm ngực hối hận. Nhưng người Do Thái ở Giêrusalem bấy giờ mặc dầu kinh hoàng, họ cũng không chịu mở mắt nhìn nhận sự thật mà cả vạn vật vô linh đều tuyền nhận qua những đảo lộn khác thường ấy.
Luciphe và chúng qủy mà Mẹ Maria đã bắt phải ở lại, bị vón lại như một lũ sâu bọ, đứng thất kinh bất động gần Thánh Giá. Lúc ấy, Chúng phải chịu những cực hình rất khốn nạn, chỉ muốn chui xuống hỏa ngục cho rồi, nhưng không thể được. Và khốn cho chúng là cứ mỗi lời Chúa phán từ Thánh Giá là chúng lại phải bẽ bàng khổ sở. Cực nhất là lời: “Thưa Bà, Con Bà đây này”, và “Đã hoàn tất”. Sau lời “Thưa Bà,” Lucia mới nhận ra rõ ràng Mẹ Maria là Đức Nữ Thiên Chúa đã cho Y thấy trên trời trước khi Y sa ngã. Bấy giờ Y và chúng qủi mới cào cấu nhau, cắn xé nhau, giận giữ như một đàn dã thú; nhất là Y càng căm giận Mẹ hơn, nhưng chẳng làm gì được nữa. Y nhục nhã qúa muốn hoá ra khói mà bay đi cho khuất, nhưng không sao được. Sau lời “Đã hoàn tất” đống ý với Chúa Giêsu, Mẹ Maria xô chúng qủi xuống hoả ngục. Chúng bị nhục nhã trong đó hết sức, đứa nào cũng muốn tìm một xó kẹt xâu kín nhất má chôn mình vào. Chúng nhận ra chắc chắn Thần Tính Chúa Giêsu Kitô, hiệu qủa ơn cứu chuộc, những cao trọng của Mẹ Maria, quyền lực và các linh mục được thông phần với Chúa Cứu Thế để chống lại chúng và để giúp đỡ những người lành. Càng nhận ra, chúng càng căm hờn phẫn nộ. Chúng tìm những phương thế mới để báo thù Thiên Chúa và loài người. Chúng quyết gieo rắc nhiều tội lỗi để gặt hái những kẻ trầm luân. Chúng thúc giục nhau duy trì việc thờ ngẫu tượng nơi loài người, tìm ra những lạc giáo, hủ hoá tuổi trẻ, xáo trộn đời sống hôn nhân, bắt hại người lành, dục người ra đừng chịu các nhiệm tích, dập tắt lòng đạo đức, nhất la xui người ta quên ơn Cứu Chuộc của Chúa, coi thường sự cầu bầu của Mẹ Maria, đừng chạy tới cầu xin Mẹ, đừng tôn kính Mẹ. Để làm những việc ấy, một mặt chúng quyết định dùng các vua chúa, các nhà cầm quyền làm tay sai để bắt bớ Giáo Hội, một mặt chúng nhất định dùng những linh mục làm dụng cụ để gieo rắc lầm lạc vào kho đức tin tinh ròng của Giáo Hội, tạo ra những bèụ rối và bè đảng, để chia rẽ giáo hội của Chúa về những tín lý và hợp nhất. Chúng qủi đã dành hẳn một năm trời để bàn bạc và quyết nghị những kế hoạch gian hiểm ấy. Từ đó tới nay, chúng đã cuồng loạn bành trướng ác tâm của chúng như thế nào ta đều biết.
Về phần Mẹ Maria, Mẹ vẫn đứng bên Thánh Giá, vững vàng như một cột đồng trụ giữa muôn lớp sóng đau khổ mãnh liệt hãi hùng. Tâm trí Mẹ suy niệm trong trí thức hết sứ thâm thúy những mầu nhiệm Cứu Chuộc, ca tụng hòa điệu lạ lùng sự khôn ngoan Chúa đã xếp đặt trong việc Cứu Chuộc ấy. Càng hiểu thấu ơn Cứu Chuộc trời bể bao la, Mẹ lại càng đau đớn vì thấy trước những bội bạc của loài người. Niềm đau này là niềm đau lớn lao nhất của Mẹ.
Nhưng Mẹ cũng không quên cẩn trọng lo đến việc an táng Con Chí Thánh Mẹ. Trong nỗi bối rối mà Thiên Chúa hữu ý gây nên cho Mẹ, Mẹ khiêm nhượng hỏi các thiên thần hầu cận cho biết phải làm thế nào để tháo Di Thể Chúa Giêsu xuống khỏi Thánh Giá, phải mai táng Chúa nơi nào cho xứng đáng. Nhưng các thiên thần trả lời Mẹ rằng: Xin Mẹ cứ chuẩn bị tâm hồn để chịu một đau khổ nữa đã. Luật không cho phép tháo xác tội nhân tử giá xuống khi chưa có phép quan trên. Mặt khác, Chúa cón muốn đổ tới giọt máu cuối cùng cho loài người.
