|
Ý Chỉ của Đức Thánh Cha
cho Tháng 2/2003
Ý Chung:
“Xin cho tất cả mọi
Kitô hữu, nhậy cảm với tình trạng khổ đau của các dân tộc đang vẫn còn chịu đói
khát, được tiến đến chỗ liên kết với anh chị em mình hơn nữa”.
Ý Truyền Giáo:
“Xin cho Giáo Hội ở Mã
Lai, Nam Dương và Brunei, trong khi vẫn cởi mở đối thoại với các tín đồ của các
tôn giáo khác, biết trung thành với sứ vụ truyền bá phúc âm hóa chân thực của
mình”.
___________________________________________
22-28/2/2003 |
|
28/2 Thứ Sáu
Không ai phủ nhận mà vẫn bất đồng: Cốt Lõi của vấn đề
Iraq?
Theo bản thông báo của văn phòng báo chí của Tòa Thánh
Vatican thì sáng Thứ Năm 27/2/2003, đúng như dự định, Thủ Tướng Tây Ban Nha José
María Aznar đã đến gặp riêng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, sau đó vị thủ tướng
này đã gặp Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano và ĐTGM Ngoại Trưởng
Jean-Louis Tauran. Trong cuộc gặp gỡ nửa tiếng đồng hồ này, ĐTC và vị thủ tướng
này: “đồng ý tình hình diễn tiến ở Iraq là nghiêm trọng và cần phải được giải
quyết. ĐTC hy vọng là tất cả mọi phe liên hệ, không trừ bên nào, sẽ đi đến chỗ
có những quyết định chính đáng và thực hiện những hành động ôn hòa vừa có công
hiệu vừa hợp với công lý theo luật lệ quốc tế và những nguyên tắc luân thường
đạo lý. Vị lãnh đạo chính quyền Tây Ban Nha này giải thích về đường lối tác hành
của Tây Ban Nha cho đến lúc này trong việc đối đầu với cuộc khủng hoảng Iraq
chẳng hạn, nhất là với vấn đề khủng bố nguy hiểm là những gì cần đến việc hoạt
động chung về phía Tổ Chức Liên Hiệp Quốc. Về những vấn đề này, đã có những chủ
trương theo chiều hướng hợp với của Tòa Thánh. Sau hết, cả hai đã xét đến một số
khía cạnh về thực tại của Âu Châu, chú trọng đặc biệt đến Bản Thỏa Ước Hiếp Pháp
của Khối Hiệp Nhất Âu Châu”.
|
Trong khi đó, các viên chức tình báo Hoa Kỳ cho hay, theo
họ thì lực lượng quân sự của Iraq đang chuyển vị trí đóng quân, một là ở Tikirt,
quê cha đất tổ của Saddam Hussein hai là ở Baghdad để bảo vệ thủ đô Iraq. Đơn vị
quân đội này là một trong hai đơn vị Bảo An Cộng Hòa ở miền Bắc Iraq. Tình báo
Hoa Kỳ đã theo dõi việc chuyển quân này mấy ngày nay. Đầu tuần này có cả trăm
chiến xe cam-nhông đã rời chỗ để đi lấy quân liệu cho đơn vị này. Nếu việc
chuyển quân này kéo về Baghdad thì có lẽ Saddam Hussein muốn quân Hoa Kỳ tiến
vào thành phố là nơi dân cư trú ngụ. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu Hoa Kỳ có dám
tấn công vào thành phần dân chúng ở thủ đô này hay chăng?
|
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, vấn đề bỏ phiếu chấp nhận cho 62 ngàn quân
của Hoa Kỳ đóng đô để tấn công Iraq vẫn chưa giải quyết xong, và đã bị dời lại
cho tới Thứ Bảy này. Lý do là vì họ muốn chờ xem kết quả cuộc họp của Hội Đồng
Bảo An vào ngày Thứ Bảy 1/3. Ngoài ra, còn một lý do nữa là hiện nay con số dân
Thổ chống chiến tranh lên đến 90%.
Phần Hội Đồng Bảo An dự tính sẽ có một cuộc họp kín vào Thứ Năm 27/2/2003 để bàn
về vấn đề Iraq. Trong khi phe chủ chiến là Hiệp Chủng Quốc, Hiệp Vương Quốc và
Tây Ban Nha đưa ra bản quyết định mới dứt khoát vấn đề có thể sử dụng võ lực để
giải quyết vấn đề Iraq, thì phe chủ hòa là Pháp, Đức và Nga lại kêu gọi việc
“giải giới hoàn toàn và hiệu nghiệm” bằng đường lối ôn hòa. Ba quốc gia thành
viên có quyền phủ quyết veto là Pháp, Nga và Tầu đều chống lại chiến tranh và
kêu gọi Hội Đồng đừng cắt ngang việc thanh tra vũ khí.
|
Tại Bắc Kinh, hai ngoại trưởng của Tầu Tang Jiazuan và Nga
Ivan Ivanov đã công bố một bản tuyên ngôn chung kêu gọi “một giải pháp chính trị”
cho cuộc khủng hoảng Iraq, theo chiều hướng chống lại chiến tranh đánh Iraq.
Theo họ, chiến tranh “có thể và phải được ngăn tránh”, và các thanh tra viên cần
thêm thời gian làm việc. Họ muốn tiếp tục thi hành Quyết Định 1441 chưa không
thích có bản quyết định mới của phe chủ chiến. Vì theo hai vị ngoại trưởng này,
bản quyết định đang được thi hành đây “có đủ căn bản cần thiết để giải quyết vấn
đề”. Bởi đó Hội Đồng Bảo An phải tiếp tục thi hành bản quyết định ấy. Tuy nhiên,
theo nguồn tin từ Tây Phương cho CNN biết thì Nga và Tầu có thể sẽ không veto
quyết định mới do phe chủ chiến phác họa. Tuy nhiên, Pháp vẫn không đổi ý.
|
Tại Paris, Thủ Tướng Pháp là Jean Pierre Raffarin trong cuộc tranh luận ở Quốc Hội đã cảnh giác là việc tuyên chiến trước khi có thêm thời gian ngoại giao sẽ được “coi là liều lĩnh và bất hợp pháp”. Vị thủ tướng này đã nói với quốc hội rằng: “Việc can thiệp bằng võ lực hiện nay, khi mà tất cả mọi cơ hội giải quyết ôn hòa còn đang được thực hiện, sẽ đưa đến chỗ chia rẽ cộng đồng thế giới… Chiến tranh sẽ gây nên một làn sóng khó hiểu và ngờ vực. Chiến tranh sẽ làm suy yếu liên minh thế giới trong việc chống lại nạn khủng bố”. Trong khi vị thủ tướng Pháp được quốc hội của ông hoan hô thì cũng trong thời gian này, tại quốc hội Hiệp Vương Quốc, thủ tướng Tony Blair lại bị quốc hội của ông phản đối và chống lại không ít, nhất là từ đảng của ông. Trong số 199 tỏ ra chống đối ông có 124 thuộc đảng của ông, thành phần sẽ thực hiện một bản tu chính về vấn đề phản chiến. Những lời công bố của vị thủ tướng này nói lên sau khi Pháp, Đức và Nga nộp bản dự thảo của họ cho Liên Hiệp Quốc về bước tiến từ từ giải giới Iraq.
