GIÁO HỘI HIỆN THẾ
Ý Chỉ của Đức Thánh Cha cho Tháng 12/2003
Ý Chung: “Xin cho các phần tử của tất cả mọi tôn giáo biết hợp tác với nhau trong vệc làm giảm bớt những thương đau của loài người trong thời đại của chúng ta”.
Ý Truyền Giáo: “Xin cho Giáo Hội ở các xứ sở còn bị cai trị bởi các chế độ độc đoán được hoàn toàn tự do để thi hành sứ vụ thiêng liêng của mình”.
___________________________________________
14-20/12//2003
20/12 Thứ Bảy
“Một Cuộc Dấn Thân Hợp Thời Hơn Bao Giờ Hết đó là Việc Giảng Dạy Hòa Bình” (Tiếp)
Sứ Điệp Hòa Bình đề ngày Lễ Mẹ Maria Hoài Thai Vô Nhiễm 8/12/2003 của ĐTC Gioan Phaolô II cho Ngày Thế Giới Hòa Bình 1/1/2004 với nhan đề trên đây đã được chính thức phổ biến vào ngày Thứ Ba 16/12/2003.
Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Để Cử Hành Ngày Thế Giới Hòa Bình 1/1/2004Giảng Dạy Hòa Bình
4. Trong Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 1/1/1979, Tôi đã kêu gọi là: để tiến đến hòa bình thì hãy giảng dạy hòa bình. Ngày nay, lời kêu gọi này trở nên khẩn trương hơn bao giờ hết, vì con người nam nữ trước những thảm cảnh tiếp tục hành hạ nhân loại đang có khuynh hướng trở thành cuồng tín, như thể hòa bình là một lý tưởng bất khả đạt. Giáo Hội, trái lại, đã luôn giảng dạy, và cho tới ngày hôm nay, vẫn tiếp tục giảng dạy một châm ngôn rất đơn sơ này: hòa bình là điều khả đạt. Thật vậy, Giáo Hội không ngừng lập đi lập lại rằng hòa bình là một nhiệm vụ. Nó phải được xây dựng trên 4 trụ cột được vị Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIÌI nhắc đến trong Thông Điệp Bình An Dưới Thế của mình là: sự thật, công lý, yêu thương và tự do. Như thế, nhiệm vụ này nằm ở trên vai của tất cả những ai yêu chuộng hòa bình, đó là những ai giảng dạy các lý tưởng này cho những thế hệ mới, để sửa soạn cho toàn thể nhân loại một tương lai tốt đẹp hơn.
Giảng Dạy Luật Pháp
5. Trong việc giảng dạy hòa bình này, có một nhu cầu đặc biệt khẩn trương trong việc dẫn dắt cá nhân cũng như các dân tộc đến chỗ tôn trọng trật tự quốc tế và tôn trọng những quyết định của các thẩm quyền hợp pháp thay mặt họ. Hòa bình và luật lệ quốc tế gắn bó chặt chẽ với nhau ở chỗ luật lệ là những gì thuận lợi cho hòa bình.
Ngay từ lúc văn minh vừa ló rạng, các cộng đồng loài người phát triển đã tìm cách để thiết lập những thỏa ước và hiệp định hầu tránh đi đến chỗ sử dụng võ lực độc đoán, cũng như nhờ đó giúp họ tìm thấy giải pháp ôn hòa trong việc giải quyết những tranh chấp có thể xẩy ra. Cùng với hệ thống pháp lý của từng dân tộc, từ từ còn xuất hiện một loạt những qui chuẩn khác nữa, được công nhận như là luật lệ của các quốc gia “ius gentium”. Theo giòng thời gian, bộ luật này dần dần được khai triển thêm cùng được hoàn chỉnh theo chiều hướng kinh nghiệm lịch sử của các dân tộc khác nhau.
Tiến trình này được tiến triển một cách gia tốc khi cò những quốc gia tân thời xuất hiện. Từ thế kỷ 16 trở đi, các chuyên viên pháp lý, các triết gia và thần học gia đã dấn thân vào việc khai triển những vấn đề chính yếu khác nhau nơi luật lệ quốc tế, và đặt nó trên nền móng của các lý lẽ thuộc lề luật tự nhiên. Tiến trình này được thúc đẩy bởi động lực gia tăng đến chỗ hình thành những nguyên tắc phổ quát làm nền tảng và chi phối luật lệ của các quốc gia, những nguyên tắc chú trọng tới việc hiệp nhất và ơn gọi chung của gia đình nhân loại.
Trọng tâm của tất cả các nguyên tắc này phải là nguyên tắc “pacta sunt servanda”, tức là cần phải tôn trọng các thứ hòa ước được tự do ký kết. Đây là một nguyên tắc nồng cốt bất khả châm chước nơi hết mọi mối liên hệ giữa các phe phái hữu trách đã ký kết với nhau. . Việc vi phạm đến nguyên tắc này chắc chắn sẽ dẫn tới tình trạng vô lối gây ra xô xát và tranh cãi, kéo theo những âm hưởng tiêu cực dai dẳng kéo dài. Cần phải nhắc lại qui luật căn bản này, nhất là ở vào những lúc thiên về một thứ luật lệ của quyền lực hơn là một thứ quyền lực của luật lệ. Một trong những lúc ấy chắc hẳn là thảm kịch nhất loại đã trải qua trong thời Thế Chiến Thứ Hai: một vực thẳm bạo lực, hủy hoại và chết chóc chưa từng có.
Tôn Trọng Luật Lệ
6. Cuộc chiến tranh này, với những kinh rợn cùng với những vi phạm ghê gớm đến phẩm giá của con người diễn ra, đã dẫn đến chỗ cải cách tận gốc lãnh vực pháp lý quốc tế. Việc bênh vực và cổ võ hòa bình đã được lấy làm trọng tâm cho một hệ thống tân tiến bao rộng các thứ qui chuẩn và cơ cấu. Công việc canh chừng nền hòa bình và an ninh toàn cầu, cùng với việc khích lệ nỗ lực của các quốc gia trong vấn đề bảo trì và bảo đảm những sự thiện nồng cốt này của nhân loại, được các chính quyền ủy thác cho một tổ chức hiện hữu vì mục đích ấy, đó là tổ chức Liên Hiệp Quốc với một Hội Đồng Bảo An nắm trong tay quyền hành thẩm định rộng lớn. Cái cần trục cho guồng máy này là việc cấm sử dụng võ lực. Việc cấm đoán này, theo đoạn thứ bảy quá quen thuộc của Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, chỉ giàng cho hai trường hợp ngoại lệ mà thôi. Trường hợp ngoại lệ thứ nhất khẳng định về quyền được phép tự vệ, một thứ quyền cần phải được thi hành một cách đặc biệt theo chiều hướng của Liên Hiệp Quốc, và do đó, cũng ở trong những giới hạn truyền thống khác nhau về nhu cầu và tính cách cân xứng.
Trường hợp ngoại lệ thứ hai được thấy nơi hệ thống an ninh chung là hệ thống cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc quyền năng và trách nhiệm bảo trì hòa bình, với quyền quyết định và thẩm định bao rộng.
Tổ chức này đã phác họa bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là để “cứu vãn những thế hệ mai hậu khỏi bị khổ nạn chiến tranh đã hai lần xẩy ra trong thời của chúng ta là những gì gây ra sâu thương khôn xiết kể cho nhân loại” (4). Tuy nhiên, ở những thập niên sau đó, cộng đồng quốc tế bị phân chia thành hai khối đối nghịch nhau, chiến tranh lạnh thì ở chỗ này trên thế giới, ở chỗ khác lại bùng nổ tình trạng xung đột bạo loạn, cùng với hiện tượng khủng bố đã làm phát sinh ra tình trạng gẫy đổ gia tăng nơi những ý tưởng và niềm mong đợi của giai đoạn ngay sau thời hậu thế chiến.
(còn tiếp)
Trật Tự Quốc Tế Mới
Nạn Khủng Bố Chết Chóc
Việc Góp Phần của Giáo Hội
Nền Văn Minh Yêu Thương
“Truyền Thông Thánh Linh”Trò Chơi Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Vọng
Phúc Âm
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vaœ ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào cuœa Maria, thì hài nhi nhaœy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần: Bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ và con lòng bà được chúc phúc. Bơœi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi? Vì nầy tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhaœy mừng trong lòng tôi. Phúc cho bà là keœ đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện”.
Hướng Dẫn
Theo ý nghĩa Mùa Vọng thì biến cố viếng thăm trong bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng tuần này là biến cố Lời Nhập Thể đang ở trong lòng Mẹ Maria bấy giờ đến làm phép rửa Thánh Thần đầu tiên cho Thai Nhi Gioan Tẩy Giả, để thánh nhân được khỏi tội nguyên tổ ngay từ trong bụng mẹ, để Thánh Nhân được đầy Thánh Linh ngay từ trong lòng mẹ, như lời thiên thần cho thân phụ của thánh nhân biết khi báo tin việc đầu thai lạ lùng của thánh nhân.
Chính vì là con người đầu tiên được lãnh nhận phép rửa Thánh Thần này bởi Lời Nhập Thể là Thai Nhi Giêsu mà sau này, như bài Phúc Âm tuần trước cho biết, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, dù chưa hề tận mắt thấy Con Người Giêsu, đã khẳng định về Đấng đến sau ngài là Đấng sẽ làm phép rửa Thánh Thần, đến nỗi khi vừa thấy Người, thánh nhân chẳng những nhận ra Người ngay là Đấng phải đến mà còn chỉ cho các môn đệ của mình biết Người thật là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian.
Sự kiện Lời Nhập Thể làm phép rửa Thánh Thần cho Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ngay từ trong lòng mẹ đây đã được bộc lộ ở chỗ, đã làm cho cả thai mẫu của thánh nhân là bà Isave cũng được đầy Thánh Thần và trở nên khôn ngoan sáng suốt mà cất tiếng chúc tụng người em Maria của mình là Mẹ Thiên Chúa.
Trong biến cố viếng thăm này, chúng ta thấy một thứ ảnh hưởng thần linh giây chuyền thế này: Lời Nhập Thể ở trong lòng Mẹ Maria là Thai Nhi Giêsu đầy Thánh Thần, đã thông ban Thánh Thần của mình cho con người đầu tiên là thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, đến nỗi mức độ tràn đầy Thánh Thần nơi thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã tác động cả thai mẫu, vị thai mẫu đầy Thánh Thần đã nhận biết Mẹ Thiên Chúa, Vị tràn đầy ân sủng, tràn đầy Thánh Thần, đang cưu mang chính Lời Nhập Thể, khiến cho lời chào của Mẹ có một tác lực thần linh làm cho Thai Nhi Gioan Tẩy Giả nhẩy mừng trong lòng thai mẫu Irave.
Bởi thế, hôm nay chúng ta sinh hoạt trò chơi Phúc Âm “Truyền Thông Thánh Thần” như sau.
Sinh Hoạt
1. Mỗi nhóm cử ra 4 người, hai nữ lớn (Trưởng hay Nghĩa) và hai nam nhỏ (Ấu). Hai nữ lớn, một người đóng vai Mẹ Maria và một người đóng vai bà Thánh Isave. Hai nam nhỏ, một đóng vai thai nhi Giêsu, ở ngay trước bụng người đóng vai Mẹ Maria, và một đóng vai thai nhi Gioan, ở ngay trước bụng người đóng vai bà Thánh Isave. Người quản trò đóng vai Thánh Thần tác động bốn vị này.
2. Xin nhớ thứ tự như sau: đầu tiên là lời chào của Mẹ Maria tác động thai nhi Gioan nhẩy mừng; thai nhi Gioan nhẩy mừng tác động thai mẫu Isave cảm hứng chúc tụng Mẹ Maria; thai mẫu Isave cảm hứng chúc tụng Mẹ Maria tác động Mẹ Maria lên tiếng ngợi khen Thiên Chúa, Đấng cứu độ Mẹ qua Lời Nhập Thể đang ở trong lòng Mẹ.
3. Người đóng vai Mẹ Maria chào chị họ của mình bằng cử chỉ cúi đầu xuống; người đóng vai thai nhi Gioan nhẩy mừng bằng cử chỉ rung rung mình; người đóng vai bà Isave cảm hứng chúc tụng bằng cử chỉ giơ hai tay lên trời và nhìn thẳng vào mặt người đóng vai Đức Mẹ; người đóng vai Mẹ Maria lên tiếng ngợi khen Chúa bằng cử chỉ giơ hai tay lên trời và ngẩng đầu ngửa mặt lên trời; người đóng vai thai nhi Giêsu là Đấng cứu độ Mẹ Maria lấy làm hài lòng cảm động bằng cử chỉ gật đầu.
4. Người quản trò đóng vai Thánh Thần có thể tác động bất cứ 1 trong bốn vị, bằng hiệu còi được ấn định cho từng vị, chẳng hạn tích tích tè tè cho Mẹ Maria, tích tè tè tích cho thai nhi Gioan, tè tích tích tè cho Bà Isave, và tè tè tích tích cho hài nhi Giêsu.
5. Vị nào được tác động bằng hiệu còi chỉ về mình thì làm cử điệu của mình trước rồi sau đó lần lượt tới ngững vị khác theo thứ tự “truyền thông Thánh Linh”.
6. Trò chơi được kết thúc ở chỗ nhóm nào làm sai cử điệu hay thứ tự “truyền thông Thánh Linh” nhất là nhóm đoạt giải “Tuyền Thông Thánh Linh”.
19/12 Thứ Sáu
Các Thánh MẬU, ÚY, MỚI, ĐỆ, và VINH
Chứng Tá Tập Thể Trong Lao Tù
Đọc truyện các Thánh Tử đạo Việt Nam, không ai có thể quên được một chứng tá tập thể của hai thầy giảng, ba giáo dân ở trong tù. Năm vị cùng bị giam chung với cha Tự và ông trùm Cảnh, nhưng hai vị này tử đạo trước (5.9.1838). Dù sống trong ngược đãi, dù bị kiểm soát gắt gao, năm vị đã gắn bó với nhau trong tình anh em tha thiết, cùng sống đức tin kiên vững và nỗ lực làm chứng cho Thiên Chúa bằng lời nói, gương sáng và bằng chính mạng sống mình.
Thánh Phanxicô Xavie HÀ TRỌNG MẬU
Thầy giảng dòng ba Đaminh
(1790 - 1839)
Thầy giảng Phanxicô Xavie Mậu không những phải chọn lựa giữa cái chết và cuộc sống, thầy còn phải chọn lựa giữa cái chết và việc làm quan triều đình. Không một chút lưỡng lự, thầy trả lời vị tổng đốc: “Tôi không ham quyền, tôi chỉ muốn chết vì đạo”.
Phanxicô Xavie Hà trọng Mậu cất tiếng chào đời năm 1790 tại làng Kẻ Diền, tỉnh Thái Bình. Cậu được cha mẹ cho đi tu, trở thành thầy giảng và đi giúp nhiều giáo xứ. Khi cha Phêrô Tự bị bắt, thầy Mậu đang coi họ Nội, thuộc xứ Kẻ Mốt. Được tin cha và thầy Úy bị đưa về Lương Tài, thầy liền đến đó nghe ngóng tin tức. Giáo hữu gửi thầy trọ ở nhà một lương dân phía bên kia sông, vì nghĩ rằng lính sẽ không khám xét đến. Ai ngờ, chính người chủ nhà đi báo cho quan kiếm tiền thưởng, thế là thầy bị bắt.
Thầy bị dẫn đến dinh quan Lương Tài. Có mặt cha Tự ở đó. Quan hỏi thầy là ai, thầy đáp: “Thưa quan, tôi là một môn đệ thân tín của cha đây”. Cha Tự ra dấu nhắc thầy đừng khai rõ, may ra có thể chuộc về được chăng, nhưng thầy nói nhỏ với cha: “Xin cha thương nhận con là môn sinh, để con cũng được tử đạo với cha”.
Kể từ ngày cha Tự và ông trùm Cảnh bị đem đi xử trảm, thầy Mậu trở thành cột trụ nâng đỡ bốn người còn sót lại, là thầy Úy, các anh Mới, Vinh và Đệ. Thầy nhắc anh em sống huynh đệ, an ủi giúp đỡ nhau. Thầy đại diện anh em viết thơ ra ngoài, hoặc trả lời với các quan. Đặc biệt thầy động viên anh em hăng hái làm việc tông đồ ngay trong nhà tù. Trong hồ sơ phong thánh, cha Huấn đã dựa vào các thơ của thầy làm chứng rằng: “Thầy Mậu vẫn dạy giáo lý cho các tù nhân, và rửa tội được bốn mươi bốn người. Trong đó có một tử tội tên Hưng mới học đạo một tháng thì đến ngày xử, anh xin quan hoãn lại ít giờ để rửa tội, sau đó vui vẻ tiến ra pháp trường...”.
Khi quan nói: “Kẻ nào chết vì không chịu bước qua thập giá là ngu dại, không biết thương cha mẹ già”. Thầy giải thích: “Thưa quan, cha mẹ sinh chúng tôi, nhưng ngay cha mẹ chúng tôi có ở trên đời, cũng là nhờ quyền năng của Chúa”. Khi quan tuyên đọc bản án xử tử, thầy bình tĩnh đáp lại: “Thưa quan, chúng tôi mong ước về với Chúa, như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án lệnh của Đức vua”.
Thánh Đaminh BÙI VĂN ÚY
Thầy giảng dòng ba Đaminh
(1812 1839)
“Nếu tôi cả gan bước lên thánh giá, thì tôi xúc phạm đến Chúa và bất hiếu với cha mẹ. Vì song thân sinh ra tôi, đã dạy tôi trung thành với niềm tin cho đến chết”.