Câu trả lời ấy càng làm tăng thêm nỗi xao xuyến bình thản của Mẹ. Một lát sau, thấy tiến lên đồn Canvê một bọn người có võ trang, Mẹ nói với Thánh Gioan và ba bà Maria rằng: “Mẹ đau khổ thật đến mức rồi. Người ta còn đến hành hạ Xác Thánh Con Mẹ nữa kia kìa;” Lúc ấy đã là chiều áp ngày Sabat đại lễ. Để chuẩn bị mừng lễ mà không phải bận tâm gì đến mấy tử tội, người Do Thái đến xin với Philatô cho phép họ đập dập ống chân ba người tử tội để họ chóng chết mà tháo xác xuống ngay chiều hôm ấy. Viên trấn thủ bằng lòng. Bọn lính đến đập dập ống chân hai kẻ ác phạm còn sống, nhưng Chúa Giêsu, thấy Ngài đã chết, chúng không đập dập ống chân Ngài nữa, nhưng một người lính tên là Longinô, muốn chắc Chúa Giêsu đã chết thật đã đến gần Chúa phóng chiếu đòng lên, cắm vào ngực Chúa. Đòng cắm vào thấu Trái Tim Chúa, liền có Nước và Máu chảy ra, như Thánh Gioan chứng kiến đã thuật lại trong Phúc Aâm của Ngài.
Mẹ Maria lúc ấy cũng bị đâm thâu vào trái tim bằng một sự đau đớn y như chịu một lưỡi đòng cắm vào, và cái đau của linh hồn Mẹ còn nhức nhối hơn nữa. Nhưng, cảm thương Longinô, Mẹ nói với anh ta: “Xin Thiên Chúa ghé mắt nhân từ thương nhìn đến anh vì nỗi đau khổ anh vừa gây cho tôi”. Chúa Giêsu nhậm lời cầu khoan dung ấy của Mẹ: Mấy giọt Máu và Nước từ nơi Trái Tim Chúa chảy ra bắn lên khuân mặt khô cằn của người lính đó. Mắt anh ta vốn kém, gần như chỉ một mắt còn sáng, nhưng Nước và Máu ấy đã làm anh ta sáng luôn cả hai mắt, đồng thời con mắt linh hồn anh lại cũng được soi sáng, mở ra nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà anh đã đả thương một cách dã man. Anh khóc lóc tội mình, tuyên xưng đức tin của anh vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu Thế thật. Người Do Thái rất xấu hổ và căm giận anh.
Mẹ Maria hiểu ý nghĩa của mầu nhiệm vết thương đòng thấu trái tim Chúa ấy: chính vết thương ấy đã sinh ra: Giáo Hội mới Chúa lập vớùi muôn muôn thác nguồn ân sủng. Mẹ sáng tác một ca khúc chúng tụng vinh quang Chúa Giêsu để mừng tạ những sự kiện cao cả ấy. Trong lúc đó, chiều cứ lên dần, Mẹ Maria chưa biết sẽ an táng Con Mẹ ở đâu. Một nỗi băn khoăn chùm kín lòng Mẹ. Ngước mắt lên trời, Mẹ cầu xin Cha Hằng Hữu ban ánh sáng soi cho Mẹ và giúp phương tiện an táng Chúa.
Một lát sau, từ chân đồi tiến lên một bọn người có vác thang và những dụng cụ khác. Thấy thế, Mẹ Maria hốt hoảng, ngờ là họ lại lên làm khổ cho thi thể Chúa Giêsu. Mẹ nghẹn ngào nói với ông Gioan: “Con ơi; những người đó lại lên đây làm gì thế?” Ông Gioan nhướng mắt nhìn kỹ, rồi trả lời: “Thưa Mẹ, không hề gì đâu. Đấy là ông Giuse người Arimathê và ông Nicôđêmô, với gia nhân của họ. Họ là thân hữu và môn đệ của Thầy”.
Ông Giuse sinh trưởng từ một dòng tộc quý phái đang giữ chức quan cao ở thành Giêrusalem. Ông có địa vị trong Hội Đồng Cộng Tọa, nhưng không bao giờ đồng ý với Hội Đồng trong việc luận giết Chúa Giêsu. Ông can đảm đến xin với Philatô cho phép ông được an táng Chúa Giêsu, đấng mà ông từng xưng nhận là Thiên Chúa. Philatô nể chức vụ của ông không dám chối từ. Để có người cộng tác, ông đi nói với ông Nicôđemô là người cũng tin Chúa Giêsu. Ông Nicôđêmô là một nhà bác học, thông thạo văn chương và thánh kính, đã từng đến nghe Chúa giảng ban đêm. Ông Giuse mua một khăn niệm trắng, hàng tốt; còn ông Nicôđêmô đem gần 100 cân hương liệu vẫn xử dụng vào việc khâm liệm những bậc quyền quý. Không những có các gia nhân của hai ông theo lên núi Canvê mà còn có cả nhiều người từng được nhờ ơn Chúa ban, cũng lên núi bấy giờ.