Nhận định của Thời Ðiểm Maria:
|
Đối với vấn đề Iraq không ai phủ nhận mà vẫn cứ bất đồng? Vấn đề rất đơn giản mà tại sao cả thế giới giải quyết cả hơn nửa năm nay, từ tháng 10 năm 2002 tới nay, mà vẫn chưa xong, mà vẫn không nổi? Không ai phủ nhận là cần phải giải giới Iraq. Thế nhưng vẫn cứ bất đồng về đường lối giải giới? Phe chủ chiến nhất định tìm hết cách và moi hết mọi lý do để giải giới bằng võ lực bằng được, trong khi phe chủ hòa nhất định phải điều tra rõ ràng rồi mới tính chuyện. Theo lý thì phe chủ hòa đúng, vì muốn giải giới phải biết Iraq có khí giới đại công phá không đã. Đó là lý do cần phải có các thanh tra viên. Vậy thì tại sao các thanh tra viên đang làm việc và chưa tìm ra những thứ cần giải giới thì cứ muốn dùng võ lực nhào vô giải giới là làm sao? Chẳng lẽ các thanh tra viên quốc tế không thể làm việc của mình như được thế giới tin tưởng ủy thác hay sao? Nếu các thanh tra viên đang làm việc của mình và chưa khám phá ra Iraq có gì đáng phải hay cần phải giải giới mà phe chủ chiến đã nhào vô tấn công bằng quân sự rồi thì không phải là họ đã trắng trợn khủng bố trước thanh thiên bạch nhật, không phải chỉ khủng bố riêng nước Iraq mà là khủng bố chung cả quyền bính quốc tế mà Liên Hiệp Quốc là tiêu biểu nữa hay sao? Bởi thế không lạ gì và đáng buồn cười là các cuộc biểu tình khắp thế giới từ 6 tháng nay không ai xuống đường phản đối Iraq và cá nhân Tổng Thống Saddam Hussein, một nhà độc tài dã man vô nhân đạo đáng phải trừ diệt trước mắt Hoa Kỳ, mà lại xuống đường biểu tình phản đối Hoa kỳ và cá nhân Tổng Thống Bush! Chủ trương của các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng đều thiên về chủ hòa, giống như chủ trương của Pháp-Đức-Nga và 2/3 quốc gia thành viên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc bây giờ. Chẳng lẽ cả thế giới bị mù, chỉ trừ phe chủ chiến? Vậy thì vấn đề ở đây không phải là Iraq mà là Hoa Kỳ. Thử hỏi nếu Hoa Kỳ bỏ đi chủ trương chủ chiến của mình thì liệu Hiệp Vương Quốc và Tây Ban Nha có còn tiếp tục chủ chiến hay chăng? Như thế, cốt lõi của vấn đề là Hoa Kỳ, đúng hơn, là chính phủ Bush, là đầu giây mối rợ gây rắc rối thế giới và khuấy động cả toàn cầu hiện nay. Chỉ cần cá nhân Tổng Thống Bush nghĩ lại, bảo đảm mọi sự sẽ lắng đọng và sẽ được giải quyết tốt đẹp. Vấn đề then chốt là ở chỗ đó!
27/2 Thứ Năm
Tay Đạo Diễn Vỡ Bi Hùng Kịch Bush-Saddam: Võ Lực Hoa Kỳ
Giải Giới Iraq.
Trong một cuộc phỏng vấn được tờ tuần báo Đức Die Zeit phổ
biến vào ngày Thứ Năm 27,2/2003, ông trưởng ban thanh tra Liên Hiệp Quốc Hans
Blix đã cho biết là “Iraq đã có thể làm hơn nữa” trong việc hợp tác với các
thanh tra viên, “và chúng tôi sẽ ghi nhận điều ấy”.
Lời nhận định này của ông Blix xẩy ra trong tuần lễ trước ngày hạn định, Thứ Bảy
1/3/2003, ông đã đưa ra cho Iraq về việc Iraq phải phá hủy hai phi đạn tầm xa Al
Samound. Trong khi đó, phe chủ chiến Hiệp Chủng Quốc, Hiệp Vương Quốc và Tây Ban
Nha đã phác họa bản quyết định nhất định giải giới Iraq vì Iraq đã vi phạm Quyết
Định 1441 vì tỏ ra không chịu cộng tác với các thanh tra viên. Tổng Thống Bush
đã tuyên bố hôm Thứ Tư 26/2/2003 rằng Saddam Hussein “sẽ phải giải giới không
cách này thì cách khác… Cái nguy của vấn đề không làm gì – cái nguy của việc bảo
đảm là Saddam Hussein sẽ thay đổi, cái nguy của việc suy nghĩ và hy vọng về
những gì tốt đẹp nhất cho nhân dân Hoa Kỳ – còn nghiêm trọng hơn cả cái nguy dấn
quân nếu chúng ta cần phải làm”.
|
Ông Blix còn nói với tờ tuần san này rằng ông hoàn toàn
không biết là Iraq có muốn cộng tác với thanh tra viên hay chăng: “Đằng khác, xứ
sở này đã trải qua 8 năm thanh tra, 4 năm không thanh tra và giờ đây lại 12 tuần
thanh tra nữa. Phải chăng đây là lúc chấm dứt? Tất cả vấn đề là một tiến trình,
mới chỉ di dịch được từng li vậy thôi. Cho dù Iraq có cộng tác lập tức, chủ động
và vô điều kiện với chúng tôi chăng nữa thì chúng tôi cũng cần cả mấy tháng nữa
mới xong”. Cũng tronmg cuộc phỏng vấn của tờ tuần san này hôm Thứ Tư 26/2/2003,
ông còn nhận định là Iraq phải “hết sức cố gắng” trong việc làm sáng tỏ những
vấn đề liên quan đến việc giải giới của họ: “Tôi không nghĩ rằng chúng tôi có
thể nói chúng tôi có một bản liệt kê rất dài về những vấn đề giải giới… Chúng
tôi đón nhận mọi nỗ lực, và tôi phải công nhận là mới đây họ cũng đã tỏ ra nỗ
lực hơn”.
Sau cuộc gặp gỡ với Thủ Tướng Tây Ban Nha José María Aznar hôm Thứ Tư 26/2/2003,
Tổng Thống Pháp Chirac đã cho biết ông hoàn toàn đồng ý với phe chủ chiến Hiệp
Chủng Quốc, Hiệp Vương Quốc và Tây Ban Nha là Iraq cần phải giải giới những thứ
vũ khí đại công phá. Thế nhưng, ông cho biết: “Chúng tôi khác nhau là ở chỗ làm
cách nào để có thể đạt được mục tiêu này. Như quí vị biết Pháp cho rằng vấn đề
giải giới có thể đạt được bằng phương tiện ôn hòa, tức là bằng việc thanh tra
hơn nữa”.