Thầy Đaminh Úy đã đặt trọn niềm tin của mình trong truyền thống tiên tổ. Không biết cha mẹ căn dặn thầy trung kiên dù phải tử đạo vào lúc nào, khi mới có bách hại hay khi vào thăm trong tù? Nhưng rõ rệt là với thầy, phản bội đức tin là phản lại những người đã nhọc công vun trồng niềm tin cho mình.
Đaminh Bùi văn Úy sinh năm 1812 tại họ Tiền Môn, làng Kẻ Rèm, tỉnh Thái Bình. Từ bé cậu đã được gia đình gửi vào nhà xứ sống với cha Tự. Sau khi học thành thầy giảng thầy luôn hoạt động bên cha tại giáo xứ Kẻ Đanh rồi Kẻ Mốt (Bắc Ninh), thì bị bắt, lúc đó thầy mới 26 tuổi. Bất cứ ai gặp thầy Úy đều công nhận thầy hiền lành, có lòng yêu mến Chúa đặc biệt và là người trợ thủ đắc lực của cha Tự trong công tác, nhất là khi cuộc bách hại của vua Minh Mạng bùng nổ. Ước mơ lớn nhất của thầy là được đóng vai “Lê Lai thế mạng” để cha Tự khỏi bị bắt. Khi đào hang trú ẩn, thầy làm hai ngăn rồi tình nguyện ở ngăn bên ngoài. Thầy nói với mọi người:
“Nếu các quan đến truy lùng, tôi sẽ ra trước nộp mình để cha khỏi bị bắt, hầu cha có thể giúp anh chị em”.
Ngày 29.6.1838, lính đến vây làng Kẻ Mốt, đã bắt thầy Úy chung với cha Tự. Cha dự định khai thầy chỉ là giáo hữu vào làm bếp để đỡ nguy hiểm, nhưng thầy nói:
“Xin cha cứ nói con là thầy giảng, may ra cùng được phúc tử đạo với cha”
Rồi thầy xin xưng tội để chuẩn bị tâm hồn. Một lần tương kế tựu kế, quan nói dối thầy: “Cha Tự xuất giáo rồi, sao anh còn cố chấp thế?”. Thầy bình tĩnh trả lời: “Vô lý, cha tôi không bao giờ làm vậy, mà dù có thực như thế, tôi cũng không chịu xuất giáo đâu”.
Lần khác, quan như muốn dạy khôn thầy: “Anh còn trẻ, hãy nghĩ lại và khôn hơn một chút, ta chỉ yêu cầu anh bước qua một khúc gỗ mà”. Thầy Úy đáp: “Đúng là khúc gỗ, thưa quan, nhưng khúc gỗ đó lại tượng trưng cho Chúa tôi thờ. Quan nghĩ sao nếu tôi giày đạp lên ảnh vẽ hình cha mẹ tôi?”. Hôm khác, khi bị dụ dỗ bước qua thánh giá, thầy khẳng khái nói:
“Thưa quan, quan có dám bước qua mặt đức vua không, mà lại bảo tôi bước qua mặt Chúa tôi? Nhưng dù quan có bước qua mặt vua, thì tôi cũng không bước qua mặt Chúa tôi được”.
Quan nghiêm nghị phán: “Tên phạm thượng, ta sẽ chém đầu mi”. Người chiến sĩ đức tin vui vẻ reo lên:
“Anh em ơi, tôi sắp được chém rồi”.
Nhưng phúc trường sinh đến với thầy không quá sớm như vậy.
Thánh Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI
Nông dân dòng ba Đaminh
(1806 - 1839)
Tuy là một tân tòng mới theo đạo, anh Augustinô Mới đã biểu lộ một đức tin kiên cường, không thua kém gì những Kitô hữu vững tin nhất.
Augustinô Nguyễn văn Mới sinh năm 1806 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái Bình, trong một gia đình nông dân ngoại giáo. Đến tuổi trưởng thành, anh đến làng Đức Trai, xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) để làm thuê làm mướn. Tiếp xúc với giáo hữu ở đây, càng ngày càng thấy mến đạo, và xin theo học giáo lý. Năm 31 tuổi, anh được cha Tự rủa tội và đặt tên thánh bổn mạng là Augustinô.
Mấy năm sau, cha Tự cũng chủ sự lễ thành hôn cho anh với một thiếu nữ trong xứ. Theo các lời chứng trong hồ sơ phong thánh, anh Augustinô Mới sống đạo rất tốt, đặc biệt là đọc kinh Mân Côi mỗi tối. Dù có ngày lao động vất vả đến mãi khuya mới về, anh cũng không quên kinh Mân Côi kính Đức Mẹ.
Ngày 29.6.1838, khi quân lính bao vây làng Kẻ Mốt và bắt cha Tự, họ buộc toàn dân phải ra đình điểm danh, rồi bước qua thánh giá. Một số tín hữu nhanh chân lẩn tránh được, một số nhát gan thực hiện lời yêu cầu của lính. Các anh Mới, Vinh và Đệ cương quyết không chịu đạp lên thánh giá, nên bị bắt và áp giải chung với cha Tự, ông trùm Cảnh và hai thầy Úy và Mậu lên giam tại Bắc Ninh.
Thánh Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ
Thợ may dòng ba Đaminh
(1811 - 1839)
Hai mươi tám tuổi đời, một người vợ ba người con, đó là mối ưu tư trắc trở của anh Tôma Đệ trong những ngày bị giam cầm. Không thể bỏ đức tin, nhưng tương lai của người vợ trẻ và đàn con dại sẽ ra sao?. Trong nhiều ngày anh suy nghĩ và tha thiết cầu nguyện xin Chúa soi sáng. Cuối cùng anh tìm được an bình trong tâm hồn, phó thác tất cả trong bàn tay Chúa quan phòng. Anh nói với người vợ đến thăm:
“Đừng khóc mình ạ, mình về dạy dỗ các con nên người, dạy chúng thờ phượng Chúa. Tôi đã dâng mình và các con cho Ngài. Nhớ cầu xin Chúa cho tôi thêm sức mạnh để nhẫn nại đến cùng”.
Ra đời trong một gia đình Công giáo tại làng Bồ Trang, tỉnh Thái Bình năm 1811, Tôma Nguyễn văn Đệ vì lý do sinh kế, theo cha mẹ về xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) và ở ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh theo nghề thợ may và được mọi người yêu chuộng. Anh rất nhiệt tình với việc trong xứ trong họ. Hầu hết cờ quạt, đồ trang hoàng trong nhà thờ và nhà xứ đều nhờ đến bàn tay khéo léo và sáng tạo của anh. Khi kinh tế gia đình ổn định, anh lập gia đình, ra ở riêng và sinh hạ được ba người con.
Ngày 29.6.1838, quân lính vây làng Kẻ Mốt, và ép buộc mọi người trên 18 tuổi phải đạp lên thánh giá, anh lẩn trốn ra phía sau nhà. Đến khi quân lính xồng xộc vào nhà lùng bắt, anh biết mình không thể tránh được nữa, liền giã từ vợ, dặn đưa con về bên ngoại, ôm hôn từng đứa rồi ra trình diện. Đến trước thánh giá, anh Đệ quỳ xuống cầu nguyện lớn rằng: “Lạy Chúa, sẽ không bao giờ con bước qua mặt ngài”.
Quân lính áp giải anh Tôma Đệ cùng với cha Tự ông trùm Cảnh, hai thầy Úy, Mậu và các anh Mới và Vinh về giam tại Bắc Ninh.
Thánh Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH
Tá điền dòng ba Đaminh
(1813 - 1839)
Thánh Stêphanô Vinh là một trường hợp hy hữu, trong danh mục các thánh tử đạo Việt Nam. Khi bị bắt, anh mới chỉ là dự tòng chưa được rửa tội. Nhưng với những hiểu biết ít ỏi về đạo, anh đã kiên trì làm chứng cho chân lý. Mặc dù khi vô tù anh mới chính thức gia nhập đạo, rồi thành hội viên dòng ba Đaminh, nhưng anh không thua kém ai về lòng can đảm tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa.
Stêphanô Nguyễn văn Vinh sinh năm 1813 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái Bình. Sống trong một gia đình ngoại giáo rất nghèo, một miếng đất cũng không có, anh Vinh quanh năm phải làm thuê làm mướn cho các gia đình Kẻ Mốt (Bắc Ninh). Trường học duy nhất anh ham thích và theo được là các lớp giáo lý, nơi anh tập đánh vần và học truyền khẩu. Đặc biệt anh đem các điều học ở đó ra thực hành trong cuộc sống. Có điều là người ta không biết vì sao anh chưa được rửa tội. Mọi người đều mến thương anh vì anh đơn sơ, chất phác, khỏe mạnh và thật thà. Trong công việc anh không bao giờ làm cho qua loa chiếu lệ, ai thuê việc gì, anh cũng chu toàn tốt đẹp không cần kiểm soát, không có gì để chê trách. Cho đến khi bị bắt (lúc 26 tuổi) anh vẫn sống độc thân chưa lập gia đình.
Ngày 29.6.1838, khi quan quân vây bắt cha Tự ở Kẻ Mốt, và bắt mọi người phải đạp qua thánh giá, chàng thanh niên 25 tuổi này đã anh dũng nói thẳng với họ rằng: “Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên thánh giá, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật”.
Vì lời nói này, quan quân tưởng anh là người trong đạo, thế là họ bắt anh Vinh và áp giải về trại giam Bắc Ninh chung với cha Tự, ông trùm Cảnh, thầy Úy, thầy Mậu, anh Mới và anh Đệ. Chính tại đây, anh Vinh được diễm phúc làm người Kitô hữu, được hân hạnh làm con Cha Thánh Đaminh. Suốt hành trình tử đạo, anh là một nhân chứng trầm lặng, chỉ đồng tình với các vị khác, nhưng gông cùm, xiềng xích và tra tấn không lần nào có thể làm anh sa ngã hay thối chí. Chọn quan thầy Stêphanô trong tù, anh cương quyết noi theo vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội đến hơi thở cuối cùng.
Lời An ủi Ấm Lòng
Sau một tháng dọa nạt tra khảo bảy chiến sĩ đức tin nhưng vô hiệu, ngày 27.7.1838, quan tỉnh Bắc Ninh đệ án vào triều xin xử giáo cha Tự và ông trùm Cảnh, còn năm vị kia quan cho là nhẹ dạ tin theo, nên xin đánh mỗi người một trăm roi rồi phát lưu vào Bình Định. Luật vua thời đó xử giảo các phù thủy, đồng cốt, còn những kẻ a dua chỉ bị đánh đòn và phát lưu ba trăm dặm. Thế nhưng vua Minh Mạng cho rằng tội theo đạo Gia-tô thuộc loại nặng hơn, nên quyết định xử chém hai vị trên ngay tức khắc, còn tất cả sẽ bị xử giảo sau một năm nếu không chịu thay đổi ý kiến.
Ngày 5.9.1838, khi biết tin cha Phêrô Tự và ông trùm Cảnh đã bị chém tại pháp trường Kinh Bắc, năm vị trong ngục buồn bã nhớ thương. Thầy Mậu kêu gọi anh em ngồi lại bên nhau cùng đọc kinh, vừa khích lệ nhau, vừa ôn lại những lời khuyên của cha mình. Sau đó ba buổi tối, như chính các vị thuật lại, trong lúc họ đang cầu nguyện, thì bất ngờ tất cả đều thấy như cha Tự hiện ra ngay bên an ủi họ: “Các con đừng buồn, chắc chắn các con sẽ được chết vì đạo. Tuy nhiên, các con sẽ còn phải qua một thời gian thử thách nữa, để xứng đáng với phúc trọng này”. Có thể đó chỉ là giấc mơ chứ không phải sự thật, cũng có thể đó là lời nhắn nhủ cuối cùng của vị linh mục, nhưng kể từ ngày đó họ hết sầu buồn, tìm lại đuợc can đảm để nêu gương ngay trong cảnh quẫn bách ở trong trại giam.
Tuyên Khấn Trong Ngục Tù
Ấn tượng ghi nét sâu đậm vào lòng năm vị chứng nhân là lời cha Tự trong ngày lãnh phúc tử đạo. Cha mặc áo dòng và nói với mọi người về chiếc áo đó. Trước đây bốn vị, đến khi vào tù có thêm anh Vinh, đã mặc áo dòng ba Thánh Đaminh, nhưng chưa ai khấn cả. Thầy Mậu liền viết thơ cho cha Huấn dòng Đaminh để bày tỏ niềm ước nguyện được hiệp thông với dòng cách trọn vẹn. Thầy viết:
“Chúng con tất cả là năm tập sinh của dòng ba Đaminh, nhưng chúng con không thể giữ chay đủ các ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy được, nên chúng con xin cha thương rộng phép chuẩn chước cho sự thiếu sót đó. Qua thơ này, chúng con xin tuyên khấn trọn đời. Vì chúng con không thể đọc lời tuyên khấn trong tay cha được, nên bằng những dòng viết này chúng con coi như thực sự tuyên khấn trước mặt cha vậy, xin cha cho phép”.
Để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa toàn năng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng con là Phanxicô, Đaminh, Augustinô, Tôma và Stêphanô, trước mặt cha Huấn, đại diện cha Hermosilla, giám đốc dòng ba hãm mình Thánh Đaminh chúng con xin hứa và ước ao giữ lề luật và tập tục của dòng cho đến chết”.
Những chữ “cho đến chết” trong ngục tù khi đó chắc hẳn phải có âm vang đặc biệt đối với các vị. Được nối kết với truyền thống hơn sáu trăm năm truyền giáo của Thánh Phụ và một dòng tu lớn trong Giáo hội, từ nay năm anh em tích cực hơn với việc tông đồ. Dưới sự điều hành của thầy Mậu, năm hội viên dòng ba chia nhau tiếp xúc gặp gỡ các bạn tù, giới thiệu với họ về Thiên Chúa, cắt nghĩa giáo lý, rồi dẫn họ đến thầy Mậu lãnh nhận bí tích rửa tội. Ít ra các vị đã rửa tội được bốn mươi bốn người. Ngục tù giờ đây trở thành nguyện đường, hằng ngày vang lên những lời chúc tụng Thiên Chúa, lời cầu nguyện cho Giáo hội và cho mọi người mọi giới được đầy tràn ơn lành của Ngài.
Làm Chứng Trước Quan Quyền
Thấm thoát hơn một năm đã trôi quan, triều đình quyết định lại việc xử giảo cả năm người. Ngày 19.8.1839 quan cho điệu tất cả ra tòa, vẫn để thánh giá một bên, bên kia là dụng cụ tra tấn. Quan nói: “Các anh bị giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã nhiều, vậy bỏ đạo đi, ta tha về với vợ con”. Thầy Mậu đại diện anh em trả lời:
“Chúng tôi đã quyết tâm trung thành với Chúa, nếu quan ra lệnh chém đầu hay giết cách nào khác, chúng tôi đều sẵn sàng”.
Rồi cả năm vị quỳ xuống bái lạy thánh giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con, con xin phó thác hồn con trong tay Chúa”.
Thất vọng quan cho lính đưa tất cả về ngục và thốt lên: “Bọn này không thể tha thứ được, mà chúng có thèm được tha đâu”.
Ngày 24.11, năm vị phải ra tòa một lần nữa. Quang cảnh vẫn như lần trước, và các tôi tớ Chúa vẫn một mực cương quyết không chối đạo. Thầy Mậu thay mặt anh em nói với quan:
“Chúng tôi chỉ tôn thờ một Thiên Chúa là Cha chung muôn loài, là Vua trên hết các vua, là Đấng chúng tôi mong được đổ máu ra để chứng tỏ lòng trung thành và yêu mến”.
Như Nai Rừng Mong Mỏi Tìm Về Suối Nước Trong
Ngày 19.12.1839, trước khi đi xử, quan cho năm vị một cơ hội cuối cùng. Ông nói: “Chỉ cần đi ngang qua phía chân tượng, ta cũng tha”. Sau ông lại nói: “Chỉ cần đi vòng quanh tượng ta cũng tha”. Nhưng các vị chứng nhân đức tin không dễ bị mắc lừa, họ bảo nhau quỳ xuống đọc kinh Kính Danh Chúa Giêsu. Có lẽ do ảnh hưởng những lời kinh Giáo hội trong mùa Vọng, đón chờ Chúa giáng sinh, thầy Mậu nói với quan những lời kinh Thánh vịnh 41 (c 1-2):
“Thưa quan, chúng tôi ước mong về Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án lệnh của nhà vua”.
Biết không thể làm nao núng ý chí sắt đá của những con người này được nữa, quan liền truyền đem đi xử với bản án như sau:
“Bọn gian ác theo Gia-tô tả đạo, mặc dầu đã khuyên răn sửa phạt, vẫn ngoan cố không chịu bước qua thập giá, nay chúng bị xử giảo”
Trên đường ra pháp trường, thầy Mậu rảo chân bước đi trước, các anh khác bước theo sau, tất cả đều tỏ ra hân hoan kiên cường. Dân chúng hiếu kỳ đi xem rất đông và xì xào với nhau là các vị này bị giết oan. Theo gương thầy Mậu, các chứng nhân tươi cười với mọi người:
“Anh em chúng tôi đang tiến về thiên đàng đây”.
Khi tới nơi xử, mỗi vị bị trói vào một cọc đã chôn sẵn. Rồi cùng một lúc, lý hình xiết cổ các vị bằng giây thừng cho đến lúc tắt thở. Các tín hữu đem thi thể các vị về an táng ở họ đạo mình. Thánh Mậu ở Kẻ La, Thánh Úy ở Đồng Tiến, Thánh Mới ở Phượng Vĩ, Thánh Đệ ở Phong Cốc và Thánh Vinh ở Hương La, tất cả đều thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 27.5.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã suy tôn năm vị anh hùng tử đạo: Phanxicô Xavie Hà trọng Mậu, Đaminh Bùi văn Úy, Augustinô Nguyễn văn Mới, Tôma Nguyễn văn Đệ và Stêphanô Nguyễn văn Vinh lên bậc Chân Phước.