Khi lên tới đỉnh núi Canvê nhìn thấy Mẹ Maria đứng âu sầu bên Thánh Giá, hai ông xúc động ngây người quên cả chào hỏi Mẹ, cả hai cùng phủ phục dưới chân Mẹ, không cầm nổi được nước mắt, không thốt lên được một tiếng nào. Hai ông cứ phủ phục như thế mà khóc tấm tức nghẹn ngào. Cho tới lúc Mẹ Maria nâng dậy, an ủi và khuyến khích mới nguôi đi được. Bấy giờ hai ông mới lên tiếng chào kính Mẹ, tỏ lòng phân ưu rất khiêm tốn và bầy tỏ ý định của mình. Mẹ cảm ơn lòng đạo hạnh của hai ông, và đoan chắc Thiên Chúa sẽ thương công hai ông bội hậu. Ông Giuse thưa lại rằng: “Kính lạy Đức Mẹ rất kính mến, nghe lời Đức Mẹ nói, chúng con cảm thấy trong tận đáy lòng chúng con nguồn ơn, vừa êm dịu vừa mạnh mẽ, của Thần Trí Chúa đổ đầy tràn lòng chúng con những tâm tình rất thân thiết, chúng con không thể nào đáng được và diễn tả ra”.
E rằng Mẹ sẽ phải đau đớn khi tháo Xác Chúa xuống, hai ông xin Mẹ tạm lui ra xa một chút. Nhưng mẹ trả lời rằng không sao, lúc Chúa Giêsu chịu đóng đanh mà Mẹ còn đứng bên được, lúc tháo Xác Thánh Chúa xuống, Mẹ cũng xin cho được ở gần bên. Qủa thật, nhìn thấy Thân Xác Chúa bị ta nát như thế, Trái Tim Mẹ bị xé nát nhừ, nhưng càng được nhìn thấy Chúa gần hơn, đau khổ của Mẹ càng dịu đi hơn. Hai ông liện sẵn sàng tháo Xác Chúa xuống. Bắc thang lên dựa vào Thánh Giá, hai ông bắt đầu bỏ mạo gai ra vừa cung kính vừa khóc đặt vào tay Mẹ Maria. Mẹ quỳ xuống đón nhận, dâng lòng sốt sắng lạ lùng thờ lạy mạo gai, hôn kính thắm thiết và để nước mắt rơi đầy; Mẹ áp mạnh mạo gai lên môi, một số gai đâm thủng môi miệng Mẹ. Mẹ lại cầu xin Cha Hằng Hữu giục lòng người ta luôn luôn hết sức tôn kính những chiếc gai đã được Máu Thánh Con Mẹ thánh hiến ấy. Và những đanh sắt thâu qua chân tay Chúa, Mẹ cũng tỏ lòng cung kính với tâm tình thiết tha và thờ lạy như vậy. Tất cả những người ở bên Mẹ bấy giờ tất cả đều quỳ gối thờ lạy mạo gai và đanh sắt Thánh theo gương Mẹ.
Khi hai ông đã hạ Xác Thánh Chúa xuống, Mẹ cung kính quỳ gối xuống đón nhận lên hai cánh ta đã trải khăn liệm trắng của Mẹ. Ông Gioan đứng phía đầu Chúa, bà Mađalêla đứng phía chân, giúp ông Giuse và ông Nicôđêmô đem Xác Thánh từÕ Thánh Giá xuống. Rồi cả bốn người sầu thương, đôi mắt tràn lệ hết sức cung kính đặt lên tay Mẹ niềm cảm thương xoáy sâu vào tâm hồn Mẹ vừa tràn ra một đau khổ đến tuôn lệ Máu, vừa khơi dậy một vui mừng vì chiếm lại được báu tàng thần linh của Mẹ. Sau khi thờ lạy Xác Thánh Chúa rồi, Mẹ ngồi xuống, ẵm Xác Chúa trên cánh tay cho các thiên thần, thánh Gioan và tất cả những người khác lần lượt theo thứ tự thờ lạy rất cung kính thiết tha.