|
Phần Tổng Thống Saddam Hussein, cũng trong cuộc phỏng vấn
với Đài Truyền Hình CBS của Hoa Kỳ, ngoài vấn đề sẵn sàng nói chuyện với Tổng
Thống Bush để công khai giải quyết vấn đề trước mặt thế giới qua truyền thanh và
truyền hình, ông còn minh định 3 điều khác nữa, đó là ông sẽ không đi đâu ngoài
Iraq và sẵn sàng chết tại Iraq, ông cũng sẽ không phá hủy các mỏ dầu của Iraq
giành cho nhân dân và quê hương thân yêu của ông, và Iraq không hề có liên hệ gì
với tổ chức khủng bố quốc tế Al Qaeda: “Chúng tôi sẽ chết ở đây. Chúng tôi sẽ
chết tại xứ sở này và chúng tôi sẽ giữ được vinh dự của mình… Iraq không thiêu
rụi cái phong phú của mình và cũng không phá hủy các đập nước”. Sở dĩ điều này
được đặt ra là vì trong trận Bão Chiến Sa Mạc Dessert Storm hay cuộc Chiến Vùng
Vịnh Gulf War năm 1991, Iraq đã đốt cả trăm vùng dầu hỏa của Kuwait khi quân đội
của họ rời bỏ xứ sở này sau cuộc xâm chiếm bị Hoa Kỳ can thiệp. Về vấn đề dính
dáng với tổ chức khủng bố quốc tế, ông nói: “Tôi nghĩ rằng chính Ông Bin Laden
mới đây, qua một trong một bài nói chuyện của ông, đã dưa ra câu trả lời này là
chúng tôi không hề có dính dáng đến ông ấy”.
|
Trong khi đó, tại Hiệp Vương Quốc, Thủ Tướng Tony Blair
đang gặp chống đối không ít (1/4) ngay trong đang Lao Động MP của ông trong cuộc
bỏ phiếu cho vấn đề Iraq, không phải là vấn đề đánh Iraq mà là vấn đề Bản Quyết
Định mới do Hoa Kỳ chủ xướng phác họa. Con số Ử chống đối trong đảng của mình
này, cộng với 750 ngàn người xuống đường biểu tình trong tháng Hai này, và các
cuộc thăm dò mới đây cho thấy thế giá của vị thủ tướng này đã chìm hẳn xuống.
Tình hình này đã làm cho vị ngoại trưởng Jack Straw lo ngại: “Vấn đề đình trệ
này sẽ cho Saddam dấu hiệu rõ ràng nhất là sách lược của hắn đang thành công. Nó
sẽ cho hắn hay là cộng đồng thế giới không có ý giải giới hắn”.
|
Trong cuộc tranh luận này, ông Chris Smith, nguyên bộ
trưởng trong nội các của thủ tướng Tony, bày tỏ như sau: “Có những lúc rất thuận
lợi cho chiến tranh. Thế nhưng, vào lúc này đây, thời điểm hình như được quyết
định bởi tổng thống Hoa Kỳ chứ không phải bởi lý lẽ của các biến cố xẩy ra.
Chúng ta đang nói đến cả hằng ngàn những mạng sống vô tội bị sát hại, về những
tử vong hầu như không thể tránh được nơi các lực lượng của chúng ta… cũng như về
thái độ lạnh lùng của thành phần quần chúng Hồi Giáo ôn hòa trên khắp thế giới”.
Ông George Galloway, một đảng viên Lao Động MP đặt vấn đề về chiến tranh như sau:
“Tôi không tin rằng cuộc chiến này sẽ đánh nhanh và đánh gọn. Các hậu quả của nó…
ảnh hưởng rung chuyển của nó sẽ gây ra là tình trạng lũng đoạn cuộc sống ở xứ sở
này cũng như trên khắp thế giới qua nhiều năm tháng”. Vị phát ngôn viên phụ
trách ngoại vụ của Đảng Bảo Thủ là ông Michael Ancram cho biết: “Đôi khi những
cuộc xung khắc cần đạt tới hòa bình một cách ngắn hạn bằng mối đe dọa tấn công,
và đôi khi cái đe dọa xung đột lại tạo nên hòa bình”.
|
Vấn đề Iraq vẫn là vấn đề chẳng những gây căng thẳng và
giằng co trên hiện trường chính trị thế giới mà còn làm nhức nhối lương tâm của
các vị lãnh đạo tôn giáo. Vấn đề đánh nhau không phải chỉ liên quan và thuộc về
lãnh vực chính trị trần thế, mà trước hết và trên hết liên quan và thuộc về lãnh
vực tinh thần và luân lý. Bởi thế, như Tòa Thánh Rôma và các Hội Đồng Giám Mục
các nước trên thế giới đã lần lượt lên tiếng phản đối cái thứ chiến tranh ra tay
đánh trước để ngăn ngừa, bất chấp tất cả mọi hậu quả xẩy ra sau đó, các vị lãnh
đạo Kitô Giáo ở Trung Đông, gồm có Đức Thượng Phụ Michel Sabbah thuộc lễ nghi
Latinh, ĐHY Vinko Puljic, TGM ở Sarajevo, và Đức Thượng Phụ Raphael Bidawid ở
Babylon thuộc lễ nghi Chaldeans ở Iraq đã lên tiếng trong một bản văn đề ngày
Chúa Nhật 23/2/2003 như sau:
|
“Vào giờ phút cả thế giới quan tâm này, tất cả chúng ta đều cảm thấy cần phải hướng về Chúa để nài xin đại ân hòa bình. Hòa bình là con đường duy nhất cần phải đi; nó là một hướng đi bắt buộc. Chúng tôi, những người đã từng sống và vẫn đang sống thảm cảnh chiến tranh, muốn nói cùng toàn thể thế giới, nhất là với thành phần quyền lực trên trái đất này, đó là xin đừng bước vào con đường chiến tranh, vì nó là con đường cùng không lối thoát. Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta. Phúc Âm hòa bình phải soi sáng tâm hồn chúng ta và phải hướng dẫn việc chọn lựa của chúng ta để vấn đề bạo lực và chiến tranh hoàn toàn bị loại bỏ. Nếu chiến tranh là hủy hoại và chết chóc, thì hẩu quả thê thảm không kém do chiến tranh gây nên, đó là chia rẽ, hận thù ghen ghét và nhiều thành phần tị nạn… Hãy hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng bao giờ cũng lắng nghe lời nguyện cầu của những kẻ bé mọn, người nghèo hèn và kẻ bất lực. Xin đừng bỏ chúng tôi một mình, vì hôm nay đây thế giới cần phải kiến tạo niềm hy vọng này”.
|
Nhận định của Thời Điểm Maria: Các chính khách trên thế giới không hẹn mà hò rủ nhau đến gặp Đức Thánh Cha về vấn đề Iraq, như hôm Thứ Sáu 14/2 có Phó Thủ Tướng Iraq Tariq Aziz, hôm Thứ Ba 18/2 có Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Kofi, hôm Thứ Bảy 22/2 có Thủ Tướng Hiệp Vương Quốc United Kingdoms Tony Blair đồng minh đệ nhất của Hoa Kỳ, và hôm Thứ Năm 27/2 có Thủ Tướng Tây Ban Nha José María Aznar cũng đang sát cánh với Hoa Kỳ. Phải chăng sự kiện chính trị thế giới tìm đến tham vấn thẩm quyền tôn giáo, mà Giáo Hội Công Giáo là tiêu biẻu, để giải quyết vấn đề hết sức nhức nhối lương tâm nhân loại hiện nay, không cho thấy chính trị không thể tách rời luân lý được hay sao? Đó là lý do, theo Ý Chúa Quan Phòng, Giáo Hội Công Giáo, với tư cách là một Quốc Đô Vatican, một quốc gia nhỏ nhất trên thế giới, như hạt cải nhỏ nhất trong các hạt giống, đã giữ vai trò quan sát viên thường trực ở Liên Hiệp Quốc, chẳng khác gì vai trò của lương tâm nơi con người vậy, để nhờ vị thế này của mình, Tòa Thánh có thể lên tiếng nhắc nhở thẩm quyền thế giới phải làm sao luôn biết phục vụ cộng đồng nhân loại trong công lý và hòa bình.