Hiếu Trung, OP
18/12 Thứ Năm
Ba Thánh MỸ, ĐƯỜNG, và THUẬT
Ba thầy giảng cùng bị bắt một ngày, cùng bị giam một nơi, cùng tử đạo một giờ và cùng được phong Chân Phước một lượt là các thầy: Phaolô Nguyễn văn Mỹ, 40 tuổi; Phêrô Trương văn Đường, 30 tuổi; và Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi.
Thánh Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ (1798 - 1838)
Là người lớn tuổi nhất, thầy Phaolô Mỹ như người anh cả, và là chỗ dựa cho hai thầy giảng cùng bị giam chung. Trong một lá thư gửi cho thừa sai Marette, thầy Đường viết:
”... Từ ngày được diễm phúc chịu khổ vì đức tin, thầy Mỹ thay chúng con vẫn viết thơ cho cha. Vì chúng con coi thầy như thay mặt cha ở giữa chúng con...”.
Phaolô Nguyễn văn Mỹ chào đời năm 1798 ở làng Kẻ Non, còn gọi là Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tên thật của cậu là Nguyễn văn Hữu. Năm 13 tuổi, được phép cha mẹ, cậu Mỹ theo giúp việc Đức cha Giacôbê Longer Gia rồi sau giúp cha Luật xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến tuổi 19, cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị).
Khi làm thầy giảng thực thụ, thầy Mỹ được gửi đến giúp thừa sai Marette. Ít lâu sau Đức cha Havard Du giám quản địa phận Tây Đàng Ngoài, đã chọn thầy phụ giúp linh mục Cornay Tân xứ Bầu Nọ, tỉnh Sơn Tây. Nhiều kinh nghiệm và khả năng, thầy Mỹ đã hỗ trợ đắc lực cho vị thừa sai trẻ tuổi nhiệt thành, nhưng thường đau ốm nặng nề. Thầy Mỹ luôn hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo: Từ dạy giáo lý tân tòng và trẻ em, đến khuyên bảo các tội nhân hối cải. Khi tình hình cấm đạo lên cao độ, thầy là vị tông đồ nhiệt thành và hữu hiệu, đi thăm từng gia đình để khích kệ các tín hữu sống đức tin, và còn hơn thế được nhiều người ngoại giáo về đón nhận niềm tin Kitô giáo.
Thánh Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG (1808 - 1838)
“Nhất định chúng tôi không đạp lên ảnh chuộc tội, vì như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hồn lẫn thể xác”.
Lời nói trên cho ta thấy tâm tình của Thánh Phêrô Đường, vị thầy giảng đã hơn hai mươi năm dâng mình cho Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc đích thực cho chính mình và tha nhân.
Sinh năm 1808 ở làng Kẻ Sở, xã Ninh Phú, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Gia đình Phêrô Đường tuy nghèo nhưng nổi tiếng thánh thiện. Được cậu là cha Trương văn Thi phụ trách xứ Sông Chảy đỡ đầu, nên ngay khi Đường mới 9 tuổi, cha Phương xứ Yên Tạp đã nhận khai tâm cho chú vào đời sống tu trì. Lúc 15 tuổi, Phêrô Đường đã được gửi đến giúp xứ Bầu Nọ dưới quyền thừa sai Marette. Với sự khích lệ của cha, anh chuyên tâm học chữ Hán và Latinh để chuẩn bị cho tương lai.
Khả năng và nhân cách của Phêrô Đường được xác nhận ngay năm sau. Anh được Đức cha Havard Du nhận vào bậc thầy giảng dù mới 16 tuổi, thầy giảng trẻ tuổi nhất. Thầy tiếp tục giúp xứ Bầu Nọ thời cha Cornay Tân, cho đến ngày bị bắt. Tính tình vui tươi, hiền lành, thầy được mọi người trong xứ mến chuộng.
Thánh Phêrô VŨ TRUẬT 1817 - 1838)
Thầy Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi, đáng lưu danh muôn thuở do câu nói bất hủ, trả lời lại những viên quan chê anh dại dột lãng phí tuổi thanh xuân:
“Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời”.
Phêrô Vũ Truật sinh năm 1817 ở làng Hà Thạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn Sơn Tây. Gia đình anh rất nghèo, cha thì chết sớm, vốn liếng lại chẳng có, mẹ anh phải đầu tắt mặt tối suốt ngày, để nuôi ba con dại, nên Phêrô Truật không được đi học và gầy yếu xanh xao.
Tuy nhiên, anh Truật có lòng đạo đức, thường lui tới nhà thờ kinh lễ, nên được cha Tân chánh xứ Bầu Nọ cho vào phục vụ những việc nhẹ trong xứ và tạo điều kiện cho ăn học. Dẫu thế mặc lòng, anh Truật cũng chẳng bằng ai, phần trí khôn hơi chậm, phần hay bị đau ốm luôn, anh chỉ có thể biết đọc biết viết sơ sơ. Bù lại, anh rất thuộc kinh, nên đặc trách việc dạy kinh truyền khẩu cho các thiếu nhi nhỏ tuổi.
Mãi đến khi vị bắt giam trong ngục rồi, Đức cha Havard Du mới chứng nhận anh là thầy giảng, vừa để tỏ lòng tín nhiệm, vừa để khích lệ người anh hùng trẻ tuổi, kiên trung làm chứng cho đức tin. Thầy Truật tuy không còn cơ hội để giảng bằng lời nói, nhưng thái độ kiên tín của thầy chính là lời giảng có sức thuyết phục hơn nhiều.
Ba Tấm Lòng Vàng
ở Bầu Nọ có người ngoại giáo tên Đức cầm đầu một băng cướp đã bị bắt. Để nhẹ tội, y nói với vợ là Yến vu oan cho cha Cornay Tân tội tổ chức phản loạn. Chị ta liền giả vờ đến xin học đạo để dò xét những nơi cha thường trú ẩn. Khi biết được, chị ta liền giấu vủ khí trong vườn nhà cha, rồi đi mật báo cho các quan tỉnh Sơn Tây.
Ngày 20.6.1837, quan Sơn Tây phái một ngàn năm trăm quân lính đến làng Bầu Nọ, bắt vị đạo trưởng Tân. Hai thầy Mỹ và Đường, cũng như anh Truật ngồi lẩn vào đám đông dân chúng bị tập trung nơi đình làng. Lính lục soát từ sáng tới trưa vẫn không thấy cha Tân đâu cả. Bà Yến liền bầy cho họ bắt anh Truật và hai thầy giảng Mỹ và Đường là những người thân thiết với cha xứ để tra hỏi.
Chiều hôm đó, lính phát hiện được cha đang ẩn trong bụi rậm. Nhưng để có nhân chứng ghép tội cha, ba vị phụ tá này cũng bị áp giải với ngài hơn sáu dặm đường về nhà lao tỉnh Sơn Tây. Tại công đường, ba người đã khéo léo minh chứng cha xứ không theo giặc nổi loạn, và giải thích những lời đồn đại sai về đạo. Thí dụ quan hỏi: “Sao các ông móc mắt người chết để luyện bùa phép?”. Thầy Mỹ trả lời: “Không lẽ quan tin những lời vô lý đó sao? Bởi vì nếu chúng tôi làm như thế, cha mẹ vợ con họ đâu để chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp gỡ thân ái và vui vẻ”.
Các cuộc thẩm vấn thường đi liền với những tra tấn dã man. Đây là chứng thư của thầy Mỹ:
“Lính lột áo chúng tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống, lấy giây thừng cột chặt tay chân, rồi kéo căng, cột vào ở bốn phía, nguyên sự căng nọc như thế đủ làm chúng tôi đau đớn vô cùng. Thế rồi họ bắt đầu đánh đòn... Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa, mà là cả bó. Mỗi lần đánh, hằng trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt chúng tôi, tạo nên nhiều vết thương đẫm máu...”.
Riêng thầy Truật vì ốm yếu nên được đeo gông nhẹ hơn và bị ít đòn hơn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn, cả ba người đều kiệt sức, phải khiêng về ngục thất. Ngày 20.9 lính canh tù loan tin cha Tân đã bị trảm quyết, và khuyên các thầy bỏ đạo, cả ba vị cùng nói: “Chúng tôi mừng vì thầy chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương ngài”.
Giai đoạn này thầy Mỹ ghi lại trong một lá thơ:
“Suốt bốn tháng liền, chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu lính canh nghịch đãi, phòng giam ẩm thấp hôi hám, ruồi muỗi tự do hoành hành, mà trên người thì đầy những vết thương bị tra tấn...”.
Tháng 10, bản án tỉnh Sơn Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phê và gởi về. Nhưng thay vì giết ngay, bản án quyết định “giam hậu”, nghĩa là khoan xử chờ quyết định mới, bề ngoài bản án có vẻ nhân đạo, nhưng thực ra bên trong rất thâm độc: Với thời gian, nhiệt tình ban đầu có nguy cơ phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù không biết đến bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng của con người có hạn, quá khổ đau qua mòn mõi, quá thất vọng, con người dễ bị lung lạc mà thay đổi ý định. Thực tế, ba thầy giảng phải chờ thêm mười bốn tháng, vị chi tất cả là một năm rưỡi bị giam cầm. Nhưng suốt thời gian bị giam cầm thử thách lâu dài ấy, ba thầy vẫn gắn bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi khát vọng phúc tử đạo, mỗi sáng cũng như mỗi tối, các thầy lớn tiếng đọc kinh Mân Côi chung, cầu nguyện chung, đồ ăn thức uống, thuốc men nhận được, ba vị chia sẻ cho lính canh. Những ai đến thăm thường được khuyên nhủ:
“Anh em hãy sống hòa thuận với mọi người trong gia đình, làng nước, hãy là giáo hữu nhiệt thành, vì đời sống trần gian chẳng là bao. Chúng tôi đã vâng theo ý Chúa định đoạt, hy vọng mai này chúng ta sẽ đoàn tụ trên trời”.
Cha Triệu giả làm thường dân mang Mình Thánh Chúa cho các thầy được bốn lần. Đối với các thầy, đó quả là hồng phúc lớn lao. Ta thử đọc tâm sự của thầy Đường gửi cho cha Marette trong thơ:
“Hôm nay là ngày trọng đại, chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm vơi nhẹ những xiềng xích của chúng con... Cửa thiên đàng đã gần kề, nghĩ đến hạnh phục đang chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao sự gì khác nữa”.
Cùng Chiến Thắng Vinh Quang
Năm 1838, triều đình duyệt lại bản án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành. Ngày 18.12 ba chứng nhân anh dũng bị điệu ra pháp trường ở Gò Vôi, làng Mông Phụ, tỉnh Sơn Tây. Mỗi người mang trên ngực tấm thẻ ghi tên họ, nguyên quán và tội theo đạo Gia-tô, đã thú nhận, truyền xử giảo. Trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước, ba thầy cùng làm dấu khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban phép lành tha tội. Một người lính cho các ngài uống rượu, ba vị cảm ơn chỉ xin uống nước trà và nói: “Thầy giảng chúng tôi kiêng rượu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội”. Đến nơi xử, ba thầy nằm dài trên chiếu, quân lính quây thành một vòng tròn lớn, để ngăn cản dân chúng. Từng vị một bị trói chân vào cột và trói chéo hai tay ra sau lưng. Giây thừng tròng sẵn vào cổ. Giữa tiếng chiêng trống vang rền, theo lệnh quan, lý hình mỗi bên nắm chặt đầu giây xiết thật căng, cho tới khi tất cả tắt thở. Máu ứa ra ngoài miệng. Sau đó họ lấy lửa đốt thử gan bàn chân để xác nhận các tử đạo đã chết thật rồi.
Cha Marette và giáo dân đưa thi hài ba thầy về họ Kẻ Mang gần đấy tẩm liệm. Ngài dâng lễ cầu hồn tạ ơn Chúa đã cho các bậc tôi trung thắng trận khải hoàn.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn ba thầy Phaolô Nguyễn văn Mỹ, Phêrô Trương văn Đường và Phêrô Vũ Truật lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900.
NB: Chân Phước Đường trong bản án ghi là Nguyễn văn Đường nhưng con cháu sau này xác định là họ Trương. Có lẽ thầy khai khác đi, để khỏi liên lụy đến họ hàng (Phạm đình Khiêm, ĐMHCG tháng 3 năm 1970, tr. 10 và 11).Hiếu Trung, OP
17/12 Thứ Tư
“Một Cuộc Dấn Thân Hợp Thời Hơn Bao Giờ Hết đó là Việc Giảng Dạy Hòa Bình”
Sứ Điệp Hòa Bình đề ngày Lễ Mẹ Maria Hoài Thai Vô Nhiễm 8/12/2003 của ĐTC Gioan Phaolô II cho Ngày Thế Giới Hòa Bình 1/1/2004 với nhan đề trên đây đã được chính thức phổ biến vào ngày Thứ Ba 16/12/2003.
Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Để Cử Hành Ngày Thế Giới Hòa Bình 1/1/2004Một Dấn Thân Hợp Thời Hơn Bao Giờ Hết đó là Việc Giảng Dạy Hòa Bình
Tôi xin ngỏ lời cùng quí vị, những Nhà Lãnh Đạo các quốc gia, những người có phận sự cổ võ hòa bình!
Tôi xin ngỏ lời cùng quí vị là những Chuyên Gia Luật Pháp dấn thân phác họa những đường lối dẫn đến chỗ thỏa hiệp ôn hòa, dọn đường cho những cuộc hội nghị và những hòa ước làm kiên cường luật pháp quốc tế!
Tôi xin ngỏ lời cùng quí vị là những Thày Dạy của giới trẻ, những người ở khắp tất cả mọi châu lục đang không ngừng làm việc để huấn luyện lương tâm theo những đường lối cảm thông và đối thoại!
Và Tôi cũng ngỏ lời cùng quí vị là những con người nam nữ hướng chiều về những đường lối khủng bố bất khả chấp và lấy đó làm chính lý do để chiến đấu.
Hỡi tất cả quí vị, xin hãy lắng nghe lời kêu gọi khiêm tốn của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô kêu lên đây, đó là cả cho đến ngày hôm nay đây, thời điểm mở màn cho năm 2004 thời gian vẫn là những gì khả dĩ. Mà nếu hòa bình là những gì khả dĩ thì nó cũng là một nhiệm vụ nữa!
Một sáng kiến cụ thể
1. Sứ điệp đầu tiên của Tôi cho Ngày Thế Giới Hòa Bình, vào ngày khai mở cho năm 1979, đã chú trọng đến đề tài là “Để Tiến Đến Chỗ Hòa Bình Thì Hãy Giảng Dạy Hòa Bình”.
Sứ Điệp Tân Niên Ấy là những gì tiếp tục con đường do ĐGH Phaolô VI đáng kính phác họa, vị muốn cử hành ngày 1/1 hằng năm là Ngàu Thế Giới Cầu Cho Hòa Bình. Tôi xin nhắc lại những lời của vị cố Giáo Hoàng này vào năm 1968: “Vậy chính vì lòng Tôi mong ước mà việc cử hành này được diễn tiến hằng năm như là một dấu hiệu hy vọng và hứa hẹn, vào đầu niên lịch, thời điểm đo lường và hướng dẫn cuộc hành trình của đời sống con người qua giòng thời gian, để Hòa Bình, bằng tình trạng quân bình chính đáng và hiệu nghiệm của nó, có thể làm chủ chân trời lịch sử mai hậu” (1).
Trung thành với những ước muốn được Vị Tiền Nhiệm khả kính Ngai Tòa Phêrô của mình bày tỏ, hằng năm Tôi đã tiếp tục truyền thống cao quí này, bằng việc dùng ngày đầu năm dân sự đây để suy tư và nguyện cầu cho hòa bình thế giới.
Trong 25 năm Giáo Triều Chúa đã ban cho Tôi cho tới nay, Tôi đã không ngừng nói lên trước Giáo Hội và thế giới, bằng việc kêu gọi các tín hữu cũng như tất cả mọi người thiện chí hãy dấn thân cho hòa bình và hãy giúp vào việc đạt tới sự thiện nền tảng này, nhờ đó bảo đảm cho thế giới có được một tương lai tốt đẹp hơn, một tương lai được đánh dấu nơi việc chung sống thuận hòa và tương kính.
Năm nay, một lần nữa, Tôi cảm thấy cần phải kêu gọi tất cả mọi con người nam nữ ở hết mọi lục địa hãy cử hành một Ngày Hòa Bình Thế Giới mới. Giờ đây hơn bao giờ hết nhân loại cần tái khám phá ra con đường hòa thuận, một con đường thực sự đã bị tràn ngập bởi những thứ vị kỷ và hận thù, bởi những tham muốn quyền lực và ý đồ trả đũa.
Một Khoa Học Hòa Bình
2. Mười một Sứ Điệp được Đức Phaolô VI gửi cho thế giới đã từ từ vạch ra con đường cần phải theo để đạt tới lý tưởng hòa bình. Vị đại Giáo Tông này chậm mà chắc đã phác họa ra những chương mục khác nhau cho một thứ “khoa học hòa bình” thực sự. Cần phải nhắc lại những đề tài của các Sứ Điệp được Đức Phaolô VI lưu lại cho chúng ta vào những dịp như thế này (2). Mỗi một Sứ Điệp ấy vẫn còn hợp thời cho tới ngày nay. Thật vậy, trước thảm trạng của những thứ chiến tranh vẫn còn đang xẩy ra đẫm máu khắp thế giới, nhất là ở Trung Đông, vào đầu Đệ Tam Thiên Kỷ này, thì những sứ điệp ấy có những lúc đã mang một cung giọng của những lời khiển trách có tính cách ngôn sứ.