Sau đó, ông Gioan và ông Giuse xin phép Mẹ để khâm liệm Xác Thánh Chúa mà an táng. Đặt Xác Thánh Chúa trên khăn liệm, các ông sức hương thơm khắp mình Chúa rồi đặt trong một quan tài để đưa vào phần mộ. Mặc dầu rất đau khổ, Mẹ cũng chăm chú đến từng chi tiết nhỏ. Mẹ mời gọi một số rất đông thiên thần từ trời xuống hợp với các thiên thần hầu cận Mẹ, dự lễ an táng Đấng Sáng Tạo họ. Các thiên thần mặc hình người đến dự ngay, nhưng chỉ có một mình Mẹ nhìn thấy. Cuộc hành tống bắt đầu. Ông Gioan, ông Giuse, ông Nicôđêmô và viên bách quan trưởng trở lại làm nô tì khiêng quan tài. Mẹ Maria, ba bà Maria và một số người tin Chúa theo sau, những người này đã lên núa Canvê sau khi nghe tin ông Longinô đâm trái tim Chúa và các ông Giuse, Nicôđêmô lên tháo xác Chúa. Đám tang âu sầu lặng lẽ đi sang một khu vườn của ông Giuse, giáp bên chân đồi Canvê, trong vườn này có một cái hang khum cao, ông Giuse đã cho làm trong đó một ngôi huyệt, huyệt này chưa táng ai. Các ông đã táng Chúa trong huyệt ấy. Mẹ Maria và cả đoàn người theo tang đến thờ lạy Chúa một lần nữa. Trước khi ra về, các ông vần một tảng đá lớn lấp cửa hang nhưng Phúc Aâm thuật lại.
Khi cửa mồ Chúa Giêsu vừa được lấp lại, những ngôi mộ đã mở ra lúc Chúa chịu chết cũng tự đóng lại như là những mộ ấy đã mở ra đã đón Chúa vào tạm nghỉ. Theo ý muốn của Mẹ, nhiều vị Thiên Thần ở lại bên Mồ Chúa. Còn tất cả những người dự đám tang đều chật tự và lặng lẽ trở lại núi Canvê, thờ lạy Thánh Giá một lần nữa, Sau khi Mẹ Maria đã tôn thờ.
Lúc ấy mặt trời đã lặn. Mẹ Maria từ núi Canvê trở về nhà Tiệc Ly, có cả đoàn người đáng kính ấy đi theo. Mẹ vào nhà với ông Gioan, ba bà Maria và bạn hữu của họ. Còn những người khác từ giã Mẹ về nhà mình, sau khi đã sụt sùi xin Mẹ ban phép lành. Mẹ cảm ơn họ vì đã đến chia buồn với Mẹ và giúp táng Xác Con Mẹ. Họ ra về với lòng tràn đầy ân sủng bên trong và cảm động vì đức hiền từ khiêm tốn của Mẹ.
Người Do Thái bối rối trước đám tang của Chúa. Nhớ lại Lời Chúa đã nói trước là Ngài sẽ sống lại ba ngày sau khi chết, họ đến xin Philatô cho đặt lính canh mồ Chúa. Nhưng sự đề phòng nham hiểm của họ chỉ làm vững vàng thêm phép lạ lẫy lừng phục sinh mà Ngài đã báo trước. Thật chẳng có ý muốn nào chống lại được Thiên Chúa cả.
14/9 Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm B
Mặt Trái của Chúa Kitô chính là Chân Dung của Người
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm B tuần này, theo Phúc Âm Marcô, không phải là bài Phúc Âm tiếp tục ngay sau bài Phúc Âm tuần trước. Bởi vì, ngay sau bài Phúc Âm tuần trước Thánh Ký Marcô trình thuật về biến cố Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai, về men gương mù gương xấu của nhóm Pharisiêu và về phép lạ chữa lành người mù ở Bethsaida. Bài Phúc Âm tuần này cho thấy mạc khải về chính bản thân nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, vị đã kêu gọi Nhóm 12 Tông Đồ, tỏ mình riêng cho các vị và dạy dỗ các vị hơn quần chúng. Chúng ta nên để ý ở đây là Chúa Giêsu không biến hình trên núi rồi mới tỏ cho các tông đồ biết mạc khải cốt lõi nhưng đầy kinh hoàng đối với các vị này, một biến cố biến hình, trái lại, theo Phúc Âm Thánh Marcô, chỉ xẩy ra ngay sau mạc khải này. Chúng ta đã biết là Chúa Giêsu, trong bộ Phúc Âm Nhất Lãm, đã tỏ cho các tông đồ biết về mầu nhiệm Đức Kitô Vượt Qua tất cả là 3 lần, và lần đầu tiên xẩy ra trước biến cố Người biến hình trên núi cao. Thế nhưng, vì là một mầu nhiệm hết sức kinh hoàng trước con mắt các tông đồ, bởi thế, Chúa Giêsu đã phải thăm dò xem khả năng chịu đựng của các tông đồ tới đâu, bằng cách hỏi các vị xem dân chúng nghĩ về Người ra sao, nhất là tâm tưởng của chính các vị xác tín về Người như thế nào, sau bao ngày tháng các vị được ở bên Người, được nghe lời Người nói, được thấy việc Người làm v.v. Nếu các vị trả lời trật lấc, hay không đúng là bao, hoặc chẳng khác gì câu trả lời của dân chúng, chắc Chúa Giêsu đã không tỏ mình ra hay chưa dám tỏ mình ra hoàn toàn cho các vị đâu. Bằng không, thay vì có lợi cho các vị thì chỉ gây thêm bất lợi cho các vị mà thôi, làm cho một số nữa hay hầu như tất cả bỏ đi, như nhóm môn đệ sau khi nghe Bài Giảng về Bánh Hằng Sống cách đây ba tuần.