|
Cuộc chiến tranh giữa con người với nhau có thể sắp sửa
xẩy ra đây không phải là cuộc chiến giữa Tổng Thống Goerge Bush và Tổng Thống
Saddam Hussein, giữa một siêu cường Hoa Kỳ và một tiểu quốc Iraq, giống như giữa
một Đại Quốc Trung Hoa với một Tiểu Quốc Giao Chỉ Nam Việt ngày xưa, cho bằng là
cuộc chiến giữa con người với ngụy thần, với ma qủi, với “tên sát nhân ngay từ
ban đầu”, như Chúa Giêsu vạch mặt chỉ tên hắn trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 8
câu 44. Đó là lý do tất cả những gì hận thù ghen ghét đều sặc mùi tử khí xông ra
từ ma quỉ, và tất cả những gì gây tàn hại cho con người và làm cho con người
chia rẽ với nhau, đều phát xuất từ ma quỉ. Còn gì gây tàn hại cho con người và
chứng tỏ con người chia rẽ nhau bằng chiến tranh. Chiến tranh là màn bi hùng
kịch ma quỉ thích xem nhất, vì hắn chính là tay đạo diễn tài tình nhất, vừa biên
soạn, vừa chọn vai, rồi giật giây điều hành con người để họ làm theo đúng như
những gì hắn muốn, những gì gian dối theo bản tính của hắn và phá hoại theo xu
hướng của hắn. Thế giới văn minh vật chất luôn nói đến nhân quyền ngày nay đang
chứng kiến một màn bị hùng kịch Bush-Saddam hết sức sống động và đến hồi gay cấn
nhất, không biết sắp sửa hạ màn hay chưa? Chỉ biết rằng cỏ lùng do kẻ thù ma qủi
gieo vào thửa ruộng thế gian, cho dù hiện tại tạm thời có mọc lên át cả lúa miến
chăng nữa, cuối cùng đám cỏ lùng này cũng sẽ bị thiêu rụi trong lửa đời đời. Vậy,
chúng ta hãy tin tưởng cầu nguyện với Đấng làm chủ vũ trụ và lịch sử loài người,
Đấng vô cùng khôn ngoan và toàn năng sẽ khéo léo sử dụng những tay sai của Satan
để làm công cụ trong việc thực hiện cho “Nước Cha trị đến. Ý Cha thể hiện dưới
đất cũng như trên trời”. Amen.
26/2 Thứ Tư
Cùng Mẹ Maria Chiêm Ngưỡng Dung Nhan Chúa Kitô
Bằng Kinh Mân Côi Để Truyền Bá Phúc Âm Hóa
Sứ Điệp của ĐTC Gioan Phaolô II cho Ngày Thế Giới
Truyền Giáo 77
Ngày 21/2/2003, Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh đã phổ
biến sứ điệp cho Ngày Thế Giới Truyến Giáo lần thứ 77 này, một ngày sẽ được cử
hành vào ngày 19/10/2003. Ngày Chúa Nhật 19/10/2003 này cũng trùng với ba biến
cố khác: biến cố thứ nhất là việc phong chân phước cho Mẹ Têresa Calcutta, vị
sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Aùi; biến cố thứ hai là việc mừng Ngân Khánh 25 Năm
Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị được bầu làm giáo hoàng ngày
16/10 và đăng quang ngày 22/10/1978; và biến cố thứ ba là kết thúc Năm Mân Côi
(10/2002-2003). Sau đây là nguyên văn sứ điệp của ĐTC, một sứ điệp truyền giáo
liên quan đến Kinh Mân Côi.
Anh Chị Em thân mến,
1. Từ ban đầu, Tôi đã muốn đặt giáo triều của Tôi dưới sự che chở của Mẹ Maria.
Ngoài ra, Tôi thường xin toàn thể cộng đồng tín hữu hãy sống lại cảm nghiệm của
Căn Thượng Lầu Tiệc Ly, nơi các môn đệ “đã chuyên tâm cầu nguyện, cùng với … Đức
Maria, Mẹ Chúa Giêsu” (Acts 1:14). Trong Thông Điệp đầu tiên của mình là “Đấng
Cứu Chuộc Nhân Loại” Redemptor Hominis, Tôi đã viết rằng, chỉ khi nào chúng ta ở
trong bầu khí sốt sắng nguyện cầu chúng ta mới có thể “lãnh nhận Thánh Linh
xuống trên chúng ta, nhờ đó, chúng ta mới có thể trở thành những chứng nhân của
Chúa Kitô ‘cho đến tận cùng trái đất’, như những vị đã xuất thân từ Căn Thượng
Lầu Tiệc Ly ở Giêrusalem vào ngày Lễ Ngũ Tuần” (số 22).
|
Giáo Hội càng nhận thức hơn về việc Giáo Hội là “mẹ” như
Đức Maria. Như Tôi đã đề cập đến trong Sắc Chỉ “Mầu Nhiệm Nhập Thể”
Incarnationis Mysterium, vào dịp Mừng Đại Năm Thánh 2000, Giáo Hội là “chiếc nôi
được Mẹ Maria đặt Chúa Giêsu nằm trong ấy để cho tất cả mọi dân nước tôn thờ và
chiêm ngắm” (số 11). Giáo Hội có ý định tiếp tục con đường linh đạo và truyền
giáo này, với cuộc đồng hành của Vị Trinh Nữ Diễm Phúc, Minh Tinh của Việc Tân
Truyền Bá Phúc Âm Hóa, bình minh rạng ngời và là vị hướng đạo rành đường dẫn lối
cho chúng ta đi” (x Tông Thư Mở Màn Cho Một Ngàn Năm Mới Novo Millennium Ineunte,
số 58).
Mẹ Maria và Sứ Vụ của Giáo Hội trong Năm Mân Côi
2. Tháng 10 năm trước, thời điểm bước vào năm thứ 25 của giáo triều của mình,
Tôi đã cộng bố một Năm đặc biệt như để tiếp nối thiêng liêng cho Năm Thánh, một
năm được dùng để tái khám phá kinh nguyện Mân Côi rất thân thương với truyền
thống Kitô Giáo. Đó là một năm cần phải được sống dưới ánh mắt của Vị mà, theo
dự án nhiệm mầu của Thiên Chúa, bằng tiếng “xin vâng” của mình, đã làm cho việc
cứu độ loài người được thực hiện, cũng là Vị ở Thiên Đàng tiếp tục bảo vệ những
ai hướng về Mẹ, nhất là trong những lúc khốn khó trong cuộc sống.
Tôi muốn Năm Mân Côi trở thành một cơ hội thuận lợi cho các tín hữu ở tất cả mọi
lục địa trong việc đi sâu vào ý nghĩa của ơn gọi Kitô Giáo của mình. Tại học
đường của Vị Trinh Nữ Diễm Phúc và noi theo bắt chước gương của Người, hết mọi
cộng đồng sẽ có khả năng hơn nữa trong việc làm cho hoạt động “chiêm niệm” và
“truyền giáo” hòa hợp với nhau.