Một Giáo Khoa Hòa Bình
3. Phần Tôi, trong suốt 25 năm Giáo Triều của mình, Tôi đã tìm cách tiến bước trên con đường đã được vị Tiền Nhiệm khả kính của Tôi vạch định. Vào lúc bình minh của mỗi năm, Tôi đã kêu mời con người thiện chí hãy suy tư, theo ánh sáng của lý trí và niềm tin, những khía cạnh khác nhau của một cuộc chung sống thuận hòa.
Thành quả đạt được đã trở thành một tổng luận giáo huấn về hòa bình giống như một thứ giáo khoa về đề tài nống cốt này vậy, một thứ giáo khoa dễ hiểu đối với những ai sẵn sàng chấp nhận, song đồng thời cũng khá gay go đối với những ai còn quan tâm đến tương lai nhân loại (3).
Những mầu sắc khác nhau của một thứ hình thức đủ mọi góc cạnh về hòa bình giờ đây đã được dẫn giải sâu rộng. Những gì còn lại hiện tại đó là việc thực hiện để bảo đảm là lý tưởng của một cuộc chúng sống thuận hòa, cùng với những đòi hỏi đặc biệt của nó, trở thành một phần ý thức của cá nhân cũng như của các dân tộc. Kitô hữu chúng ta thấy rằng việc dấn thân tự giáo dục lấy mình cũng như người khác về hòa bình như là một cái gì nằm ở cốt lõi tôn giáo của mình. Thật vậy, đối với Kitô hữu thì việc cổ võ hòa bình là việc loan truyền Chúa Kitô, Đấng là “hòa bình của chúng ta” (Eph 2:14); nó là viảc loan báo Phúc Âm của Người, một thứ “Phúc Âm hòa bình” (Eph 6:15); nó là việc kêu gọi tất cả mọi người tiến đến niàm phúc lộc được làm “người xây dựng hòa bình” (x Mt 5:9).
(còn tiếp)
Giảng Dạy Hòa Bình
Giảng Dạy Luật Pháp
Tôn Trọng Luật Lệ
Trật Tự Quốc Tế Mới
Nạn Khủng Bố Chết Chóc
Việc Góp Phần của Giáo Hội
Nền Văn Minh Yêu Thương
Cuộc Nhiệm Hôn của Chúa Kitô và Giáo Hội
(Bài giáo lý cho việc cầu nguyện bằng Thánh Vịnh của ÐTC Gioan Phaolô II thứ 95 Thứ Tư 10/12/2003 về Ca Vịnh Rev. 19:1-7 - Chúa Nhật, Tuần Thứ Nhất)
1. Tiếp tục loạt Bài Thánh Vịnh và ca vịnh làm thành lời nguyện cầu của giáo hội cho những giờ kinh ban tối, chúng ta suy niệm về một bài thánh thi ca được lấy từ đoạn 19 của Sách Khải Huyền và được diễn tiến bằng những lời hãy vui lên và những lời tung hô.Đằng sau những lời kêu cầu hân hoan này là lời than van thảm thiết theo cung giọng của thành phần vua chúa, của các tay thương gia và của những kẻ hải hồ ở đoạn trước, khi chứng kiến thấy cảnh sụp đổ của đô đế Babylon, một thành đô của sự dữ xấu xa và của đàn áp, biểu hiệu của một cuộc bách hại hung hãn chống lại Giáo Hội.
2. Ngược lại với tiếng kêu phát xuất từ trái đất này là một ca đoàn hoân hoan có một tính cách phụng vụ vang lên trên trời lập lại tiếng amen cùng với những lời hãy vui lên. Trong bản văn Khải Huyền, những lời tung hô khác nhau tương tự như những câu đối xướng được phụng vụ giờ kinh ban tối giờ đây liên kết lại thành một bài ca vịnh duy nhất, thực sự đã đặt vào môi miệng của những thành phần khác nhau. Trước hết chúng ta thấy cả một “đám rất đông”, bao gồm các thần thánh (x câu 1-3). Rồi nghe thấy tiếng của “24 vị lão thành” và “4 sinh vật”, những hình ảnh như biểu hiệu cho các vị tư tế trong phụng vụ thiên quốc chúc tụng và tạ ơn này (x câu 4). Sau hết là bài thánh thi ca được đồng thanh dâng lên (x câu 5), một bài thánh thi ca được khởi lên từ “đám rất đông” ấy (x câu 6-7).
3. Trong những bài tới của hành trình cầu nguyện của chúng ta, chúng ta sẽ có dịp để dẫn giải những câu đối xứng riêng trong bài thánh thi ca uy linh và vui mừng chúc tụng đa giọng này. Lúc này đây chúng ta chỉ chú ý tới hai nhận định mà thôi. Nhận định thứ nhất liên quan đến câu tung hô mở đầu là “Ơn cứu độ, vinh quang và quyền năng thuộc về Thiên Chúa của chúng ta, vì các phán quyết của Ngài thì chân thực và công minh” (câu 1-2).
Ở tâm điểm của lời kêu cầu hân hoan này là hình ảnh của việc Thiên Chúa can thiệp thẳng tay vào lịch sử con người: Chúa không dửng dưng, như là một đế vương vô tâm và cô lập trước những quằn quại của loài người. Như vị tác giả Thánh Vịnh viết: ‘Ngai tòa của Chúa ở trên trời. Đồi mắt của Chúa vẫn cẩn thận trông xem và thử thách tất cả mọi dân tộc” (Ps 10[11]:4).
4. Ngoài ra, cái nhìn của Ngài còn là nguồn mạch hành động, vì Ngài can thiệp và hủy diệt những thứ đế quốc hống hách và áp bức, Ngài lật đổ kẻ kiêu căng khinh dễ Ngài, Ngài phán xử tất cả những ai hành ác. Vị tác giả Thánh Vịnh cũng dùng những hình ảnh tượng hình (x Ps 10:7) để diễn tả việc Thiên Chúa dũng mãnh can thiệp đột ngột vào lịch sử này, như tác giả Sách Khải Huyền đã nói đến ở đoạn trước (x Rev 18:1-24) về việc can thiệp thần linh một cách kinh hoàng ở Babylon, lật đổ tận rễ thành đô này mà dìm xuống biển khơi. Bài thánh thi ca của chúng ta đề cập tới việc can thiệp này ở một đoạn không được tiếp nối trong việc cử hành giờ kinh ban tối (x Rev 19:2-3).
Bởi thế, trước hết, việc chúng ta nguyện cầu cần phải nêu lên và chúc tụng tác động thần linh, đức công minh hữu hiệu của Chúa, vinh quang của Ngài chiến thắng sự dữ. Thiên Chúa tỏ mình ra trong lịch sử, đứng về phía thành phần công chính và thành phần nạn nhân, đúng như được nói đến trong lời tung hô ngắn ngủi và quan trọng của Sách Khải Huyền cũng như được thường lập lại khi hát Thánh Vịnh (x Ps 145[146]:6-9).
5. Chúng ta cần phải để ý tới một đề tài khác nơi bài ca vịnh của chúng ta đây. Đề tài này được khai triển từ lời tung hô cuối cùng và là một trong những động lực nổi bật của chính Sách Khải Huyền: “Vì ngày hôn ước của Con Chiên đã đến, hôn thê của Con Chiên đã sữa soạn sẵn sàng” (Rev 19:7). Chúa Kitô và Giáo Hội, Con Chiên và hôn thê, đều thuộc về một cuộc hiệp thông yêu thương sâu xa.
Chúng ta sẽ cố gắng làm cho cuộc nhiệm hôn này sáng tỏ qua chứng từ thi ca của một đại Giáo Phụ thuộc Giáo Hội Syrian là Thánh Ephrem, vị đã sống ở thế kỷ thứ 4. Bằng việc sử dụng một cách tượng trưng dấu hiệu của tiệc cưới Cana (x Jn 2:1-11), ngài mời chính thành Cana được nhân cách hóa này hãy chúc tụng Chúa Kitô về tặng ân cao cả đã lãnh nhận:
“Cùng với các vị khách của mình, tôi xin cám ơn Ngài vì Ngài đã cho rằng tôi xứng đáng mời Ngài:/ Ngài là vị Phu Quân thiên quốc, Đấng đã hạ giáng và mời gọi tất cả mọi người;/ và cả tôi nữa cũng được mời gọi vào tham dự lễ cưới tinh tuyền./ Trước mặt dân chúng, tôi sẽ nhìn nhận Ngài là Vị Hôn Phu, ngoài ra không có ai như Ngài./ Phòng hôn ước của Ngài đã sửa soạn sẵn sàng qua các thế kỷ, và được trang bị một cách sang trọng không thiếu một sự gì hết:/ không giống như tiệc cưới Cana đã được Ngài cho thỏa mãn” ("Inni sulla verginità," [Hymns on Virginity], 33,3: "L'arpa dello Spirito" [The Lyre of the Spirit], Rome, 1999, pp. 73-74).
6. Ở một bài thánh thi ca khác cũng nói đến tiệc cưới Cana, Thánh Ephrem đã nhấn mạnh đến cách Chúa Kitô, vị được mời đến các bữa tiệc cưới khác (nhất là những cặp phu thê ở Cana), muốn cử hành lễ cưới của mình: một tiệc cưới với vị hôn thê của mình là hết mọi linh hồn trung tín. “Hỡi Giêsu, Ngài được mời đến lễ cưới của những người khác, của những cặp hôn phu ở Cana,/ ở đây, thay vì là lễ cưới của Ngài, tinh tuyền và tuyệt mỹ: Lễ cưới làm cho những ngày sống của chúng ta vui mừng,/ vì Lạy Chúa, các người khách của Chúa cũng cần những bài hát của Ngài nữa: Xin hãy để cho cây huyền cầm của Chúa tràn đầy mọi sự!/ Linh hồn là hôn thê của Chúa, thân thể là the phòng,/ các khách khứa là các thứ giác quan và tâm tưởng./ Và đối với Ngài nếu chỉ có một thân thể là lễ cưới,/ thì cả Giáo Hội này là tiệc cưới của Ngài vậy!” ("Inni sulla fede" [Hymns on the Faith], 14,4-5: op. cit., p. 27).
Anh Chị Em thân mến,
Bài ca vịnh hôm nay, một bài ca vịnh được trích từ Sách Khải Huyền, bày tỏ niềm vui của các thần thánh trong phụng vụ tạ ơn trên thiên đình của các ngài. Thiên Chúa được chúc tụng vì Ngài đã ra tay chiến thắng quyền lực của các kẻ hành ác cũng như bênh vực tất cả mọi nạn nhân của những gì là bất chính. Bài ca vịnh cũng cử hành cuộc hôn nhân của Chúa Kitô Con Chiên với Giáo Hội hôn thê của Ngài. Một số vị Giáo Phụ, như Thánh Ephrem, đã áp dụng hình ảnh phu thê này của cuộc hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài vào trường hợp mỗi một linh hồn.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tài liệu từ Vatican Press Office được Zenit phổ biến ngày 10/12/2003)
16/12 Thứ Ba
Phong Trào Nữ Giới…..Làm Sao Có Thể Cứu Vãn Cuộc Khủng Hoảng Phái Tính Này?
Bà Alice Von Hildebrand, ở New Rochelle, New York, phu nhân của triết gia Dietrich Von Hildebrand và là tác giả cuốn “Đặc Ân được Làm Phụ Nữ”, do Sapientia xuất bản, một tác phẩm cho thấy chính bà cũng là một triết gia, bà lấy bằng tiến sĩ triết ở Đại Học Fordham và hiện là giáo sư hưu trí ở Hunter College thuộc Đại Học Thành Phố Nữu Ước. Trong cuộc phỏng vấn với màn điện toán Zenit, bà đã chia sẻ cảm nhận của mình về phong trào nữ giới trong một thế giới đang bị tục hóa này, và cho biết người phụ nữ cần phải được nhắc nhở là việc họ làm trọn vai trò thân mẫu của họ có một giá trị khôn cùng trước nhan Thiên Chúa, tuy nhiên, họ chỉ tìm thấy sức mạnh thiêng liêng nơi những gì nữ giới nhận thấy mình yếu kém, cũng như nơi việc lấy Mẹ Maria làm gương mẫu cho nữ tính của mình.Vấn Động lực nào đã thúc đẩy bà viết cuốn sách này?
Đáp Chất độc của trào lưu tục hóa đã thấm nhập sâu rộng vào xã hội của chúng ta. Việc này đã diễn tiến như thế qua những giai đoạn. Nam nhân là nạn nhân đầu tiên của nó: Họ càng ngày càng tin tưởng rằng để tỏ ra ta đây, họ phải thành đạt trên thế giới. Thành đạt đây có nghĩa là tiền tài, quyền lực, danh vọng, tiếng tăm, sáng tạo, phát minh v.v.
Nhiều người trong họ đã hy sinh gia đình của họ để chiếm đoạt mục đích này: Họ về nhà chỉ để nghỉ ngơi hay vui thú. Việc làm là phần đời quan trọng của họ.
Vô số cuộc hôn nhân đã bị đổ vỡ vì thái độ này. Những người vợ đã có lý khi cảm thấy rằng họ là những gì phụ thuộc, một thứ xả hơi cần thiết. Những người chồng có ít giờ để trao đổi những cử chỉ yêu thương, vì họ quá bận rộn. Con cái rất ít khi thấy được người cha của chúng. Những gì người vợ cảm thấy đau khổ chẳng những có thể thông cảm được mà còn hợp tình hợp lý nữa.
Vấn Tại sao phụ nữ cần phải thâm tín rằng làm phụ nữ là một điều tốt lành?
Đáp Điều là lùng đó là phong trào nữ giới, thay vì làm cho nữ giới hiểu sâu xa hơn về vẻ đẹp cùng phẩm giá của vai trò mình làm vợ và làm mẹ, cũng như về quyền lực linh thiêng họ có thể tác hành trên người chồng của mình, lại làm cho họ tin tưởng rằng cả họ nữa cũng phải chạy theo ý thức hệ của trào lưu tục hóa: Cả họ nữa cũng phải tham gia tìm kế sinh nhai; cả họ nữa cũng phải làm sao chứng tỏ ta đây bằng việc chiếm được những mảnh bằng cấp, tranh đua với nam nhân nơi thị trường công ăn việc làm, chứng tỏ rằng họ cũng đâu thua kém nam nhân và khi có cơ hội còn có thể qua mặt nam nhân nữa là đàng khác.
Họ đi đến chỗ tin tưởng rằng nữ tính đồng nghĩa với yếu kém. Họ bắt đầu khinh thường những nhân đức, như nhẫn nại, vô vị kỷ, hiến thân, dịu dàng, và nhắm đến việc trở nên như nam nhân trong tất cả mọi sự. Một số trong họ thậm chí còn tin tưởng rằng họ cần phải sử dụng những thứ ngôn ngữ thô bạo để chứng tỏ mình là phái “mạnh” chứ không phải là những con phỗng mỏng dòn, mềm mại, ti tiểu như nam nhân vẫn nghĩ về họ.
Chiến tranh phái tính cứ thế tiếp diễn. Những ai rơi vào cái bẫy của trào lưu nữ giới đều muốn trở thành nam nhân trong tất cả mọi sự, và bán đi cái bẩm sinh của mình để đổi lấy một thứ canh hổ lốn. Họ trở thành mù quáng trước sự kiện là con người nam nữ, cho dù có phẩm giá bằng nhau về phương diện bản thể học, cũng vẫn được Thiên Chúa có ý dựng nên khác nhau: Ngài đã dựng nên họ nam nữ. Tương khắc song tương trợ.
Mỗi phái tính có những điểm mạnh của mình; mỗi phái cũng có những điểm yếu của mình. Theo dự án đang chúc tụng của Thiên Chúa, người chồng cần phải giúp cho vợ mình thắng vượt những cái yếu điểm này, để tất cả kho tàng nữ tính của họ được hoàn toàn nẩy nở, ngược lại cũng thế.
Có bao nhiêu nam nhân thực sự trở thành “chính mình” nhờ được vợ yêu thương. Có bao nhiêu người vợ được biến đổi bởi sức mạnh và lòng can đảm của chồng mình.
Thảm trạng của thế giới chúng ta đang sống đây đó là việc chúng ta trở thành những kẻ bội tín. Nhiều người đã loại bỏ những kho tàng được ban cho chúng ta từ mạc khải, từ siêu nhiên.
Nguyên tội thực sự là một cuộc tấn công vào bậc thang giá trị: Con người muốn trở nên như Thiên Chúa mà không cần đến Thiên Chúa. Hình phạt thì kinh hoàng: thân xác của con người nổi lên chống lại linh hồn của họ. Ngày nay, tình trạng lật ngược bậc thang giá trị này đã đi xa đến nỗi bị Peter Singer chối bỏ tính cách chủ trị của con người trên loài thú vật, và đến độ những con cá voi nhỏ được cứu trong khi những con người hài nhi lại bị sát hại.
Tất cả đều bị đảo lộn: các cuộc hôn nhân bị đổ vỡ; nhiều người thậm chí không còn nghĩ đến vấn đề hôn nhân nữa; tình nghĩa chỉ kéo dài bao lâu nó còn thỏa mãn họ. Những thứ liên hệ bất bình thường bị Plato hết sức lên án trở thành thời trang và cho rằng mình có quyền được ngang hàng với những thứ liên hệ do Thiên Chúa ấn định.