Thật vậy, lời tuyên xưng của các tông đồ, qua vị tông đồ Phêrô đại diện, “Thày là Đức Kitô!”, là Đấng Thiên Sai, đã cho thấy các tông đồ quả thật đã nhận biết Thày của các vị thực sự là Đấng nào, thực tại của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là gì, đúng như Người muốn tỏ ra, muốn chứng thực chẳng những cho dân Do Thái mà còn cho cả Dân Ngoại nhất là các Tông Đồ thấy, những lần chứng thực được Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại trong toàn bộ Phúc Âm của ngài, đến nỗi, mầu nhiệm Đấng Thiên Sai này và mầu nhiệm Vượt Qua của Người không thể tách rời nhau trong Phúc Âm Thánh Gioan. Với dân Do Thái: “Bao giờ quí vị treo Con Người lên, quí vị sẽ biết Tôi là ai” (Jn 8:28); với Tổng Trấn Philatô: “Lý do Tôi được sinh ra, lý do Tôi đến thế gian đó là để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37); với các tông đồ: “vì họ mà Con tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý” (Jn 17:19).
Thế nhưng, trong tâm can của các vị tông đồ, sự thật “Thày là Đức Kitô“ đây mới chỉ là một hạt cải nhỏ nhất trong các hạt giống chứ chưa thành cây vĩ đại (x Mt 13:31-33). Bởi đó, hạt cải này vẫn chịu sự chi phối bởi môi trường được gieo xuống. Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần tới sẽ cho chúng ta thấy rõ căn nguyên tại sao các vị tông đồ đã tỏ ra thái độ hoàn toàn mâu thuẫn nơi vị đại diện của mình là Thánh Phêrô, vị đã vừa tuyên xưng chân lý “Thày là Đức Kitô” liền bị Thày quở trách hết sức thậm tệ: “Hãy xéo đi khỏi mặt Ta, đồ Satan, Ngươi chẳng phán đoán theo kiểu cách của Thiên Chúa gì cả mà chỉ theo kiểu cách của loài người thôi”. Cũng khó mà trách các vị tông đồ được, vì các vị bấy giờ chỉ mới được tới đó, trình độ đức tin của họ mới chỉ có thế thôi. Đó là lý do có lần các vị đã phải lên tiếng “xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” (Lk 17:5).
Đúng vậy, Chúa Giêsu đã lợi dụng một trường hợp để tăng thêm đức tin cho các tông đồ môn đệ của Người, thành phần được Người tuyển chọn để sau này làm chứng cho Người. Những lần Ngài làm tăng thêm đức tin cho các vị, điển hình nhất là lần họ gặp phong ba bão táp trên biển hồ song Người đã ra tay cứu các vị (x Lk 8:22-25), hay lần các vị đánh cá thâu đêm mà chẳng bắt được gì theo kinh nghiệm nghề nghiệp đầy mình của các vị, song chỉ vì vâng lơiụi Người mà các vị đã bắt được những mẻ cá lạ lùng (x Lk 5:5-11). Tuy nhiên, đức tin của các vị dầu sao cũng mới chỉ biết mặt phải của Thày mình, ở chỗ chỉ biết được Thày của các vị đầy quyền năng, có thể chữa lành các thứ bệnh nạn tật nguyền, có quyền trên các thần ô uế, có quyền trên cả thiên nhiên vạn vật v.v., chứ chưa biết mặt trái của “Thày là Đức Kitô”, một Đức Kitô khổ nạn và tử giá rồi mới được vinh quang, một Đức Kitô đầy quyền năng nhưng không thể thoát khỏi bàn tay lông lá của loài người, không thể tự mình xuống khỏi thập giá.