Nếu Ngày Chúa Nhật Thế Giới Truyền Giáo, được xẩy ra vào đúng lúc kết thúc năm
Thánh Mẫu đặc biệt này, được sửa soạn kỹ lưỡng, nó sẽ là một động lực mạnh mẽ
hơn nữa cho việc dấn thân này của cộng đồng giáo hội. Tin tưởng chạy đến với Mẹ
Maria, bằng việc hằng ngày đọc kinh Mân Côi và suy niệm các mầu nhiệm đời sống
của Chúa Kitô, là chú trọng đến sự kiện sứ mệnh của Giáo Hội phải được bảo dưỡng
trước hết bằng việc cầu nguyện. Thái độ “lắng nghe”, một thái độ được nhắc nhở
bởi việc cầu Kinh Mân Côi, mang tín hữu lại gần với Mẹ Maria, Vị “đã giữ tất cả
mọi điều ấy mà suy niệm trong lòng” (Lk 2:19). Việc thường xuyên suy niệm Lời
Chúa khiến chúng ta sống “trong cuộc hiệp thông sống động với Chúa Giêsu, có thể
nói, nhờ trái tim Mẹ của Người” (Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria Rosarium
Virginis Mariae, số 2).
Một Giáo Hội càng chiêm niệm ở chỗ nhìn ngắm dung
nhan Chúa Kitô hơn
3. “Cum Maria comtemplemur Christi vultum!” Những lời này thường gợi lên trong
lòng chúng ta việc cùng Mẹ Maria chiêm ngưỡng “dung nhan” Chúa Kitô. Khi chúng
ta nói về “dung nhan” của Chúa Kitô, chúng ta muốn nói đến hình ảnh nhân loại
của Người chiếu tỏa vinh quang Người Con duy nhất của Chúa Cha (x Jn 1:14).
“Vinh quang của Thần Tính phát tỏa từ dung nhan của Chúa Kitô” (Tông Thư Kinh
Mân Côi Trinh Nữ Maria Rosarium Virginis Mariae, số 21). Việc chiêm ngưỡng dung
nhan Chúa Kitô dẫn chúng ta đến mối thân tình nội tại sâu xa hơn nữa với mầu
nhiệm của Người. Việc chiêm ngưỡng Chúa Giêsu bằng đôi mắt đức tin thúc đẩy con
người đi sâu vào mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Giêsu nói: “Ai thấy Thày
là thấy Cha” (Jn 14:9). Với Kinh Mân Côi, chúng ta tiến triển trong cuộc hành
trình mầu nhiệm này “trong niềm hiệp nhất với và ở tại học đường của Mẹ Rất
Thánh của Người” (Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria Rosarium Virginis Mariae,
số 3). Thật vậy, Mẹ Maria biến mình làm thày dạy và làm hướng đạo của chúng ta.
Theo tác động của Thánh Linh, Mẹ giúp chúng ta chiếm được “cái cứng cát vững
vàng” giúp tín hữu có thể truyền đạt cảm nghiệm của mình về Chúa Giêsu cũng như
niềm hy vọng chi phối họ (x Thông Điệp Sứ Vụ của Đấng Cứu Chuộc Redemptoris
Missio, số 24) cho những người khác.
Chúng ta hãy luôn nhìn lên Mẹ Maria, một mô phạm khôn sánh. Tất cả mọi lời Phúc
Aâm đều âm vang một cách phi thường nơi tâm hồn của Mẹ. Mẹ Maria là “ký ức”
chiêm niệm của Giáo Hội, một Giáo Hội mong muốn được hiệp nhất sâu xa với Vị Hôn
Phu của mình, để gây thêm ảnh hưởng nơi xã hội của chúng ta. Làm sao chúng ta có
thể phản ứng trước những vấn đề to tát lớn lao, trước cảnh khổ đau vô tội, trước
những thứ bất công gây ra bởi việc khinh khi ngạo mạn đây? Tại học đường dễ dạy
của Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta, các tín hữu biết nhìn ra, nơi cái bề ngoài “thinh
lặng của Thiên Chúa”, Lời Chúa là Đấng âm vang trong thinh lặng cho phần rỗi của
chúng ta.
Một Giáo Hội thánh hảo hơn ở chỗ bắt chước và yêu
mến dung nhan của Chúa Kitô
4. Nhờ phép rửa, tất cả mọi tín hữu được kêu gọi nên thánh. Trong Hiến Chế Tín
Lý “Ánh Sáng Muôn Dân” Lumen Gentium, Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhấn mạnh
là ơn gọi phổ quát nên thánh là ở chỗ tất cả mọi người được kêu gọi sống đức ái
trọn hảo.
Đức thánh thiện và việc truyền giáo là những khía cạnh không thể tách rời nhau
nơi ơn gọi của hết mọi người đã lãnh nhận phép rửa. Việc dấn thân trở nên thánh
thiện hơn là việc chặt chẽ gắn liền với việc dấn thân truyền bá sứ điệp cứu độ.
Trong Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc Redemptoris Missio, Tôi đã nhắc nhở rằng:
“Hết mọi phần tử tín hữu được kêu gọi nên thánh và truyền giáo” (số 90). Trong
việc chiêm ngưỡng các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi, người tín hữu được thúc đẩy
theo Chúa Kitô và chia sẻ đời sống của Người, nhờ đó, họ có thể nói với Thánh
Phaolô rằng: “Không phải là tôi sống, song là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal
2:20).
Nếu tất cả mọi mầu nhiệm của Kinh Mân Côi tạo nên một học đường quan trọng cho
sự thánh thiện và việc truyền bá phúc âm hóa, thì các mầu nhiệm ánh sáng giúp
vào việc mang lại những khía cạnh đặc biệt liên quan đến “tác dụng phụ” của Phúc
Âm. Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Dược Đăng nhắc nhở là thành phần được
rửa tội được tuyển chọn để trở nên “những người con nơi Người Con” (Eph 1:5; x
Gaudium et Spes, số 22). Ở tiệc cưới Cana, Mẹ Maria kêu gọi những người phục
dịch hãy ngoan ngoãn nghe Lời Chúa: “Các anh hãy làm theo những gì Ngài bảo” (Jn
2:5). Việc loan báo Nước Trời và lời kêu gọi cải thiện đời sống là một mệnh lệnh
rõ ràng buộc hết mọi người phải theo đuổi con đường thánh thiện. Nơi việc Chúa
Giêsu Biến Hình, con người lãnh nhận phép rửa cảm thấy niềm vui đang đợi chờ họ.
Khi suy nkệm về việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể, họ thường trở về với Căn
Thượng Lầu Tiệc Ly, nơi Vị Thày thần linh để lại cho các môn đệ kho tàng quí báu
nhất của Người là chính bản thân Người nơi Bí Tích trên bàn thờ.
Ở một nghĩa nào đó thì những lời Vị Trinh Nữ Diễm Phúc nói ở tiệc cưới Cana đã
làm nên bối cảnh cho tất cả mọi mầu nhiệm ánh sáng. Thật vậy, việc loan báo Nước
Trời đã đến, lời kêu gọi cải thiện và xót thương, Việc Biến Hình trên Núi Tabo
và việc thiết lập Thánh Thể đều đặc biệt vang vọng nơi con tim của Mẹ Maria. Mẹ
Maria gắn chặt mắt của Mẹ vào Chúa Kitô, gìn giữ hết mọi lời của Người và tỏ cho
chúng ta thấy cách làm môn đệ đích thực của Con Mẹ.