Vấn Làm sao sự yếu kém tự bản chất của nữ giới lại có thể được coi như là nguồn sức mạnh?
Đáp Theo quan điểm tự nhiên thì nam nhân mạnh hơn: chẳng những vị họ mạnh hơn về thể lý, mà còn vị họ có óc sáng tạo hơn, có nhiều sáng chế hơn và sản xuất nhiều hơn, hầu hết các tác phẩm về thần học, triết lý và nghệ thuật do nam nhân thực hiện. Họ là những viên kỹ sư giỏi, những kiến trúc sư hay.
Thế nhưng, sứ điệp Kitô giáo là thế này, tất cả mọi sáng chế này có giá trị đến đâu đi nữa, chúng cũng chỉ là tro buị so với mỗi tác động nhân đức. Vì tự bản tính, phụ nữ có mẫu tính, bởi hết mọi người nữ, dù lập gia đình hay không, đều được kêu gọi làm mẹ về sinh lý, tâm lý hay tâm linh, họ trực giác biết rằng việc ban tặng, nuôi dưỡng, chăm sóc cho kẻ khác, chịu đựng với kẻ khác và cho kẻ khác, bởi mẫu tính bao hàm cả chịu đựng, có một giá trị vô cùng trước nhan Thiên Chúa hơn cả việc chiến thắng các quốc gia và việc bay lên cung trăng.
Khi đọc truyện về cuộc sống của Thánh Têrêsa Avila hay Thánh Thérèse of Lisieux, người ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy rằng các vị luôn luôn nói về “nỗi yếu hèn” của mình. Đời sống của những phụ nữ anh hùng này, và nhiều đời sống như vậy, đã dạy cho chúng ta biết rằng việc ý thức và chấp nhận nỗi yếu kém của mình, cộng với lòng tin tưởng vô biên vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, đã ban cho những linh hồn này một thứ sức mạnh rất nhiều vì nó là những gì siêu nhiên.
Sức mạnh tự nhiên không thể nào đấu lại được với sức mạnh siêu nhiên. Đó là lý do tại sao Mẹ Maria, đấng diễm phúc, lại “mãnh liệt như đạo binh sắp hàng vào trận”. Thế nhưng, Mẹ lại được gọi là vị “Trinh Nữ khoan thay, nhân thay, diụ thay”.
Sức mạnh siêu nhiên này cho thấy, như Dom Prosper Gueranger đã đề cập đến trong “Phụng Niên”, là ma quỉ sợ hãi vị trinh nữ khiêm hạ này hơn cả Thiên Chúa, vì sức mạnh siêu nhiên của Mẹ đạp đầu hắn làm hắn nhục nhã hơn bởi sức mạnh của Thiên Chúa.
Đó là lý do tại sao Tên Gian Ác ngày nay đang thực hiện cuộc tấn công tàn hại nhất tấn công nữ tính chưa từng xẩy ra trong lịch sử thế giới. Vì càng gần đến ngày cùng tháng tận, và biết rằng cuộc thảm bại cuối cùng của mình sắp đến, hắn tắng gấp đôi nỗ lực để tấn công đại thù duy nhất của hắn là người nữ. Sáng Khởi Nguyên có câu: “Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người nữ”. Chiến thắng cuối cùng sẽ lọt vào tay người nữ này, như được thấy nơi người nữ rực rỡ mặt trời.
Vấn Tại sao bà nghĩ rằng phụ nữ có một quyền lực về luân lý?
Đáp Sứ vụ của phụ nữ ngày nay có một tầm vóc hết sức quan trọng. Ở một nghĩa nào đó, họ nắm trong tay chiếc chìa khóa sống lành mạnh, bước đầu tiên để tiến tới chỗ hoán cải. Vì siêu nhiên dựa trên tự nhiên, và trừ phi chúng ta trở về với tình trạng lành mạnh tự nhiên, bằng không tính cách cao quí của sứ điệp siêu nhiên sẽ không còn tác dụng gì nữa đối với hầu hết chúng ta.
Tại sao phụ nữ lại nắm được chiếc chìa khóa sống lành mạnh này? Vì việc họ chi phối nam nhân rất là nhiều khi họ thực sự hiểu được vai trò và sứ vụ của họ. Tôi không ngừng nghe thấy những vị linh mục thú nhận rằng các vị được ơn kêu gọi là nhờ bà của các vị hay mẹ của các vị.
Thánh Monica, trong việc hợp tác với Thiên Chúa, đã mang về cho Thiên Chúa đứa con hoang đàng của mình. Mẹ của Thánh Bênađô, mẹ của Thánh Phanxicô Salêsiô (người mẹ chỉ lớn hơn con có 15 tuổi), và mẹ của Thánh Don Bosco là những yếu tố chính yếu trên con đường thiêng liêng nên thánh của các vị.
Vấn Mẹ Maria là mô phạm của nữ tính như thế nào?
Đáp Giới phụ nữ nắm trong tay chiếc chìa khóa này là vì họ là những bảo quản viên đức tinh tuyền. Điều này đã rõ ràng hiện lộ nơi cấu trúc của thân thể họ, một cấu trúc tinh tuyền che giấu những bộ phận kín đáo của họ. Vì những bộ phận của họ được “che kín”, nói lên tính cách mầu nhiệm và thánh hảo của mình, người phụ nữ được một đặc ân hết sức lớn lao trong việc được cùng phái tính với vị diễm phúc, đó là Mẹ Maria, vị thánh hảo nhất trong tất cả mọi thụ tạo.
Trào lưu phụ nữ được bắt đầu từ các quốc gia Tin Lành, vì lý do rõ ràng đó là họ đã quay lưng lại với Mẹ của Chúa Kitô, như thể Đấng Cứu Thế cảm thấy bị hụt hẫng trong việc được tôn kính hướng về người Mẹ dấu yêu của Người vậy.
Mẹ Maria, vị đã được ám chỉ đến một cách hiển vinh trong Sách Khải Huyền, là mô phạm của nữ giới. Chính việc hướng về Mẹ, cầu nguyện với Mẹ và chiêm ngắm các nhân đức của Mẹ mà phụ nữ mới tìm lại được con đường trở về với vẻ đẹp cũng như với phẩm vị sứ vụ của mình.
Vấn Việc viết cuốn sách này đã giúp cho bà tăng thêm cảm thức biết ơn vì bà được làm phụ nữ ra sao?
Đáp Việc viết cuốn sách này đã là một đặc ân. Nó cho tôi có một cơ hội đặc biệt để suy niệm về sự cao cả nơi sứ vụ của nữ giới, theo gương Đức Trinh Nữ Maria.
Mẹ Maria dạy cho chúng ta hai qui tắc dẫn đến sự thánh thiện: Thứ nhất đó là: “Tôi là nữ tỳ Chúa. Tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. Qui tắn này cho thấy rằng sứ vụ của phụ nữ là làm sao để mình được phong phú bởi ân sủng, bởi việc lãnh nhận cách thánh hảo. Thứ hai là: “Hãy làm những gì Người bảo”.
Đó là chương trình thánh hảo Giáo Hội cống hiến cho chúng ta. Chắc chắn là nếu nữ giới hiểu được sứ điệp này, thì đời sống hôn nhân, gia đình và Giáo Hội sẽ thắng vượt cuộc khủng hoảng kinh hoàng đang ảnh hưởng đến chúng ta đây. Vì phụng vụ đã nói: “Thiên Chúa đã đặt ơn cứu độ trong tay một người phụ nữ”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của màn điện toán Zenit được phổ biến ngày 26/11/2003.
15/12 Thứ Hai
Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật III Mùa Vọng về việc đồng hành giữa Niềm Vui và Đau Khổ
1. “Hãy luôn hân hoan trong Chúa… Chúa đã đến nơi rồi” (Phil 4:4-5)
Bằng những lời này của Thánh Phaolô, phụng vụ mời gọi chúng ta hãy vui mừng. Đây là tuần thứ ba Mùa Vọng, được gọi xác đáng là Chúa Nhật “vui mừng”. Những lời ấy là những lời được Tôi Tớ Chúa là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI muốn đặt tên cho tông huấn đáng nhớ của ngài vào năm 1975 về niềm vui Kitô giáo, “Gaudete in Domino!”
2. Mùa Vọng là một mùa vui mừng, vì nó làm cho chúng ta tái sống lại niềm mong đợi của một biến cố hạnh phúc nhất trong lịch sử, đó là việc hạ sinh của Con Thiên Chúa bởi Trinh Nữ Maria.
Biết rằng Thiên Chúa không xa nhưng gần, không dửng dưng nhưng cảm thương, không phải là một kẻ lạ mặt mà là một Người Cha thương xót, Đấng ưu ái theo dõi chúng ta mà vẫn tôn trọng tự do của chúng ta, tất cả những điều ấy thật là lý do để vui mừng, một nỗi vui mừng không một biến cố khác nào hằng ngày có thể chi phối.
3. Đặc tính bất khả lầm lẫn của niềm vui Kitô giáo đó là nó có thể đồng hành với đau khổ, vì nó hoàn toàn phát xuất từ tình yêu. Thật vậy, Chúa là Đấng “gần đến”, cho đến độ trở thành con người, đến để thông truyền cho chúng ta niềm vui của Ngài, niềm vui yêu thương. Chỉ có như thế người ta mới hiểu được niềm vui trầm lặng của các vị tử đạo ngay cả giữa những cơn thử thách, hay mới hiểu được nụ cười của các vị thánh trước những ai đang gặp khổ đau, một nụ cười không xúc phạm mà là ủi an.
“Hãy vui lên. Hỡi đầy ơn phúc, Chúa ở cùng trinh nữ!” (Lk 1:28). Việc truyền tin của Thiên Thần cho Mẹ Maria là một lời mời gọi hãy vui mụng. Chúng ta hãy xin Đức Trinh Nữ về tặng ân niềm vui Kitô giáo.
Chúc tất cả mọi người hưởng mùa Giáng Sinh hân hoan!
Liên Hiệp Quốc mừng kỷ niệm Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền năm thứ 55 (10/12).
Thứ Tư 10/12/2003, ngày đúng 55 năm về trước, Liên Hiệp Quốc đã công bố Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Quát. ĐTGM Celestino Migliore, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc đã nói trước phiên họp 58 của Tổng Hội Nghị về Mục Chương Trình 48: Mừng Kỷ Niệm Năm 55 Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Quát.
Vị quan sát viên thường trực này bày tỏ việc Tòa Thánh lấy làm vui mừng tham dự vào biến cố mừng kỷ niệm 55 năm liên quan đến “biến cố ngoại lệ trong việc bảo vệ các thứ quyền lợi của con người là những gì được căn cứ vào các truyền thống trọng đại nhất của jus gentium (Luật Lệ của Các Quốc Gia), một thứ luật lệ được đặt căn bản trên giá trị luân lý khách quan như lý trí lành mạnh nhận thức”. Vị quan sát viên này còn phân tích là các thứ nhân quyền “không phải là cái gì do Quốc Gia tạo nên mà là bắt nguồn từ tính chất và bản tính của chính nhân tính … Trong việc xác định một số quyền lợi căn bản phổ quát cho hết mọi phần từ của gia đình nhân loại, Bản Tuyên Ngôn đã thực sự đóng góp vào việc phát triển luật lệ quốc tế. Ngoài ra, nó cũng giải quyết những thách đố của những thứ luật lệ nhân bản chối bỏ con người nam nữ phẩm giá họ có quyền hưởng vì thân phận làm người của họ. Tiếc thay, những quyền lợi căn bản, đã được công bố, thành văn và cử hành trong Bản Tuyên Ngôn Chung, vẫn còn là đối tượng của những vi phạm trầm trọng và liên tục”.
ĐTGM quan sát viên của Tòa Thánh tiếp tục bày tỏ các nhận định của mình như sau: “những thách đố cho việc áp dụng thi hành các thứ quyền lợi của con người”, bao gồm “khuynh hướng của một số người chỉ muốn các thứ quyền lợi phục vụ cho bản thân mình mà thôi. Ở một số trường hợp, những gì bất khả tách rời với một số con người đồng thời lại bị chối bỏ đối với những người khác. Trường hợp điển hình là việc chối bỏ một thứ quyền lợi căn bản nhất, đó là chính quyền sống, một thứ quyền là nguồn gốc phát xuất của tất cả mọi thứ quyền khác theo tự nhiên cũng như luận lý”. Có những thứ đe dọa “từ khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa thái quá thường đưa đến tình trạng mạnh được yếu thua”.
“Thế giới chúng ta đang sống hôm nay đây hiện hữu dưới các thứ bóng chiến tranh, khủng bố và các thứ đe dọa khác đối với tình trạng sống còn của con người cũng như đối với phẩm vị bẩm sinh của con người. Căn gốc của nhiều mối đe dọa là ở chỗ chối bỏ một số quyền lợi phổ quát. Thảm thương thay, chính con người lại là những kẻ làm lan tỏa những thứ bóng tối tăm này. Tuy nhiên, chúng ta cũng được ban cho một đức khôn ngoan để sử dụng ánh sáng của lý trí lành mạnh hầu đánh tan chúng đi”.
Để kết luận, ĐTGM nói: “Chúng ta vẫn còn cần phải đặt vấn đề là những gì đã từng xẩy ra cho quyền lợi của mọi người ‘thuộc lãnh vực xã hội và quốc tế là những lãnh vực các thứ quyền lợi và quyền tự do được phác họa trong Bản Tuyên Ngôn này có thể hoàn toàn được hiện thực’ (khoản 28)”? Phẩm giá con người, quyền tự do và niềm hạnh phúc được Bản Tuyên Ngôn này nhìn nhận sẽ không hoàn toàn được hiện thực mà lại thiếu tình đoàn kết giữa tất cả mọi dân nước. Được tác động bởi gương sáng của tất cả những ai hình thành Bản Tuyên Ngôn này, thành phần dấn thân trước thách đố của tự do, chẳng lẽ chúng ta lại không thể tái dấn thân trước thách đố của tính đoàn kết – cũng là thách đố của hòa bình hay sao?”
Hãy Vui Lên: vì Chúa sắp đến hay vì bắt được một tên Đại Ma Đầu Sađam Hussein?Chính vào Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng, 14/12/2003, Chúa Nhật “Hãy Vui Lên” theo tinh thần của phụng vụ Mùa Vọng Công Giáo, lực lượng liên minh đã bắt được cựu tổng thống Sađam Hussein sau 9 tháng lùng bắt, tại một nơi trú ẩn rất kín đáo và vô cùng khổ cực, chẳng khác gì một ổ chuột. Thế nhưng, vấn đề ở đây là thái độ mừng của Kitô hữu Công Giáo chúng ta? Chúng ta mừng vì con người nguy hiểm đáng ghét này bị bắt hay mừng vì sự dữ ông gây ra trước đây (nếu có) bị ngăn chặn hay trừng trị? Chúng ta được quyền mừng vì sự dữ được trả lẽ những chúng ta cần phải thương một con người, vì Thiên Chúa Giáng Sinh là để đi tìm kiếm từng con chiên lạc, trong đó, có cựu tổng thống Sađam Hussein, người đã bị nhân dân Iraq và quốc tế, nhất là lực lượng đồng minh cho là một tay độc tài hết sức nguy hiểm.
14/12 Chúa Nhật III Mùa Vọng Năm C
Tiếng Kêu Sa Mạc – Lương Tâm Con Người
Tiếng Kêu Sa Mạc: Sứ Điệp Lương Tâm
Trong 4 tuần lễ Mùa Vọng, bất kỳ thuộc chu kỳ Phụng Vụ A, B hay C, tuần đầu tiên bao giờ cũng là bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn để nhắc nhở con cái mình hãy tỉnh thức đón chờ Chúa Kitô tới, tuần cuối cùng bao giờ cũng là bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến biến cố Giáng Sinh của Chúa Kitô, và hai tuần giữa liên quan đến vai trò Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong việc dọn đường cho Người đến.
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Vọng tuần trước, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả dựa vào lời của tiên tri Isaia kêu gọi một cách tổng quát và bóng bẩy là “hãy sưœa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ cuœa Thiên Chúa”.
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng tuần này, vị tiền hô đã áp dụng những gì ngài đã kêu gọi tgrước đó vào từng trường hợp của các giới người trong xã hội Do Thái bấy giờ, điển hình là quần chúng nói chung, cách riêng thành phần thu thuế và binh lính là hai loại người đặc biệt theo đuổi một cái nghề có vẻ ngang trái trong xã hội Do Thái thời bấy giờ đang bị Đế Quốc Rôma đô hộ.
Đối với chung dân chúng, Tiền Hô Gioan bảo họ phải chia cơm sẻ áo cho nhau, tức là đừng vị kỷ, chẳng khác gì ngài khuyên họ hãy lấp đầy hố sâu tham lam và san bằng đồi núi huyênh hoang tự cao tự đại về những gì mình có hơn người đến khinh người nghèo và xa lánh người nghèo, như trường hợp của nhà phú hộ đối xử với Lazarô (x Lk 16:19-21).
Đối với thành phần thu thuế, ngài bảo họ đừng gian lận, tức sống một cách ngay thẳng liêm chính, và đối với thành phần binh lính, ngài bảo họ “đừng ức hiếp, đừng cáo gian”, tức hãy sống đúng với sứ mệnh của mình là bảo vệ và bênh vực dân chúng. Tức là, đối với hai thành phần tiêu biểu này, ngài khuyên họ hãy uốn thẳng những hành vi quanh co bất chính của mình (thu thuế), và hãy san bằng những cử chỉ gồ ghề hiếp đáp tác hại của mình (binh lính).
Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Ba tuần này, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chẳng những áp dụng lời kêu gọi dọn đường lối cho ngay thẳng mà còn nói đến chính Đấng cần phải được dọn đường cho Người đến này, Đấng cao trọng hơn thánh nhân muôn ngàn lần và là Đấng sẽ làm phép rửa bằng chính Thánh Linh và bằng lửa thiêu đốt nội tâm con người chứ không phải bằng nước ở ngoài thân xác của con người như thánh nhân bấy giờ đang làm. Trường hợp của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy thánh nhân chẳng những đã sống đúng và trọn những gì thánh nhân kêu gọi dân Do Thái thực hiện trong việc việc dọn đường cho Đấng cao trọng đến sau thánh nhân, bằng một đời sống khổ hạnh không tham lam và bằng một tinh thần khiêm hạ không tự phụ tự cao, cho mình không đáng cởi giây giầy cho Đấng đến sau, mà còn có một Cảm Nghiệm Thần Linh sâu xa, một cảm nghiệm thần linh hoàn toàn phản ảnh sự thật là Chúa Kitô, cho đến khi thánh nhân được đối diện với chính Sự Thật cả trước lẫn sau khi làm phép rửa cho Đấng đến sau mình, và truyền đạt sự thật ấy cho các môn đệ của thánh nhân.
Thật vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta đã ý thức được rằng, đối với Kitô hữu chúng ta, Chúa Kitô đã thực sự đến rồi, hai ngàn năm trước đây, và việc Kitô hữu chúng ta cử hành Mùa Vọng là việc chúng ta làm sao để mình có thể thực sự Cảm Nghiệm Thần Linh, cảm nghiệm được Vị Thiên Chúa Làm Người đang ở với chung Nhiệm Thể Giáo Hội cũng như riêng mỗi người chúng ta là chi thể của Giáo Hội cho đến tận thế. Bằng không, như Thánh Gioan Tiền Hô đã nói với dân Do Thái là thành phần cũng trông đợi Vị Cứu Tinh của họ đến, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26 là: “có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”. Đó là lý do tại sao, để nhận ra hay cảm nghiệm được Đấng Thiên Sai đã đến với loài người chúng ta và đang ở cùng Kitô hữu chúng ta, Lời Chúa trong bài Phúc Âm Thánh Luca của Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm C vừa rồi đã kêu gọi chúng ta là "hãy thẳng đứng và ngước cao, vì ơn cứu độ gần đến", Phúc Âm Thánh Luca của Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Vọng cũng đã lập lại lời của tiên tri Isaia được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả lập lại là "Hãy dọn đường ngay thẳng cho Chúa... thì tất cả loài người sẽ được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa'", và Phúc Âm Thánh Luca của Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng tuần này còn thuật lại lời của Vị Tiền Hô chỉ vẽ cho từng thành phần trong xã hội đến hỏi ngài "chúng tôi phải làm gì?", về cách thức cụ thể để dọn đường nghênh đón "Đấng phải đến mãnh lực hơn tôi. Tôi không đáng cởi giây giầy cho Người".
Gioan Tiền Hô: Vai Trò Lương Tâm
Những lời của Thánh Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến mối liên hệ giữa thánh nhân và Chúa Kitô, tự nhiên làm cho chúng ta thấy vai trò của thánh nhân chẳng khác nào như vai trò của lương tâm con người đối với Mạc Khải Thần Linh vậy. Theo tôi, "tiếng kêu trong sa mạc", như tiên tri Isaia trong Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Vọng báo trước về Thánh Gioan Tiền Hô, chính là tiếng lương tâm hướng con người về Chân Thiện Mỹ cho đến khi con người được thấy ơn cứu độ. Thật ra cả chính tiếng kêu trong sa mạc và nội dung của tiếng kêu này đều liên quan đến lương tâm con người. “Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng” đây là gì, nếu không phải là hãy sống theo lương tâm chân chính, hãy tìm kiếm chân lý, vì “ai tìm kiếm chân lý thì nghe thấy tiếng của Tôi” (Jn 18:37), hay nhận ra Chúa Kitô, gặp được Chúa Kitô. Mà Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, kể từ khi được Thai Nhi Giêsu thanh tẩy bằng Thánh Linh trong lòng mẹ khi vừa được sáu tháng, chưa hề thấy Đấng đến sau, lại là con người đầu tiên nhận ra Người khi Người bắt đầu xuất đầu lộ diện, và loan báo cho dân chúng biết mà nhận ra Người và nghênh đón Người cho xứng đáng, thì thánh nhân, như đã tự nhận, là chính “tiếng kêu trong sa mạc”, là tiếng nói của Lời Chúa, là lương tâm (tiếng nói của Thiên Chúa) nơi con người hay sao? Thật thế, nếu lương tâm chân chính nơi con người có bản chất, quyền thế, vai trò và khả năng đối với con người thế nào, thì các Phúc Âm cũng cho chúng ta thấy nơi Thánh Gioan Tiền Hô hội đủ tất cả những yếu tố này của lương tâm chân chính, ít là năm yếu tố hay năm tính chất tiêu biểu sau đây:
Tính chất thứ nhất, như lương tâm chân chính có uy tín và khả năng bảo con người phải làm lành lánh dữ thế nào, thì Thánh Gioan Tiền Hô, như trong bài Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 3 từ câu 10 đến hết câu 14 hôm nay cho thấy, cũng đóng vai trò chỉ vẽ cho các thành phần dân Do Thái phải làm gì;
Tính chất thứ hai, như lương tâm chân chính có quyền khiển trách con người thế nào, Thánh Gioan Tiền Hô cũng vậy, như trong cùng đoạn Phúc Âm Thánh Luca trên, từ câu 7 đến câu 10 hay trong Phúc Âm Mathêu đoạn 3, từ câu 7 đến 12 cho thấy, thánh nhân đã khiển trách và cảnh cáo dân Do Thái như thế;
Tính chất thứ ba, như lương tâm chân chính, nhờ khả năng dạy dỗ, sẽ làm cho lòng người thiện chí nên tinh tuyền thế nào, cũng thế, Thánh Gioan Tiền Hô, sau khi giảng dạy ngài cũng đã làm phép rửa thống hối cho con người, như lời thánh nhân xác nhận trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 1 câu 31 như sau: "Tôi đến làm phép rửa bằng nước để Người (Người ở đây là Đấng Thiên Sai) có thể tỏ mình ra cho dân Israel";
Tính chất thứ bốn, như lương tâm chân chính chẳng những tự mình là tiếng vang vọng của chân lý mà còn hướng con người về chân lý thế nào, cũng thế, Thánh Gioan Tiền Hô có khả năng chẳng những nhận biết Chúa Kitô "là chân lý" (Jn 14:6) mà còn chỉ cho con người thấy Người nữa, như chính miệng thánh nhân xác nhận trong Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn 1, từ câu 29 đến 34: "Tôi đã không biết Người... Giờ đây chính tôi đã thấy và làm chứng, 'Đây là Đấng Thiên Chúa Tuyển Chọn'";
Tính chất thứ năm, như lương tâm chân chính là tiếng nói của chân lý thường bị con người lấn át và triệt hạ thế nào, Thánh Gioan Tiền Hô cũng là một con người chính trực và bất khuất trước những gì bất chính, đến nỗi đã bị con người sát hại, như trường hợp của quận vương Hêrôđê trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 14, từ câu 1 đến 12 cho thấy.
Theo tôi, đó là lý do cho thấy, như lương tâm chân chính tự bản chất là thực tại cao trọng nhất nơi con người, hơn cả linh hồn thiêng liêng bất tử của con người thế nào về bản chất tự nhiên, cũng thế, như Chúa Giêsu khẳng định trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 7 câu 28, Thánh Gioan Tẩy Giả là con người cao trọng nhất trong loài người như vậy; thế nhưng, dù sao, so với Ơn Thánh, với Đức Tin Cứu Rỗi là thực tại đến sau nhưng cao trọng hơn, mãnh liệt hơn, thì lương tâm thực sự chẳng khác gì như đèn soi trước ánh sáng (xem Jn 5:35, 1:8), hay hoàn toàn không đáng cúi xuống cởi giây giầy mà thôi, như chính lời thánh nhân thú nhận trong bài Phúc Âm Thánh Luca đoạn 3 câu 16 hôm nay, hay như lời thánh nhân tuyên ngôn trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 3 câu 30 thế này: "Người phải lớn lên còn tôi phải giảm xuống".
Đó cũng là lý do cho thấy con người phải làm người trước, tức phải sống theo lương tâm chân chính trước rồi mới làm thánh được, vẫn biết Chúa có thể làm cho con người nên thánh bất cứ lúc nào. Đó còn là lý do cho thấy, nếu con người có lương tâm chân chính hay nghe theo tiếng lương tâm chân chính chỉ dẫn, như hai vị môn đệ của Thánh Gioan nghe lời của thánh nhân mà đi theo Chúa Kitô, thì thế nào họ cũng gặp được Chúa Kitô: "Chúng tôi đã thấy Đức Kitô", lời họ thú nhận trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 41, hợp với lời Chúa Kitô cũng đã khẳng định với Philatô trong Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn 18, câu 37: "Ai tìm kiếm chân lý thì nghe thấy tiếng của Tôi".
Vậy, nếu Thánh Gioan Tiền Hô đóng vai trò của lương tâm đối với dân Do Thái đã chỉ cho họ biết cách nhận ra Đấng ở giữa họ mà họ không biết thế nào, thì để áp dụng bài Phúc Âm hôm nay, mỗi người trong chúng ta cũng có thể bắt chước các thành phần dân Do Thái đã đến chất vấn Vị Tiền Hô của Chúa Kitô "chúng tôi phải làm gì", để xem tiếng kêu trong sa mạc nơi chúng ta là chính lương tâm của chúng ta bảo chúng ta biết chúng ta phải làm sao để có thể cảm nghiệm được Vị Thiên Chúa Làm Người đã thực sự đến với loài người chúng ta và đang ở với Kitô hữu chúng ta cho đến tận thế. Vì Mùa Vọng là thời điểm, đối với Kitô hữu, Ơn Cứu Độ gần hơn là lúc mới chấp nhận đức tin, tức là thời điểm Kitô hữu cần phải làm sao thực sự cảm nghiệm được Thiên Chúa làm người và ở với chúng ta.
Lời Nhập Thể: Tất Cả Sự Thật
Tuy nhiên, Mùa Vọng chẳng những là thời điểm Giáo Hội hướng về Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà còn là thời điểm rất thích hợp để Kitô hữu chúng ta trở về nguồn nữa, tức trở về với Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa, để có thể cảm nhận được "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn 4:24) đã thực sự tỏ mình ra cho loài người chúng ta, cho đến khi “Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), nhờ đó chúng ta mới chẳng những “được sự sống", mà còn là "một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10).
Chủ yếu hay cốt lõi của Lịch Sử Cứu Độ đồng thời cũng là nguồn gốc hay khởi diểm của Lịch Sử Cứu Độ chính là Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa, mà Dự Án Cứu Độ của "Thiên Chúa", như Thánh Phaolô xác định trong Thư Thứ Nhất gửi môn đệ Timôthêu, đoạn 2, câu 4: "là muốn mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ", do đó, chủ yếu của Lịch Sử Cứu Độ cũng là “tất cả sự thật” (Jn 16:13) Thiên Chúa muốn mạc khải, muốn truyền đạt cho loài người, để nhờ nhận biết bằng đức tin, họ được thông phần Sự Sống Thần Linh. Như thế, diễn tiến của Lịch Sử Cứu Độ chính là việc Thiên Chúa muốn tỏ mình và thông mình ra cho loài người, tức là việc Mạc Khải Thần Linh. Bởi thế, chúng ta thấy toàn bộ Thánh Kinh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, cả hai đều chỉ là chứng từ ghi nhận và lưu truyền lại tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ mình, muốn mạc khải cho loài người biết, để họ tin mà được sống, đúng như Thánh Ký Gioan viết vào đoạn kết Phúc Âm của mình ở đoạn 20, câu 31 như sau: "Những điều này được ghi chép để giúp anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, để nhờ đức tin này anh em được sự sống nhờ danh Người".
Trước hết, trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã tìm cách từ từ tỏ mình ra cho Dân Do Thái biết Ngài thực sự là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài Ngài không có một Chúa nào khác. Để làm việc này, đầu tiên Thiên Chúa đã tự chọn cho mình một dân tộc, đó là Dân Do Thái; sau đó Ngài đã tự hứa hẹn với tổ phụ cha ông họ là Abraham, Isaac và Giacóp; và sau hết Ngài đã tỏ ra tuyệt đối trung thành thực hiện lời hứa của Ngài nơi con cháu của các vị tổ phụ ấy, bất chấp những bất trung của đám con cháu này, để họ có thể mở mắt ra nhận biết Ngài thực sự là Hiện Hữu, đúng như Danh xưng Ngài tỏ cho Moisen ở bụi gai cháy sáng mà không bị thiêu rụi (x Ex 3:14), tức Ngài thực sự là Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài Ngài không có Chúa nào khác.
Việc Thiên Chúa mạc khải đã lên đến tuyệt đỉnh, lên đến hết cỡ, trong “thời sau hết” (Heb 1:2) mở màn cho thời Tân Ước, khi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Jn 1:14), tức nơi chính Đấng Thiên Sai của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Ngài đã hứa ban ngay trong bản án nguyên tội (xem Gen 3:15), cũng là Đấng Ngài đã hứa hẹn xa xa với tổ phụ Abraham (xem Gen 22:18) cũng như với Đavít (xem 2Sam 7:16). Đó là lý do tại sao khi kể đến gia phả của Chúa Kitô, Thánh Ký Luca đã chẳng những liệt kê Đavít và Abraham thuộc huyết tộc Do Thái mà còn cả Adong là nguyên tổ cả loài người nữa. Phần Đấng Thiên Sai, Người đến "để tỏ Cha ra", như Phúc Âm Thánh Gioan minh định ở đoạn 1 câu 18, và như chính lời của Chúa Kitô cho thấy khi nguyện cùng Cha trong Bữa Tiệc Ly ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 17, câu 6: "Con đã tỏ danh Cha cho những kẻ Cha trao cho Con nơi thế gian". Đấng Thiên Sai "đã được sinh ra, đã đến trong thế gian", như Người tuyên bố với tổng trấn Philatô trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 18, câu 37, "là để làm chứng cho sự thật", một sự thật bao gồm hai khía cạnh, khía cạnh Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất, như Mạc Khải Cựu Ước cho thấy, và khía cạnh Người chính là Đấng Thiên Sai, như Mạc Khải Tân Ước chứng thực, một sự thật mà ai nhận biết thì được sự sống đời đời.
Tóm lại, tất cả diễn tiến của Lịch Sử Cứu Độ hay của Công Cuộc Cứu Độ là việc Thiên Chúa chẳng những tỏ mình cho con người biết Ngài là Thiên Chúa chân thật duy nhất qua Mạc Khải Cựu Ước, mà còn thông mình cho con người nơi Đấng Thiên Sai của Ngài là Chúa Giêsu Kitô nơi Mạc Khải Tân Ước, để con người được hiệp thông với Ngài trong Thần Linh là Đấng được ban cho chúng ta (x Rm 5:4), Đấng ở trong chúng ta (xem Rm 8:11), Đấng ban Sự Sống, bằng cách dẫn chúng ta "vào tất cả sự thật" (Jn 16:13), tức giúp chúng ta thấu triệt được Mạc Khải Thần Linh, thấu triệt được chính Thiên Chúa, Vị “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) “đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Ý Thức Phép Rửa
Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria bao giờ cũng được Giáo Hội kính vào đầu Mùa Vọng, và sứ mệnh của Chúa Kitô đến để tái sinh con người từ trên cao bằng phép rửa trong Thánh Linh và bằng lửa như được Tiền Hô Gioan tẩy Giả khẳng định trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, cho chúng ta nhớ đến đặc ân làm cho Kitô hữu chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa qua Bí Tích Rửa Tội. Vậy chúng ta hãy lợi dụng dịp này để ôn lại Bí Tích Rửa Tội rất cao quí và thiết yếu của chúng ta, ở 4 vấn đề sau đây: 1) Làm sao chúng ta biết là mình mắc nguyên tội? 2) Nếu chúng ta thực sự mắc nguyên tội thì nguyên tội đã được truyền sang cho chúng ta như thế nào hay bằng cách nào? 3) Tại sao chúng ta cần phải rửa tội ngay từ khi còn nhỏ mà không đợi lớn lên có ý thức rồi mới lãnh nhận? 4) Làm sao để có thể làm cho hạt giống đức tin được gieo vào tâm hồn qua Bí Tích Rửa Tội phát triển?
1. Làm sao chúng ta biết là mình mắc nguyên tội?
Phải, theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, nguyên tổ của loài người đã phạm tội, và tội đầu tiên được gọi là nguyên tội này đã được truyền sang cho giòng dõi của các vị, làm cho con cháu không phạm mà lại mắc. Trong cả loài người, kể cả vị đệ nhất tiên tri cao trọng nhất loài người là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, chỉ có một mình người nữ được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Lời Nhập Thể là không mắc nguyên tội, tức được Thiên Chúa gìn giữ cho khỏi những hậu quả của tội này, bằng cách Ngài đã cho Mẹ được hưởng trước ơn cứu độ của Chúa Kitô. Thế nhưng, làm sao loài người chúng ta biết được mình mắc nguyên tội để cần phải lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội?