Tiếc thay, chính mặt trái này của Đức Kitô mới thật là chân dung của Người, chân dung của môt Đấng Thiên Sai thực sự, tức của một người tôi tớ được tiên tri Isaia nói tới (42:1), một người tôi tớ cùng khổ cũng được vị tiên tri này diễn tả trong bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật tuần này, của một vai trò thừa hành, của một vai trò thừa sai, vai trò đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (x Jn 6:38). Việc “Người đã vâng lời cho đến chết và chết thập giá” (Phil 2:8) chính “là để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37) Người được Cha sai, Người chính là Đấng Thiên Sai, Cha là Đấng đã sai Người, Cha Người là “Thiên Chúa chân thật duy nhất” (Jn 17:3) đúng như Ngài đã mạc khải cho dân Do Thái trong suốt Lịch Sử Cứu Độ Cựu Ước của họ, một mạc khải đã được hé mở từ cuộc thần hiển ở bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi để Ngài tỏ đích danh của Ngài là “hiện hữu” cho Moisen (x Ex 3:14), “hiện hữu” ở chỗ “chân thật duy nhất”, ở chỗ trước sau như một, nghĩa là một khi Ngài đã tự động hứa những gì với cha ông tổ phụ họ là Abraham, Isaac và Giacóp thì Ngài sẽ thực hiện đúng ý như vậy nơi giòng dõi của các vị (x Acts 13:32-33), dù dân của Ngài đã muôn vàn lần bội hứa, đã không ngớt lỗi phạm lề luật thánh của Ngài, đã đáng bị Ngài tận diệt ngay từ đầu (x Ex 32:10).
Chính vì chân dung của Đức Kitô, của Đấng Thiên Sai không phải ở mặt phải với đầy những quyền năng, mà là ở mặt trái đầy tuân phục, đau khổ và tủi nhục, mà thành phần được Người tuyển chọn, thành phần muốn đáp lại lời Người mời gọi, thành phần muốn thực sự trở thành môn đệ của Người, muốn theo Người cho tới cùng, “đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới” (Rev 14:4), như Mẹ Maria “đứng bên thập giá” (Jn 19:25), cần phải thực hiện những gì Người đã nói với chẳng những với các tông đồ mà còn cả với dân chúng ở cuối bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này: “Ai muốn theo Tôi họ phải chối bỏ chính bản thân mình, vác thập giá của mình mà theo Tôi. Ai muốn giữ sự sống mình thì sẽ đánh mất sự sống, còn ai mất sự sống mình vì Tôi và vì phúc âm thì sẽ giữ được sự sống”. Đó là lý do, trong bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Giacôbê đã nhấn mạnh đến việc thực hành những gì mình tuyên xưng. Phải chăng những lời khuyên này của vị tông đồ Giacôbê đã phản ảnh cảm nghiệm của ngài từ bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, từ việc các tông đồ tuyên xưng “Thày là Đức Kitô” bằng môi miệng song trên thực tế đã sống mâu thuẫn với sự thật các vị tuyên xưng, mâu thuẫn đến nỗi đã đi đến chỗ phản nộp Người nơi tông đồ Giuđa Ích-Ca, đến chỗ “tất cả đã bỏ Người mà tẩu thoát” (Mk 14:50) khi “Đức Kitô” bị bắt trong vườn Cây Dầu, hay thậm chí đã đi tới chỗ trắng trợn chối bỏ Người ba lần nơi chính cửa miệng của người tông đồ tuyên xưng “Thày là Đức Kitô”, và đến nỗi đã phủ nhận Người khi Người từ trong kẻ chết sống lại đúng như Người đã báo trước (x Lk 24:37; Jn 20:25). Chính vì con người chỉ tìm kiếm bộ mặt phải của Chúa Kitô, và sợ đụng đầu với bộ mặt trái của Người, một bộ mặt bị khạc nhổ như tiên tri Isaia trong bài đọc một tiên báo, mà họ hãy coi chừng kẻo sẽ gặp toàn là Kitô giả xuất hiện để lừa đảo nhiều người (x Mt 24:24).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
SỐNG VÀ VÁC THÁNH GÍA
Một hình ảnh mà mọi người đều có thể nhìn thấy mỗi khi đi ngang qua một thánh đường Công Giáo, đó là ngọn tháp cao vút vươn lên trên nền trời xanh, và trên đó là một cây thánh giá. Cũng một hình ảnh tương tự, mỗi khi vào một thánh đường Công Giáo, mọi người đều nhìn thấy tượng Thánh Giá được treo nơi cung thánh ở một vị trí rất trang nghiêm và đặc biệt. Đối với nhiều người Công Giáo, nhất là những người Công Giáo sốt sắng, họ còn mang Thánh Giá trong người, treo Thánh Giá trong phòng ngủ, nơi phòng khách ở nhà họ. Bóng Thánh Giá bao trùm và theo con người trong mọi ngóc ngách của cuộc đời người Kitô hữu. Nhưng câu hỏi được đặt ra là Cây Thánh Giá có ý nghĩa gì đối với cuộc sống tâm linh và cuộc sống hiện tại của tôi? Tại sao tôi mang Thánh Giá. Tại sao tôi treo Thánh Giá trong nhà. Tại sao Giáo Hội treo Thánh Giá trong các thánh đường. Hơn thế nữa, theo luật phụng vụ, khi dâng thánh lễ không thể thiếu Thánh Giá.