Một Giáo Hội truyền giáo hơn ở chỗ loan báo Dung
Nhan Chúa Kitô
5. Không có một lúc nào Giáo Hội lại có nhiều cơ hội để loan báo Chúa Giêsu bằng
lúc này, nhờ việc phát triển của phương tiện truyền thông xã hội. Vì lý do này,
Giáo Hội ngày nay được kêu gọi để làm cho Dung Nhan Hôn Phu của Giáo Hội chiếu
tỏa nơi sự thánh thiện rạng ngời hơn nữa của Giáo Hội. Nơi việc làm không dễ
dàng này, Giáo Hội biết rằng Giáo Hội được Mẹ Maria nâng đỡ. Giáo Hội “học” trở
thành một “trinh nữ” nơi Mẹ Maria, hoàn toàn hiến thân cho Vị Hôn Phu của mình
là Chúa Giêsu Kitô, cũng như trở thành một “người mẹ” của nhiều con cái được
Giáo Hội sinh vào sự sống trường sinh.
|
Dưới cái nhìn canh chừng của Mẹ mình, cộng đồng giáo hội
nở hoa như một gia đình hồi sinh nhờ Thần Linh được tuôn đổ xuống tràn đầy, và
khi chấp nhận những thách đố của việc tân truyền bá phúc âm hóa, chiêm ngưỡng
dung nhan nhân hậu của Chúa Giêsu nơi những người anh chị em, nhất là thành phần
nghèo nàn và thiếu thốn, nơi những ai còn xa đức tin và Phúc Aâm. Nhất là Giáo
Hội không sợ hô lên cho thế giới nghe thấy rằng Chúa Kitô “là Đường, là Sự Thật
và là Sự Sống” (Jn 14:6). Giáo Hội cần phải sửa soạn cho có những nhà truyền bá
phúc âm hóa có khả năng và thánh thiện. Lòng nhiệt tah2nh của các vị tông đồ
không được suy yếu đi, nhất là đối với vấn đề truyền giáo “ad gentes” cho muôn
dân. Kinh Mân Côi, nếu được hoàn toàn nhận thức và cảm nhận, sẽ là một khí cụ
bình thường song linh thiêng và có tính cách giáo dục tốt đẹp trong việc hình
thành Dân Chúa để hoạt động trong lãnh vực tông vụ rộng lớn.
Một Trách Nhiệm Nghiêm Trọng
6. Vấn đề làm sinh động việc truyền giáo cần phải được tiếp tục là một nhiệm vụ
nghiêm trọng và liên tục của hết mọi người đã lãnh nhận phép rửa cũng như của
hết mọi cộng đồng giáo hội. Dĩ nhiên, Các Hội Truyền Giáo của Tòa Thánh giữ một
vai trò chuyên biệt và đặc biệt, nên Tôi xin cám ơn họ về việc dấn thân thi hành
vai trò này.
Tôi xin đề nghị với tất cả mọi anh chị em là anh chị em hãy tăng thêm việc cầu
kinh Mân Côi, riêng tư cũng như cộng đồng, để xin Chúa ban cho những ơn Giáo Hội
và nhân loại đặc biệt cần đến. Tôi mời hết mọi người hãy làm điều này, trẻ em,
người lớn, người trẻ và người già, gia đình, giáo xứ và các cộng đồng tu trì.
|
Trong số nhiều ý chỉ của Tôi, Tôi không quên ý chỉ hòa
bình. Chiến tranh và bất công bắt nguồn từ cõi lòng “bị chia cắt”. “Bất cứ ai
muốn thấu nhập mầu nhiệm Chúa Kitô – đây là mục tiêu rõ ràng của Kinh Mân Côi –
đều biết được cái bí mật của hòa bình và biến nó thành dự phóng cho đời sống của
họ” (Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria Rosarium Virginis Mariae, số 40). Nếu
Kinh Mân Côi làm cho đời sống chúng ta thăng tiến nhanh chóng thì kinh này cũng
có thể trở thành một dụng cụ thuận lợi cho việc xây dựng hòa bình trong tâm hồn
con người, trong gia đình cũng như nơi các dân nước. Cùng với Mẹ Maria, chúng ta
có thể chiếm được hết mọi sự nơi Chúa Giêsu Con Mẹ. Được Mẹ Maria nâng đỡ, chúng
ta sẽ không ngần ngại quảng đại dấn thân loan báo Tin Mừng cho đến tận cùng trái
đất.
Với những cảm thức này, Tôi thân ái ban phép lành cho tất cả anh chị em.
Tại Vatican ngày 12/1/2003, Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa.
Gioan Phaolô II
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu
của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 21/2/2003.
Thống Kê về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội
|
Thứ Sáu 21/2/2003, ĐHY Trưởng Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm Hóa Cho Các Dân Nước Crescezio Sepe, trong buổi ra mắt sứ điệp của ĐTC Gioan Phaolô II cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2003, đã cho biết thêm những con số thống kê liên quan đến hoạt động truyền giáo của Giáo Hội như sau:
- Có 42 ngàn trường học; 1.600 nhà thương; 6 ngàn bệnh xá, 780 trại cùi, 12 ngàn
hoạt động bác ái xã hội;
- 85 ngàn vị linh mục truyền giáo trong đó có 53 ngàn linh mục giáo phận (27
ngàn hoạt động ở Phi Châu, 44 ngàn ở Á Châu, 6 ngàn ở Mỹ Châu, 5 ngàn ở Đại
Dương Châu, và 3 ngàn ở Âu Châu);
- 1.075 giáo phận trực thuộc Thánh Bộ này, gần 39% các giáo phận trên thế giới;
- 28 ngàn nam tu truyền giáo, 450 ngàn nữ tu và 1.65 triệu giáo lý viên;
- Năm 1900 ở Phi Châu có 2 triệu người được rửa tội, nay có tới 110 triệu, hay
15% dân số;
- Ở Đại Dương Châu có 7 triệu người Công Giáo trong 26 triệu dân số, tức 26%.
25/2 Thứ Ba
Mở Đường Máu: Bản Quyết Định Mới Dứt Điểm Iraq!
Theo nguồn tin từ các nhà ngoại giao thì bản quyết định mới do Hiệp Chủng Quốc
và Hiệp Vương Quốc soạn thảo có thể sẽ được trình cho Hội Đồng Bảo An vào chiều
Thứ Hai 24/2/2003 hay cũng có thể sẽ được phổ biến riêng trong phái đoàn ngoại
giao. Để, như ngoại trưởng Hiệp Vương Quốc Jack Straw cho biết ở một cuộc họp
riêng tại Brussels, các quốc gia thành viên của hội đồng này có giờ cứu xét cho
tới giữa tháng Ba, sau tuần hội đồng này nghe ông Blix tường trình lần 3 vào
ngày 7/3 về việc thanh tra vũ khí ở Iraq. Trong khi đó, Hoa Kỳ lại muốn Hội Đồng
Bảo An bỏ phiếu vào tuần tới.
|
Bản quyết định mới này sẽ nêu lên vấn đề Iraq vi phạm
quyết định 1441, ở chỗ không chịu trưng ra trọn vẹn những chương trình sản xuất
các thứ vũ khí đại công phá, nên cần phải đi đến biện pháp quân sự. Trong khi đó,
về phía Iraq vẫn cương quyết khẳng định họ không có những thứ vũ khí này và hoàn
toàn tuân hợp với các quyết định. Bộ trưởng nội vụ Powell tuyên bố ở Nhật là:
“Chúng tôi không thể ngồi không chẳng làm gì để cho Iraq tiếp tục chống cự lại ý
muốn của cộng đồng quốc tế. Vấn đề không phải là thêm các thanh tra viên. Vấn đề
không phải là cho các thanh tra viên thêm thời gian. Vấn đề ở đây là giải giới”.