Áp dụng định luật xem quả biết cây chúng ta sẽ thấy rõ chúng ta quả thực mắc nguyên tội. Nếu những triệu chứng ho, sổ mũi, rát cổ là dấu cho thấy chúng ta bị cúm, thì những triệu chứng tội lỗi, đau khổ và chết chóc nơi con người cũng cho thấy họ thực sự mắc nguyên tội. Đúng thế, theo Thánh Kinh, ngay từ ban đầu, con người sống trong tình trạng công chính nguyên thủy, không hề biết đến tội lỗi là gì, trần truồng không biết xấu hổ, (không có đam mê nhục dục, tính mê nết xấu), nhờ đó con người của họ nói chung và thân xác của họ nói riêng không phải trải qua tình trạng đau khổ, (như tâm hồn cảm thấy lo âu sợ hãi, buồn phiền chán nản, hay thân xác của họ phải chịu đủ mọi thứ tật nguyền, bệnh hoạn, già nua), và cuối cùng chết đi, trở về với bụi tro. Vậy nếu không một con người nào thoát khỏi tội lỗi, khổ đau và tội lỗi thì không phải là họ mắc nguyên tội rồi hay sao?
Trường hợp Chúa Giêsu và Mẹ Maria cũng chịu đau khổ như ai, mà còn chịu khổ đau chưa từng có, chịu khổ đau hơn hết loài người, thì không phải là vì các Ngài cũng mắc nguyên tội, song là để cứu độ loài người, để giải phóng loài người khỏi tội lỗi và sự chết, bởi đó Chúa Giêsu mới sống lại để chiến thắng sự chết là hậu quả của tội lỗi.
2. Nếu chúng ta thực sự mắc nguyên tội thì nguyên tội đã được truyền sang cho chúng ta như thế nào hay bằng cách nào?
Vấn đề được đặt ra ở đây là nếu hai nguyên tổ phạm tội thì tội ấy chỉ có ở nơi hai vị thôi, tại sao lại có thể lây nhiễm sang cho giòng dõi con cháu của các vị được? Tuy nhiên, nếu nguyên tội làm hư hoại cả bản tính của con người, làm cho cả hồn lẫn xác của họ phải chịu hậu quả của nguyên tội, như những triệu chứng con người phải chịu đã được đề cập đến ở vấn đề thứ nhất, thì hai nguyên tổ đã bị hư đi theo nguyên tội không thể nào sinh ra được những hoa trái còn sống trong tình trạng công chính nguyên thủy như khi các vị mới được Thiên Chúa dựng nên. Và cũng chính vì toàn thể bản tính của con người đã bị hư đi, mà bất cứ con người nào được sinh vào trần gian này đều bị mắc nguyên tội. Vậy nguyên tội được truyền sang cho con người qua việc truyền sinh.
3. Tại sao chúng ta cần phải rửa tội ngay từ khi còn nhỏ mà không đợi lớn lên có ý thức rồi mới lãnh nhận?
Chính vì được sinh ra với một bản tính hư hoại mà con người cần phải được cứu độ và thánh hóa ngay từ khi còn sơ sinh, còn thơ bé. Vẫn biết ý thức là cần thiết trong việc đóng vai trò làm con cái Thiên Chúa cả trước khi lẫn sau khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, nhưng không phải vì thế mà con người không thể trở nên con cái Thiên Chúa và không đáng có sự sống đời đời. Một thai nhi đang được cưu mang hay một hài nhi vừa được sinh ra, dù chưa biết cha mẹ mình là ai, nó vẫn là con cái của những người sinh ra nó. Không phải bao giờ con người bắt đầu có trí khôn hay đã trưởng thành rồi họ mới được sinh vào đời, họ mới là con, mới có sự sống. Nếu tự nhiên, con người phải có sự sống rồi mới có khả năng ý thức ra sao, về siêu nhiên, con người cũng cần phải được tái sinh bởi phép rửa rồi mới có thể nhận biết Thiên Chúa như vậy.
4. Làm sao để có thể làm cho hạt giống đức tin được gieo vào tâm hồn qua Bí Tích Rửa Tội phát triển?
Bí Tích Rửa Tội có một tác dụng thần linh lưỡng diện, tha tội và thánh hóa. Về tác dụng tha tội, Bí Tích Rửa Tội tha cho con người chẳng những nguyên tội, mà còn cả tư tội nếu con người được rửa tội sau khi đã có trí khôn, đã biết phạm tội. Về tác dụng thánh hóa, Bí Tích Rửa Tội ban cho con người Thánh Sủng để họ được thông phần vào Bản Tính Thần Linh của Thiên Chúa, nhờ đó họ được trở nên con cái của Chúa Cha, nên chi thể của Chúa Kitô và nên đền thờ của Chúa Thánh Thần, và cũng nhờ đó họ có khả năng sống Sự Sống Thần Linh của Chúa Ba Ngôi, bằng ba thần đức Tin Cậy Mến.
Tuy nhiên, dù Phép Rửa có tác dụng chẳng những tha đủ mọi thứ tội lỗi mà còn tha cả hình phạt là hậu quả của tội lỗi nữa. Bởi thế, bất cứ người lớn nào chết đi ngay sau khi vừa được rửa tội xong sẽ được lên Thiên Đàng lập tức, không phải qua lửa luyện tội. Thế nhưng, Phép Rửa vẫn không thể làm được một điều, đó là không tẩy xóa được những hậu quả của tội lỗi ngay ở đời này. Đó là lý do sau khi lãnh nhận Phép Rửa, con người Kitô hữu vẫn còn mang nặng mọi đam mê nhục dục, vẫn còn đủ mọi thứ tính mê nết xấu, vẫn phải trải qua đủ mọi thứ đau khổ cả hồn lẫn xác, và vẫn phải chết như bất cứ người ngoại giáo hay vô thần nào. Do đó, không lạ gì thực tế đã không ngừng cho thấy Kitô hữu nói chung và thành phần giáo sĩ nói riêng vẫn có thể làm gương mù gương xấu trước mắt thế gian.
Thánh Sủng con người lãnh nhận qua Phép Rửa chẳng khác gì như Hạt Giống Thần Linh được gieo vào mảnh đất tâm hồn của con người. Hạt Giống Thần Linh Thánh Sủng này chỉ có thể nẩy mầm và phát triển cho đến tầm vóc viên trọn của mình khi gặp mặt đất tốt mà thôi. Thế nhưng, thực tế cho thấy tâm hồn con người ngay từ nhỏ đã chất chứa đầy những mầm mống sự dữ có thể làm chết ngạt Thánh Sủng. Thật thế, dù tự bản chất nhân chi sơ tính bản thiện của mình khi còn nhỏ, ở chỗ chưa ý thức được tội lỗi là gì, nhưng con người vẫn đã tỏ ra những dấu hiệu vị kỷ và bạo động, như giành đồ chơi và cắn cấu. Bởi thế, nếu ngay từ nhỏ con người không được giáo dục để thành nhân thì tự nhiên mà nói họ khó có thể, nếu không muốn nói là không thể nào thành thánh được.
Chính Thánh Sủng nơi Kitô hữu tự bản chất có khả năng phát triển đến tầm vóc viên trọn của mình, đến độ có thể làm chủ điều khiển con người tự nhiên của Kitô hữu theo Thánh Thần tác động hợp với Tinh Thần Chúa Kitô. Tuy nhiên, để tiến tới tình trạng thần hiệp siêu việt này, trình độ Thánh Sủng biến Kitô hữu trở thành chứng nhân đích thực và sống động phản ảnh Chúa Kitô, Kitô hữu phải biết Xin Vâng cho đến cùng như Mẹ Maria, phải bỏ mình đi và vác thập giá mà theo Chúa. Mẹ Maria đầy ơn phúc không phải chỉ ở chỗ được làm Mẹ Lời Nhập Thể mà còn ở chỗ nghe và giữ Lời Chúa, Kitô hữu cũng thế.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
LƯƠNG TÂM LÀ ƠN GỌI LÀM NGƯỜI
Thật vậy, chính vì lương tâm là ơn gọi làm người mà làm gì, trước hết và trên hết, con người cũng phải làm theo lương tâm, bằng không, dù là tổng thống, tu hành, bác sĩ, luật sư, nghệ sĩ, giáo sư v.v., họ cũng chỉ là những thằng người múa rối trong chức vụ, vai trò và nghề nghiệp của mình trên khấu trường xã hội. Không phải hay sao, chỉ có loài sinh vật “nhân linh ư vạn vật” mới có lương tâm, nghĩa là mới có một yếu tố siêu linh được phú bẩm nơi họ, để họ có thể nhờ đó sống xứng hợp với thân phận làm người của họ, một thân phận trổi vượt trên thú vật? Như thế, nếu không sống theo lương tâm, theo yếu tố siêu linh có thể giúp họ thực sự làm người này, thì dù ở bất cứ thời đại nào, và dù thời đại ấy có văn minh đến đâu chăng nữa, như thời đại toàn cầu hóa và toàn quyền tự do dân chủ hiện nay, con người vẫn chưa đạt được, nếu không muốn nói là càng không thể đạt được tầm vóc làm người toàn vẹn của mình. Vậy để tránh tình trạng “đóng khố đi giầy tây” như thời đại chúng ta hiện nay, một thời đại trong khi đi đôi “giầy tây” về văn minh kỹ thuật và khoa học thì lại “đóng khố” về luân lý, chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ đề tài lương tâm qua những vấn đề sau đây:
Lương Tâm có bao giờ cảm thấy áy náy hay chăng?
Lương tâm phải chăng chính là nhân đạo?
Hình khổ nhất của con người phải chăng là bị lương tâm cắn rứt?
Nếu không theo lương tâm thì bị cắn rứt vậy phải chăng bình an là dấu sống theo lương tâm?
1. Lương Tâm có bao giờ cảm thấy áy náy hay chăng?
Mỗi lần làm một điều gì sai quấy, trái lương tâm của mình, hay mỗi lần bị dầy vò bởi mặc cảm tội lỗi về những việc làm sai trái của mình, con người hay nói và thường nói: “lương tâm tôi cảm thấy áy náy”, hay “tôi cảm thấy áy náy lương tâm”, hoặc “tôi cảm thấy áy náy trong lương tâm”. Thoạt nghe qua, ai trong chúng ta cũng cho rằng câu phát biểu này hoàn toàn đúng, không có gì là vô lý cả? Tuy nhiên, nếu để ý kỹ, chúng ta sẽ thấy câu chúng ta thường nói “đi khám bác sĩ” là sai, đúng hơn là thiếu sót, thế nào, thì trong câu phát biểu “lương tâm tôi cảm thấy áy náy”, hay “tôi cảm thấy áy náy lương tâm” hoặc “áy náy trong lương tâm”, cũng thế. Tại sao? Đó là lý do, để có thể giải quyết vấn đề này một cách chính xác và dứt khoát “có” – lương tâm có cảm thấy áy náy, hay “không” – lương tâm không cảm thấy áy náy, chúng ta cần phải tái nhận thức lương tâm thực sự là gì, hay bản chất đích thực của lương tâm là gì đã.
Theo quan niệm chung, chúng ta thường cho rằng lương tâm là tiếng nói linh thiêng trong nội tâm của con người. Chính vì thế người Kitô hữu vẫn tin rằng lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa. Và con người cảm thấy rằng sở dĩ lương tâm hiện diện một cách linh thiêng cũng như thầm kín nơi thâm cung của lòng trí họ là để bảo họ làm lành lánh dữ. Khách quan mà nói, chính lương tâm là một dấu chứng hùng hồn nhất cho con người thấy, dù họ có vô thần đến đâu, sự hiện hữu sống động của Thượng Đế, của Đấng Tối Cao. Bởi vì, họ làm gì cũng không tránh khỏi lương tâm, tránh khỏi ánh mắt công minh của Ngài. Dù việc họ làm hết sức tinh khôn và bí mật, đến nỗi không một FBI hay CIA nào trên trần gian này, dù tài giỏi đến mấy đi nữa, có thể điều tra ra, có thể phanh phui ra sự thật, chẳng hạn như ai đã chủ mưu và ra tay ám sát tổng thống Kennedy ở Hoa Kỳ tại Dallas ngày 22/11/1963, hay như ai đã chủ mưu trong vụ ám sát hụt Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ngày 13/5/1983 tại Rôma, họ vẫn không tránh được ánh mắt của Ngài. Hơn thế nữa, chính vì lương tâm là ánh mắt thần linh trong con người, mà ngay trước cả khi con người làm bất cứ điều gì xấu xa, sai trái, con mắt thần linh này đã thấy rồi, và đã lập tức báo động cho họ biết mà còn lên tiếng can gián họ đừng làm điều ấy nữa.
Theo tôn giáo, lương tâm quả vừa là tiếng nói thần linh vang vọng trong con người vừa là ánh mắt thần linh theo di cuộc đời của con người. Trong Sách Sáng Thế Ký, cuốn đầu tiên của Bộ Thánh Kinh của Do Thái Giáo, ngay từ khi con người vừa xuất hiện trên mặt đất này thì đã có tiếng lương tâm rồi. Tiếng lương tâm đầu tiên nói với con người về quyền hạn, nghĩa vụ và thân phận của họ tổng quan và dứt khoát như thế này: “Ngươi được phép ăn mọi thứ cây trong vườn, trừ cây biết lành biết dữ. Ngươi không được ăn cây đó; lúc nào ngươi ăn nó thì ngươi phải chết” (Gen 2:6-7). Và con người đã ý thức được tiếng lương tâm này, khi nó vang vọng nơi họ lúc họ bị rắn quỉ tinh khôn, tượng trưng cho mưu chước cám dỗ, xúi giục họ ăn trái cấm, làm ngược lại với lương tâm, với lệnh cấm của Thiên Chúa: “Chúng tôi được phép ăn mọi thứ cây trong vườn, trừ cây biết lành biết dữ ở giữa vườn thì Thiên Chúa nói ‘ngươi không được ăn hay sờ đến kẻo chết’” (Gen 3:2-3). Thế nhưng, dù có ý thức được tiếng nói thần linh như vậy, con người vẫn làm ngược lại tiếng nói chân thật ấy, tức đã giơ tay lên hái trái cấm mà ăn. Để rồi, hậu quả xẩy ra là, họ đã không chạy thoát khỏi ánh mắt thần linh. Cũng theo Sách Sáng Thế Ký này cho biết, dù sau khi đó, con người có khôn lanh ẩn mình trốn kỹ sau những đám cây trong vườn địa đường, họ vẫn nghe được tiếng lương tâm hạch hỏi: “Ngươi đang ở đâu?”, và đã phải lên tiếng thú nhận: “Tôi đã nghe thấy tiếng của Ngài trong vườn; nhưng tôi sợ hãi vì tôi trần truồng, nên tôi mới ẩn mình đi” (Gen 3:8-13). Chưa hết, hậu quả của việc hai con người tiên khởi Adong-Evà này ăn trái cấm còn tai hại hơn nữa, một tai hại liên quan tới cả giòng di con cái của họ. Sách Sáng Thế Ký còn cho biết thêm là Cain, đứa con trai đầu lòng của họ, chỉ vì ghen tị với đứa em trái của mình, đã ra tay hạ sát nó ngoài đồng vắng. Ngay sau đó hắn đã nghe thấy tiếng thần linh hạch hỏi: “Abel em của ngươi đâu rồi?” (Gen 4:9), và đã tỏ ra cảm thấy sợ hãi trước ánh mắt thần linh của Ngài mà nói: “… Tôi phải lánh khỏi mặt Ngài để trở thành một kẻ lang thang trên trái đất này…” (Gen 4:14).
Đối với một số người, câu truyện về nguyên tổ Adong-Evà trên đây có thể là một câu truyện thần thoại. Tuy nhiên, câu truyện thần thoại này rất tiếc dầu sao cũng cho thấy những điều rất xác thực với kinh nghiệm ngàn đời bất biến nơi đời sống tâm linh của con người. Điều xác thực thứ nhất, đó là, tự bẩm sinh con người đã có lương tâm; lương tâm chính là cây biết lành biết dữ được trồng ngay giữa khu vườn tâm linh của con người. Điều xác thực thứ hai, đó là, con người có tự do, và được quyền làm bất cứ điều gì, miễn là đừng đụng chạm hay phạm đến đến lương tâm. Điều xác thực thứ ba, đó là, bất cứ khi nào con người đụng phạm đến lương tâm, tức nuốt đi tiếng lương tâm của mình, như Adong-Evà đã nuốt trái cấm, con người đều phải chết, nghĩa là không còn sống trong chân lý là người của mình nữa, đã đánh mất đi bản thân mình trong tối tăm gian dối. Điều xác thực thứ bốn, đó là, sau khi đã đụng phạm đến lương tâm, con người vẫn có khả năng hồi tâm và hoán cải, nếu biết đáp ứng tiếng nhắc nhở của lương tâm: “Ngươi đang ở đâu?”, tức ngươi có sống đúng thân phận làm người đích thực của mình chăng, nếu chưa thì hãy trở về với vị trí tạo vật hữu hạn của mình đi. Điều xác thực thứ năm, đó là, nếu con người ngoan cố không chịu chấp nhận lỗi lầm của mình, tức không chấp nhận sự thật phũ phàng về con người xấu xa của mình, đi đổ lỗi cho nhau, như Adong đổ lỗi cho Evà, họ sẽ thực sự sống trong sự chết và sinh ra chết chóc, như Adong-Evà đã sinh ra đứa con đầu lòng Cain, một đứa con sát nhân. Điều xác thực thứ sáu, đó là, tất cả những việc làm của con người trong tình trạng chết chóc, tức trong tình trạng họ không chịu chấp nhận sự thật xấu xa phũ phàng về mình, nghĩa là trong tình trạng tối tăm gian dối, cuộc đời của họ sẽ trở thành hoang đường bất định lạc loài trên trần thế, đúng như Cain đã thú nhận: “Tôi phải lánh khỏi mặt Ngài để trở thành một kẻ lang thang trên trái đất này”. Điều xác thực thứ bảy liên quan đến cơ cấu tinh thần của con người, đó là, nơi phần thượng, con người bao giờ cũng có hai phần, phần chủ quan và phần khách quan: Phần chủ quan là chính tâm linh của con người, và phần khách quan chính là lương tâm nơi con người; nếu lương tâm được thể hiện qua tiếng phán “ngươi được phép ăn mọi thứ cây trong vườn, chỉ trừ cây biết lành biết dữ giữa vườn”, hay tiếng hạch hỏi Adong “Ngươi đang ở đâu?”, hoặc tiếng hạch hỏi Esau “Em ngươi ở đâu?”, thì tâm linh thể hiện ở chỗ Evà ý thức tiếng phán “được phép song chỉ trừ” ấy, cũng như ở chỗ Adong và Esau nhận thức được mình bị hạch hỏi về tác hành đã làm.