Khi còn nhỏ cũng như bây giờ mỗi khi đi Đàng Thánh Giá, tôi vẫn thường được nghe hoặc chính mình đọc câu này: “Chúng con thờ lậy và ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. Vì Chúa đã dùng Thánh Giá Chúa mà chuộc tội cho thiên hạ.” Trích đoạn Thánh Kinh của Chúa Nhật tuần này, Thánh Máccô đã ghi lại lời Chúa Giêsu nói về ý nghĩa và mục đích của Thánh Giá: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Aâm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8: 35). Dựa vào lời Chúa Giêsu, tác giả cuốn Gương Chúa Giêsu là Toma à Kempi đã suy diễn thêm rằng Thánh Giá là phần rỗi, là vinh dự, và là sự cứu độ của tôi cũng như của nhân loại. Đọc trong một số hạnh tích các thánh, tôi còn thấy rằng, có vị vẫn hằng ngày van xin Chúa cho mình được mang vác nhiều Thánh Giá. Những điều như thế càng làm cho tôi thêm hoang mang và khó hiểu. Đối với tôi, sao lại có người chán sống, và điên khùng như thế. Sao lại có người ưa nặng như thế. Tôi thật sự không hiểu! Tuy nhiên, trước những thắc mắc và suy tư ấy, tôi cũng vẫn tự hỏi mình Thánh Giá là gì mà có sức mạnh phi thường, có hiệu lực phi thường, và hấp dẫn những người này như thế?
Vác Thánh Giá để theo Chúa, chấp nhận Thánh Giá để thánh hóa cuộc sống và hoàn thiện cuộc sống. Lợi dụng Thánh Giá để chiếm hữu nước Trời. Những tư tưởng này đối với nhiều người chỉ là những tư tưởng trìu tượng và thiếu thiết thực. Có lẽ chúng chỉ thích hợp cho những người tu hành, hoặc những người chán sống và không còn thấy ý nghĩa và hứng khởi của cuộc sống. Nhưng đây lại là những tư tưởng và ý nghĩ của một con người bình thường, và cũng hết sức con người. Lý do là vì không ai lại thích, lại cầu xin cho mình gặp đau khổ, thất bại, thử thách, bệnh tật, nghèo khổ, bị nhục nhã, và xấu hổ bao giờ. Cũng như theo tự nhiên, không ai lại vui vẻ trước những thua thiệt, đau khổ, bệnh tật, cũng như thất bại. Và cũng không ai lại cho mình là người có phúc vì phải chịu bệnh tật, bị bắt bớ, tù đày, bị hành hạ thân xác và tâm hồn. Nhưng mặt khác, Đức Tin lại bảo tôi rằng, những quan niệm của con người tự nhiên này là không đúng, và tôi phải nhìn Thánh Giá bằng cặp mắt của Đức Tin, nhìn Thánh Giá như Chúa Giêsu đã nhìn, và như các thánh nhân, những người đạo đức đã nhìn. Vậy thì tôi phải nhìn Thánh Giá như thế nào, và có cách nào làm cho Thánh Giá bớt nặng nề, và khó vác một tí không?!
Có. Thánh Giá thực ra không phải là hai khúc gỗ một nằm ngang, một nằm dọc, xấu xí, xù xì, nặng nề và khó vác. Nhìn Thánh Giá theo cái nhìn này là không hiểu gì về Thánh Giá, và là một cái nhìn tự nhiên. Do đó, cần phải nhìn Thánh Giá bằng cái nhìn sát với tâm lý sống, với thân phận con người, và dĩ nhiên, trong tầm nhìn cứu độ của Thánh Giá. Và trong tầm nhìn ấy, thì những vất vả, những đau yếu, những khó khăn đi liền với thân phận kiếp người, tất cả đều được gọi là Thánh Giá. Tuy nhiên, con người không chỉ nên dừng lại ở những khía cạnh tiêu cực của vấn đề, của nghèo khổ, của bệnh tật, của thua thiệt, của vất vả, mà cần nâng cao cái nhìn ở chỗ phải chấp nhận sự thực của cuộc đời, và biến chúng thành một lẽ sống.
Sự thật của cuộc đời. Thật ra, Thánh Giá không gì khác hơn là thân phận của kiếp người. Là tất cả những gì theo tôi từ khi tôi vào đời cho tới khi tôi nhắm mắt từ giã cõi đời. Đó là những niềm vui và nỗi buồn. Là những vui mừng, hy vọng và buồn tủi, thất vọng. Là những ngày tháng khỏe mạnh, đầy nghị lực, yêu đời, cũng như những tháng năm trên giường bệnh, yếu đuối, chán nản, cô đơn. Là những lúc đầu óc tỉnh táo, linh hoạt, sáng kiến cũng như những lúc lẩm cẩm, chậm chạp, hay vụng về, yếu đuối. Là những giây phút huy hoàng được người đời ca tụng, tâng bốc cũng như những ngày tháng cô đơn, và bị mọi người quên lãng. Tất cả những cái đó quện lẫn, và nối kết với nhau như hai thanh gỗ dọc và ngang làm nên thánh giá cuộc đời, và thánh giá riêng đời tôi. Và như Chúa Giêsu đã nói, tôi phải mang Thánh Giá ấy, và đi theo Ngài.