Trong khi đó, qua cuộc gặp gỡ với vị sứ giả Labanon được Iraq truyền hình, Tổng
Thống Saddam Hussein nói: “Không dễ gì đối đầu với Iraq đâu một khi họ lên cơn.
Giờ đây họ đang lên cơn giận vì kẻ thù của họ thậm chí không tỏ ra một chút nào
tư cách làm người. Những người Hoa Kỳ có thể làm hại và hủy hoại các dinh thự
cũng như các kiến tạo, nhưng họ sẽ không thể nào có thể hạ nhục Iraq được”.
Ngoại trưởng Nga hôm Thứ Hai 24/2 cho biết cuối tuần vừa rồi cựu thủ tướng Nga
là Yevgeny Pmimakov đã thăm Iraq theo lời yêu cầu của Tổng Thống Putin, và vị
nguyên thủ tướng này đã gặp Tổng Thống Saddam Hussein hôm Chúa Nhật 23/2. Để đáp
lại lời kêu gọi của Nga qua vị nguyên thủ tướng xin Iraq hết sức tuân hợp với
Quyết Định 1441 cũng như hoàn toàn cộng tác với các thanh tra viên, Tổng Thống
Saddam cho biết sẽ không có vấn đề trở ngại cho hoạt động của các thanh tra viên
thuộc cả UNMIVOC hay IAEA.
Đối với bản quyết định mới theo chiều hướng hăng máu chủ chiến này của US
(United States: Hiệp Chủng Quốc) và UK (United Kingdoms: Hiệp Vương Quốc), phe
phản chiến Pháp-Đức-Nga càng tỏ ra cương quyết chống đối hơn nữa, vì vấn đề là ở
chỗ việc thanh tra đang diễn tiến tốt đẹp. Hôm Thứ Hai 24/2/2003, Thủ Tướng Đức
nói rằng cả Đức lẫn Pháp không thấy cần đến một quyết định mới vào lúc này đây.
Vị lãnh sự Nga ở Liên Hiệp Quốc là Sergei Lavrov, qua cuộc phỏng vấn với đài
truyền hình Nga, đã cho biết công việc chính “là đừng để xẩy ra một cuộc chiến
tranh mà chúng ta tin rằng bất chính”, vì công việc thanh tra đang diễn tiến và
Iraq càng tỏ ra cộng tác với các thanh tra viên. Theo vị lãnh sự này thì Hội
Đồng Bảo An không thể chấp thuận bản quyết định mới cho phép trực tiếp hay gián
tiếp thanh trừng Iraq bằng võ lực này.
Về phần Pháp, phát ngôn viên của Tổng Thống Chirac cho biết: “Hôm nay đây không
có lý do nào lại làm gián đoạn biện pháp thanh tra để chuyển hướng rẽ sang một
đường lối suy nghĩ dẫn tới chiến tranh. Bản quyết định mới chẳng hữu ích cũng
chẳng cần thiết”. Ngoại trưởng Pháp là Dominique de Villepin nói trong cuộc
phỏng vấn với tờ nhật báo Le Figaro phát hành hôm Thứ Hai 24/2 rằng Pháp sẽ giúp
cho việc làm của các thanh tra công hiệu bằng việc phác họa một chương trình cho
Iraq để Iraq có thể đáp ứng các đòi hỏi cần thiết, bản chương trình phác họa này
sẽ được trình bày ở Hội Đồng Bảo An. Vị ngoại trưởng này cho biết các thanh tra
viên nói rằng họ đang tiến hành ngon lành, “Đó là lý do tại sao, căn cứ vào đó,
chúng tôi chống lại bản quyết định mới, như Tổng Thống của chúng tôi đã nói”.
Ông còn cho biết đối với pháp, vấn đề phủ quyết veto bản quyết định mới này
“không thành vấn đề”, cũng như nhiều nước khác có quyền veto như Pháp là Nga và
Tầu.
Tổng
Thống Saddam Hussein muốn nói chuyện với Tổng Thống Bush
|
Theo Đài Truyền Hình CBS cho biết hôm Thứ Hai 24/2/2003
thì, trong cuộc phỏng vấn với đài này 3 tiếng đồng hồ, do phát ngôn viên thông
tín Dan Rather thực hiện, Tổng Thống Saddam Hussein đã cho biết ông sẵn sàng nói
chuyện với Tổng Thống Bush qua cuộc truyền hình sống và qua cuộc phát thanh bằng
đường vệ tinh. Ông nói: “Là những nhà lãnh đạo, tại sao chúng ta không lợi dụng
cơ hội này chứ? Tôi sẵn sàng… thực hiện một cuộc trực tiếp đối thoại, một cuộc
tranh luận, với tổng thống của quí vị. Tôi sẽ nói ra những gì tôi muốn, và ông
ta cũng sẽ nói ra những gì ông ta muốn”. Theo Tổng Thống Saddam Hussein thì nếu
Tổng Thống Bush “quyết chiến” thì đây là cơ hội để ông ta “thuyết phục thế giới”.
Ý tưởng này của Tổng Thống Saddam Hussein làm mọi người bỡ ngỡ tưởng không thể
nào xẩy ra, bởi thế, ông được hỏi là ông có nói giỡn không vậy, Tổng Thống
Saddam Hussein trả lời: “Đây là điều đề nghị thiết tha nhất, phát xuất từ lòng
tôn trọng của tôi với nhân dân Hiệp Chủng Quốc, với nhân dân Iraq cũng như với
dân chúng trên thế giới. Tôi yêu cầu điều này bởi vì chiến tranh không phải là
một điều giỡi chơi”. Trong khi đó, Tòa Bạch Ốc cho biết họ không coi lời đề nghị
của Saddam Hussein là thật. Vị giám đốc truyền thông của Tòa Bạch Ốc là Dan
Bartlett đã nói với CNN rằng: “Sẽ không có vấn đề tranh luận về những gì đòi hắn
phải làm”.
Nhận định của Thời Điểm Maria:
Vấn đề thứ nhất ở đây là tại sao US và UN cứ
nhất định tìm cách tấn công Iraq mà không dùng cách khác ôn hòa hơn để giải
quyết vần đề. Phải chăng Tổng Thống Saddam Hussein khó đối phó hơn Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, bởi vì Iraq không có nội công làm tay sai cho US như ở Việt Nam?
Tại sao các nước phản chiến như Nga, Đức và Pháp có thể nói chuyện với Iraq mà
US và UK lại không dám nói chuyện với Iraq?
Vấn đề thứ hai ở đây là tại sao việc thanh tra viên chưa xong, đang tiến hành
ngon lành, thì UN và UK lại muốn đánh Iraq? Phải chăng vì US và UK sợ rằng càng
để lâu, thì trước hết, việc thanh tra càng cho thấy những gì US và UK tố cáo
Iraq từ đầu là Iraq có những thứ vũ khí đại công phá nguy hiểm là gian dối chăng;
mà nếu thế thì hai siêu cường này sẽ vỡ mặt với thế giới? Và phải chăng US và UK
cũng không thể đợi lâu được, sau nữa, là cả hai vì đã đem quân sang trấn đóng ở
Trung Đông hết sức tốn kém, đánh thì chưa được, mà rút về thì cũng bẽ mặt với
thế giới?