Vì vấn đề thứ nhất được đặt ra ở đây liên quan đến điều xác thực thứ bảy này, chúng ta cần phải phân tích thêm để có thể đi đến một giải đáp thỏa đáng cho vấn nạn “Lương Tâm có bao giờ cảm thấy áy náy hay chăng?”
Như trên mới phân tích, tâm linh là ý thức của con người về chính bản thân mình cũng như về những thực tại liên quan đến con người. Còn lương tâm nơi con người là thực tại không thuộc về con người, dù ở trong con người nhưng lại ở trên con người, nên có quyền truyền khiến con người phải tác động, cũng như có quyền khiển trách tác động gian ác của con người hay tán thưởng tác động lành thánh của con người. Như thế, nếu lương tâm là tiếng nói thần linh, tiếng nói chân thật, thì không bao giờ lương tâm lại hối hận, lại áy náy, như thể đã nói con người làm những điều bậy bạ, bảo con người làm những gì sai quấy. Tình trạng áy náy chỉ phát xuất từ tâm linh ý thức của con người mà thôi, từ cảm thức tội lỗi của họ, chứ không phải từ chính lương tâm nơi họ. Họ cảm thấy áy náy, chẳng những vì họ đã không làm theo tiếng lương tâm chân thật, mà còn áy náy nhất là vì thấy hậu quả của lỗi lầm do họ đã gây ra nữa. Vậy nếu câu nói “tôi đi đến bác sĩ khám bệnh”, đúng hơn là câu nói “tôi đi khám bác sĩ” thế nào, thì câu nói “tôi cảm thấy áy náy với lương tâm”, cũng đúng hơn là câu nói “tôi cảm thấy lương tâm áy náy”, hay câu nói “tôi cảm thấy áy náy trong lương tâm”, hoặc câu nói “lương tâm tôi cảm thấy áy náy” như thế.
2. Lương tâm phải chăng chính là nhân đạo?
Vấn đề ở đây cũng thế, muốn sáng tỏ, chúng ta cũng cần phải phân biệt một chút về nhân đạo và thiên đạo, như chúng ta đã phân biệt tâm linh của con người với lương tâm nơi con người trên đây. Trước hết, về ý nghĩa, thiên đạo tức là đạo trời, hay đạo bởi trời, đạo từ trời ban xuống, chứ không phải đạo bởi người, không phải là nhân đạo, là đạo do con người nghĩ ra. Sau nữa, về tính cách hay bản chất, vì thiên đạo là đạo từ trời mà có, một thứ đạo bởi trời, nên phải là một thứ đạo chân thật, trọn lành và bất biến, còn nhân đạo, vì là đạo bởi con người “nhân vô thập toàn” mà ra, nên có thể sai lầm, bất hảo và lỗi thời. Sau hết, về tác dụng, vì thiên đạo là đạo trọn lành nên thiên đạo tiềm tàng một quyền năng siêu việt có thể chẳng những giải thoát con người đến độ làm cho họ siêu thoát khỏi mọi tục lụy, mà còn biến đổi con người phàm tục thành Phật như bên Phật Giáo, hay thành Thánh như bên Kitô Giáo. Trong khi đó, nhân đạo, vì là đạo bởi con người mà có và do con người nghĩ ra, do đó, về phương diện tích cực, nó chỉ có thể giúp cho con người sống xứng hợp với thân phận “nhân linh ư vạn vật” của mình mà thôi.
Tới đây, chúng ta thấy nhân đạo cần phải có thiên đạo, không thể nào thiếu thiên đạo, bằng không, về mặt tiêu cực, nhân đạo có thể sẽ trở thành ngộ đạo, hay thậm chí vô đạo, như chúng ta đã chứng kiến thấy tận mắt tỏ tường những gì “ngộ đạo” và “vô đạo” đang diễn tiến trong xã hội văn minh của chúng ta hiện nay. Con người văn minh ngày nay không bị “ngộ đạo” hay sao, khi không còn biết đến tội phúc là gì, hay không còn biết phân biệt r ràng đâu là tội phúc, thậm chí còn đi đến chỗ cho lành là dự và dữ là lành. Con người văn minh ngày nay cũng không rơi vào tình trạng “vô đạo” là gì, vì họ chối bỏ cả khả năng có thể nhận biết sự thật của mình, quay ra sống theo chiều hướng luân lý tương đối và buông thả.
Qua những gì phân tách trên đây về ý nghĩa, bản chất và tác dụng giữa thiên đạo và nhân đạo, chúng ta thấy lương tâm nơi con người hội đủ điều kiện để đóng vai thiên đạo, và văn hóa của con người đóng vai nhân đạo, bao gồm cả những đạo giáo do con người sáng lập. Có thể nói, đạo giáo do con người sáng lập là mức độ cao nhất của văn hóa, vì những đạo giáo này hoàn toàn phản ảnh lương tâm của con người, phản ảnh những gì tâm linh con người ý thức được nhờ lương tâm. Bởi vậy, văn hóa đích thực phải là thứ văn hóa thấm nhuần lương tâm, là thứ văn hóa diễn đạt lề luật luân lý phổ quát, tức thứ văn hóa phản ảnh những gì được ghi khắc giống nhau theo bẩm sinh trong thâm tâm của tất cả mọi người cũng như của từng người, qua tất cả mọi thời đại, từ khi con người xuất hiện trên đời tới khi không còn một ai trên mắt đất này nữa.
Tuy nhiên, đóng vai trò là tiếng nói thần linh trong thâm tâm con người và là ánh mắt thần linh theo di cuộc đời con người, tự bản chất, lương tâm không phải là chính thiên đạo, mà chỉ là thừa tác viên của thiên đạo nơi con người mà thôi. Vả lại, lương tâm cũng vẫn có thể bị con người lấn át, làm chủ và thậm chí bóp chết trong bàn tay bản năng lông lá của họ. Nếu văn hóa là biểu hiệu cho nhân đạo và lương tâm biểu hiệu cho thiên đạo thì hiện tượng văn hóa duy nhân bản pro choice ngày nay đã không lấn át, vặn cổ và làm thịt lương tâm là gì, bằng những con dao phay luật lệ, chọc tiết luân thường moi tim đạo lý. Tuy nhiên, dù văn hóa là biểu hiệu cho nhân đạo có sát hại được biểu hiệu của thiên đạo là lương tâm, nhưng vẫn không thể nào tiêu diệt được chính tiếng lương tâm, tức tiêu diệt được chính chân lý lương tâm có sứ vụ phải loan truyền cho con người. Bởi đó, dù con người có lấn át lương tâm, đè nén lương tâm để hành ác lánh thiện, họ vẫn bị áy náy, bị tiếng nói bất diệt của lương tâm không thôi cắt rứt, cho đến khi họ chấp nhận sự thật, chấp nhận lỗi lầm của mình…
Như thế, so với văn hóa là biểu hiệu cho nhân đạo, thì lương tâm là biểu hiệu cho thiên đạo, song lương tâm tự mình vẫn không phải là chính thiên đạo. Thiên đạo đây chính là tiếng nói của lương tâm, là chân lý tối thượng, một chân lý tự bản chất của mình đóng vai như mặt trời soi chiếu và tỏa nhiệt để làm cho sinh vật sinh động và phát triển. Bởi vậy, so với chính tiếng lương tâm này, với vai trò thừa sai và sứ giả của mình, lương tâm chẳng khác gì như mặt trăng tiếp nhận ánh sáng từ mặt trời để chiếu soi cho trái đất, cho con người. Có thể nói, lương tâm chính là nhân đạo, là phản ánh mặt trời chân lý tối thượng để soi sáng cho văn hóa con người, làm cho con người có thể sống động xứng với thân phận làm người của mình và phát triển cho tới khi hoàn thành ơn gọi làm người của mình, một ơn gọi sống trọn lành được thể hiện qua một cuộc đời yêu thương trọn hảo. Bởi thế thực tế làm người mới cho thấy, bất cứ những gì phạm nhân bản, ngược với yêu thương, đều vô nhân đạo, như hà hiếp, bóc lột. Thậm chí thấy khổ mà không cứu cũng thế, cũng là những gì vô nhân đạo. Chưa hết, nhân đạo liên hệ mật thiết đến yêu thương, tức đến những gì liên hệ với chủ thể, đúng hơn đến mối hiệp thông đại kết. Do đó, thái độ hành hạ thú vật chỉ vì giận cá chém thớt, hoặc hành hạ chúng một cách vô cớ, cũng là những gì vô nhân đạo đối với đối tượng nạn nhân. Hành động tàn phá môi sinh chỉ vì tư lợi trên hết, cũng được kể là những hành động vô nhân đạo, đối với chủ thể tác hành. Nếu những gì con người phạm đến nhân đạo đều làm cho tâm linh con người cảm thấy áy náy với lương tâm thì quả thực lương tâm chính là nhân đạo vậy.
Tóm lại, về vị thế đối với tâm linh con người, so với văn hóa thì lương tâm đóng vai thiên đạo, thế nhưng, tự bản chất của mình chỉ là thừa sai của chân lý và là sứ giả cho chân lý, tức so với chính tiếng nói của lương tâm, so với chính sự thật lương tâm muốn truyền đạt cho tâm linh con người, thì lương tâm chỉ đóng vai nhân đạo mà thôi. Có thể nói, lương tâm chính là nhân đạo của con người và cho con người vậy.
3. Hình khổ nhất của con người phải chăng là bị lương tâm cắn rứt?
Thật ra, nếu lương tâm không áy náy thế nào, thì lương tâm cũng không cắn rứt như vậy, như chúng ta vẫn thường thú nhận “tôi bị lương tâm cắn rứt” hay “tôi bị cắn rứt trong lương tâm”. Sở dĩ lương tâm không áy náy là vì lương tâm bao giờ cũng truyền dạy những điều chân thiện, xứng hợp với thân phận làm người và đáp ứng ơn gọi làm người của con người. Và sở dĩ lương tâm cũng không cắn rứt là vì lương tâm không có toàn quyền phán quyết về số phận của con người, trái lại, lương tâm còn có thể bị con người lấn át, bịp miệng và bóp mũi chết là đàng khác. Vậy nếu con người có khả năng giết chết lương tâm, thì con người đâu còn sợ lương tâm cắn rứt hành khổ mình nữa? Rất tiếc, thực tại phũ phàng đã cho thấy, dù con người có sát hại lương tâm để làm theo những gì mình nghĩ là đúng và những gì mình muốn là hay đi nữa, con người vẫn không trốn được chính tiếng lương tâm hạch hỏi: “Ngươi đang ở đâu?”, như trường hợp nguyên tổ của loài người sau khi đã ăn cây trái cấm trong vườn địa đường để thỏa mãn giấc mộng muốn lên bằng Thiên Chúa, hay “Em ngươi đâu rồi?”, như trường hợp Cain sau khi đã sát hại Abel em mình ngoài cánh đồng vắng để tha mãn cơn hận hờn ghen.
Tuy nhiên, tự mình, tiếng lương tâm cũng không phải là hình phạt giáng xuống con người phản loạn vô loài. Nếu mặt trời không thể nào không soi chiếu thế nào, tiếng lương tâm là chân lý cũng không thể nào không lên tiếng như vậy. Nếu con người cần phải có ánh sáng để sinh động thế nào, con người cũng không thể nào thiếu tiếng lương tâm để có thể làm lành lánh dữ như vậy. Tuy nhiên, nếu con người đau mắt không dám ra trước ánh sáng để mắt đau của mình khỏi bị hành bởi ánh sáng thế nào, thì những ai sống trong tăm tối của ác ý, của tà tâm, của sự dữ cũng sợ phơi mình trước ánh sáng như vậy, đúng như lời Đấng Sáng Lập Kitô Giáo đã khẳng định: “Việc luận phán là như thế này, đó là ánh sáng đã đến trong thế gian, nhưng con người yêu tối tăm hơn ánh sáng, vì họ làm các việc gian ác. Ai làm điều gian ác thì ghét ánh sáng; họ không dám đến gần ánh sáng, vì sợ các việc làm của họ bị bại lộ” (John 3:19-20).
Đúng thế, đối với thành phần gian ác, ánh sáng chính là hình phạt của họ và cho họ, là hình phạt duy nhất và trên hết đối với họ, vì họ không thể nào thoát khỏi sự hiện diện thấu suốt của nó, vì họ lúc nào cũng phải đối diện với sự thật, một sự thật mà nếu họ chấp nhận và phơi mình ra sẽ được viên trọn, bằng không họ sẽ vĩnh viễn sống trong tăm tối, sẽ trở thành như loài ma quái hư hư ảo ảo vậy… Có thể nói, hình khổ nhất của con người không phải chỉ là tình trạng họ sống trong hư ảo vì cố tránh né sự thật làm người, hay tình trạng họ còn lầm lạc chưa sống đúng với sự thật làm người của mình, mà chính là tình trạng lúc nào cũng phải đối diện với chân lý tối thượng, một chân lý hết sức chói lọi làm cho họ thấy lỗi lầm của mình, cùng với cái tai hại của những gì họ đã chọn lựa cũng như theo đuổi một cách ngược chiều và lạc loài, những hành động đã gây thiệt hại chẳng những cho chính bản thân của họ, mà còn cho cả tha nhân đồng loại của họ cũng như cho chung thiên nhiên tạo vật vậy.
Tóm lại, hình khổ của một con người không sống theo lương tâm đó là lúc nào họ cũng cảm thấy bất an và bất định. Cuộc sống của họ là một cuộc sống hoang đường, một cuộc sống lang thang trên trần thế, đúng như Sách Sáng Thế Ký của Do Thái Giáo thuật lại về trường hợp của Cain, nhân vật đã thú nhận tâm trạng của mình khi bị hạch hỏi về tội ra tay hạ sát Abel em mình là: “Tôi phải lánh khỏi mặt Ngài để trở thành một kẻ lang thang trên trái đất này”. Đúng thế, thấy được hay biết được sự thật cùng đích của mình nhưng lại không đạt tới cùng đích sự thật của mình ấy chính là hình khổ nhất của con người vậy.
4. Nếu không theo lương tâm thì bị cắn rứt vậy phải chăng bình an là dấu sống theo lương tâm?
Kinh nghiệm tâm linh cho thấy, có những lúc con người lộng hành phạm pháp mà vẫn chẳng cảm thấy áy náy gì cả. Một là vì lòng họ đã trở nên chai đá, không còn sợ tội hay còn biết đến tội lỗi là gì nữa. Hai là vì họ thấy mình có quyền làm những điều ấy, vì những điều ấy đã được luật pháp công nhận và cho phép làm. Ba là tự họ thấy có lý, bởi họ là một con vật có lý trí, không thể làm gì mà lại không có lý, mà đã có lý thì còn gì phải lo, vì cái lý đó không phải là sự thật hay sao? Trái lại, cũng có những lúc con người lại tỏ ra hết sức bối rối bất an, không biết phải làm sao cho đúng, dù thấy lý lẽ mình viện ra không có gì là sai trái cả. Chưa hết, sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng đủ thứ, và đã lấy thiện chí làm đúng theo lương tâm của mình rồi, mà họ vẫn còn phải chịu những hậu quả bất hạnh ngoài ý muốn v.v…
Như thế, phải chăng bối rối hay bình an là tiêu chuẩn đánh giá trị đích thực của việc làm, là dấu chứng tỏ cho thấy việc làm của con người thực sự đúng hay sai, lợi hay hại, tốt hay xấu v.v.? Lập luận này rất hợp với chiều hướng của chủ nghĩa thực dụng ngày nay, vì chủ nghĩa này cho rằng những gì có lợi trước mắt thì được phép làm, như ly dị là có lợi nên được làm, hay phá thai là có lợi nên được làm. Nghĩa là, nếu suy diễn theo phương pháp luận, thì những gì có lợi đều tốt, mà đã tốt thì được phép làm, thậm chí không làm còn có tội nữa là đằng khác. Chẳng hạn, không phá đi cái thai được bác sĩ cho biết là bị tật nguyền thì sẽ gây cho xã hội thêm gánh nặng, hay nếu không giết người không thể chịu đựng bệnh tật được nữa, họ sống còn hơn chết, như lời họ van xin, thì có tội với họ, vì gián tiếp nhúng tay vào làm khổ họ, do đó thà cho họ chết đi còn hơn v.v. Với những lập luận thực dụng ấy, ngày nay người ta giết người một cách hết sức yên tâm, không áy náy gì hết. Vấn đề ở đây là nếu làm gì sai quấy đều bị lương tâm cắn rứt, mà nếu không bị lương tâm cắn rứt, nghĩa là cảm thấy yên tâm thì có phải con người đã sống theo lương tâm?
Vấn đề rất phức tạp này liên quan hết sức chặt chẽ với vấn đề bản chất tội lỗi: tội lỗi là gì, cũng như đến cảm thức tội lỗi: có tội hay chăng? Chúng ta sẽ tiếp tục chia sẻ hai vấn đề thiết yếu và nồng cốt này ở bài “Cảm Thức Tội Lỗi”.
Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh
(bài Phát Thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 10, 24/3/2002)