Theo Ngài. Trong cuộc sống trần gian 33 năm chắc chắn Chúa Giêsu cũng không làm gì hơn là sống trọn vẹn thân phận của kiếp người mà Ngài đã chấp nhận khi vào đời. Phúa Aâm không nói đến những lần Ngài khát nước và phải xin người thiếu phụ Samarita một bát nước lã bên bờ giếng Giacóp sao? Ngài đã chẳng thấy đói bụng, và bị cơn đói hoành hành sau 40 ngày đêm chay tịnh trong hoang địa sao? Chính ma quỉ chúng cũng biết điều này, và đã lợi dụng dịp này để cám dỗ Ngài. Đói và khát, Ngài còn sống nghèo, sống thân phận của những kẻ vô gia cư đến nỗi không có riêng một viên đá để gối đầu. Nếu phải đợi đến 33 tuổi, Chúa mới vác hai thanh gỗ lên đồi Gongotha để chịu treo trên đó cho phần rỗi các linh hồn, thì Thánh Giá đâu có nghĩa lý gì và điều mà Ngài nói tôi phải vác thánh giá mọi ngày để theo Ngài thật sự không có ý nghĩa. Như vậy, Thánh Giá Chúa Giêsu vác mọi ngày phải hiểu là cuộc đời của Ngài, những vất vả, thiếu thốn, mệt mã, và lao nhọc; những lúc được người đời ca tụng, cũng như những lúc bị người đời coi khinh, và không ngần ngại xóa tên Ngài bằng bản án tử hình oan nghiệt.
Bị kết án tử hình trên thập giá. Chúa Giêsu đã thực sự bị treo lên, và như Ngài đã hứa, Ngài sẽ kéo mọi sự lên với Ngài, trong đó có tôi, có bạn, có chúng ta. Lên đâu? Lên khỏi tầm nhìn bình thường của ta về thân phận, về kiếp người, và về những đau khổ của cuộc sống. Bằng tầm nhìn từ trên cao ấy, Ngài muốn tôi phải thực tế, trực diện với đời và với những khó khăn của kiếp người bằng ánh mắt và nụ cười của Đức Tin và ơn cứu độ. Ngài muốn tôi biến tất cả những cái ấy thành những thánh giá của đời sống và chấp nhận nó trong bằng an, tin tưởng, và nhẫn nại như chính Ngài đã chấp nhận, đã sống, và sau cùng đã được nâng lên cao, để làm gương.
Đối điện và chấp nhận sự thật về cuộc sống, về thân phận của mình. Bằng lòng với những gì xẩy ra trong cuộc sống cũng chính là một thái độ sống với hiện tại của tâm lý trị liệu. Nó giúp nâng cao hạnh phúc, và ý chí của một người. Sự chấp nhận ấy không gì hơn là giúp con người trưởng thành và ý thức hơn về cuộc sống và để đối diện với cuộc sống bằng một thái độ tự tin, yêu đời hơn. Trong đời sống ân sủng, khi một người đã trưởng thành và đã ý thức về cuộc đời mình, thì chỉ cần hướng cuộc đời ấy về mục đích cứu độ, là đã sống một cuộc sống thánh thiện rồi. Tóm lại, như Chúa Giêsu được nâng cao và treo trên Thánh Giá, Ngài cũng muốn nâng tôi lên với Ngài bằng chủ ý thánh hóa, và chấp nhận ấy.
Đời là bể khổ. Đòi là vũng lệ sầu. Đời là ba đào đầy sóng gió. Những điều này ai cũng biết, và ai cũng đã kinh nghiệm. Nhưng nếu đời cho tôi một trái chanh chua, thì không lẽ tôi ngồi đó để khóc, để nguyền rủa, và hận đời. Tôi nhớ lại một tư tưởng về cuộc đời và thánh giá cuộc đời là “nếu đời cho ta một trái chanh chua, thì hãy dùng trái chanh ấy để vắt lấy một ly chanh đường”. Sau một cuộc hành trình dài và mệt mã, hay đang khi trên đường dài nóng bức, và khát nước nếu có một ly chanh đường là một điều thật hạnh phúc, và hầu hết ai cũng mong như thế. Tuy nhiên, trong thực tế, khi Thượng Đế trao vào tay con người những trái chanh đầy nước ấy, thì họ lại la lên, rồi giận dỗi vất đi!!!
Trần Mỹ Duyệt