Tố cáo Iraq có vũ khí đại công phá thì hai bản tường trình của ban thanh tra cho
là không thấy. Tố cáo Iraq không chịu cộng tác với thanh tra viên thì Iraq càng
ngày càng tích cực cộng tác hơn. Tố cáo Iraq là có dính dáng đến tổ chức khủng
bố quốc tế nhưng bằng cớ trưng dẫn không được thế giới hưởng ứng. Sợ rằng Iraq
sẽ tấn công Hoa Kỳ và các nước Khối Ả Rập thì thế giới chưa hề nghe thấy Tổng
Thống Saddam Hussein tuyên bố điều này; vả lại, trong khi Iraq đang bị thanh tra
vũ khí như vậy thì làm sao trở thành một “mối nguy cấp thời” (imminent threat),
một lý do có thể ra tay chặn đầu họ.
|
Nếu bảo rằng vấn đề chính là giải giới thì phải biết
rằng Iraq có những thứ khí giới đáng bị giải giới hay không đã rồi mới giải giới.
Vậy thì tại sao các thanh tra viên đang kiểm soát xem Iraq có những thứ vũ khí
cấm hay chăng lại đã dàn quân sẵn và cứ làm sao để hối thúc đánh đấm cho bằng
được? Phải chăng những gì được Nga tuần trước cho biết là hoạt động thanh tra
đang bị áp lực phải nhường chỗ cho hoạt động quân sự là đúng, như đã xẩy ra vào
Tháng 12/1998 trước đây, khi mà, Iraq lên tiếng tố giác là có tình báo trong
nhóm thanh tra viên, một tình trạng đã được ông Blix trước lần thanh tra hiện
nay đã công nhận là có, thì US và UK, theo người ta cảm nhận, để bịt miệng Iraq,
đã đem bom đến dội Iraq, làm cho các thanh tra viên phải ra khỏi Iraq? Phải
chăng những gì đang xẩy ra nơi phe chủ chiến US và UK là một màn tái diễn những
gì họ đã làm cuối năm 1998, nhưng bằng một cách khác…
Phải chăng phe chủ chiến US và UK đang ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng na:
đánh thì không được, vì chưa được Hội Đồng Bảo An đồng ý, mà làm liều lại càng
chết, vì qua mặt thế giới; rút lui cũng không xong, vì bẽ mặt với thế giới, mà
chần chờ thì càng tốn kém với nền kinh tế đang suy bại, nhất là càng gần đến
thời điểm tranh cử tổng thống Hoa Kỳ, thời điểm Đảng Dân Chủ đang lợi dụng những
thất sách về chính trị, ngoại giao và kinh tế của chính phủ do Đảng Cộng Hòa
điều hành hiện nay để chiếm ghế tổng thống vào khóa tới. Bởi thế, US và UK cố
gắng mở đường máu vượt thoát con đường lỡ bước lạc vào… Bằng con đường cố đấm ăn
xôi chăng?
Chúng ta hãy chờ xem. Nhưng đừng quên cầu nguyện. Vì không phải US và UK làm chủ
tình hình thế giới, muốn làm gì thì làm, mà là Đấng Tạo Dựng nên con người cùng
với thiên nhiên tạo vật của Ngài, Đấng Quan Phòng mọi sự. Ngài có cách giải
quyết của Ngài. Ngài làm được những gì con người không thể. Thậm chí Ngài lợi
dụng cả những sai trái và xấu xa của con người để thực hiện ý định thần linh vô
cùng mầu nhiệm của Ngài.
Biết đâu trong lúc thế lực chính trị không giải quyết được vấn đề thì Giáo Hội
Công Giáo lại làm được, như đã xẩy ra trong trường hợp Cộng Sản Đông Âu sụp đổ
vào cuối năm 1989! Biết đâu việc Tổng Thống Saddam Hussein muốn trực tiếp nói
chuyện với Tổng Thống Bush là chiều hướng đề nghị trong thư của ĐTC gửi Tổng
Thống Saddam Hussein qua vị hồng y sứ giả hòa bình hôm Thứ Bảy 15/2, và biết đâu
lời của ĐHY này cho biết sau khi gặp gỡ vị Tổng Thống Iraq này 1 tiếng rưỡi đồng
hồ là “Hòa bình vẫn còn khả dĩ ở Iraq và cho Iraq. Bước tiến nhỏ bé nhất trong
mấy ngày nữa đây đáng giá là một cái nhẩy vọt tới hòa bình”, chính là thiện chí
này của Tổng Thống Saddam Hussein. Thế nhưng, liệu Tổng Thống Bush có nhận lời
hay chăng? Nếu không, một là khinh người, hai là sợ bại lộ chân tướng nên muốn
tránh né. Đây là cơ hội tốt nhất để hai bên nói chuyện và giải quyết vấn đề
tranh chấp, nếu Hoa Kỳ không muốn đối thoại mà chỉ muốn đánh đấm thì thế giới sẽ
nghĩ sao về họ? Như thế lại càng chứng tỏ Bản Quyết Định Mới do US và UN phác
họa quả thực là việc họ muốn mở con đường máu …
24/2 Thứ Hai
Huấn Từ Truyền Tin của ĐTC về Ngày Lễ Tro Cầu Nguyện Cho Hòa Bình
Anh Chị Em thân mến!
1. Nhiều tháng nay cộng đồng thế giới đã sống trong một tình trạng hết sức lo âu
trước cơn nguy hiểm xẩy ra một cuộc chiến tranh có thể làm rối loạn toàn vùng
Trung Đông và càng làm tăng thêm căng thẳng bất hạnh thay đã xẩy ra ngay từ đầu
kỷ nguyên này. Nhiệm vụ của tín hữu, bất kể theo tôn giáo nào, là tuyên bố cho
thấy rằng chúng ta sẽ không bao giờ hạnh phúc được nếu chúng ta cứ kình chống
nhau, tương lai của nhân loại sẽ không bao giờ được bảo đảm bằng nạn khủng bố và
lý lẽ chiến tranh.
Đặc biệt là Kitô hữu chúng ta được kêu gọi để làm những người bảo hộ hòa bình ở
những nơi chúng ta sống và hoạt dộng. Chúng ta cần phải tỉnh táo để lương tâm
không lùi bước trước khuynh hướng vị ngã, sai lầm và bạo lực.
2. Bởi thế, Tôi mời gọi tất cả mọi người Công Giáo hãy tha thiết hiến ngày 5/3
tới đây, Ngày Thứ Tư Lễ Tro, để cầu nguyện và chay tịnh cho hòa bình, nhất là ở
vùng Trung Đông.
Trước hết, chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa ban ơn hoán cải cho các tâm hần và có
một cái nhìn rộng lượng ở những quyết định chính đáng để giải quyết bằng những
phương tiện xứng hợp và ôn hòa các thứ tranh đối làm cản bước hành trình của
nhân loại trong thời đại của chúng ta.
Ở hết mọi đền Thánh Mẫu phải dâng lời cầu nguyện thiết tha bằng việc cầu kinh
mân côi thánh. Tôi tin rằng kinh mân côi cũng sẽ được nguyện cầu ở các giáo xứ
và gia đình để cầu nguyện cho ý chỉ quan trọng chi phối thiện ích của tất cả mọi
người này.
Lời kêu cầu chung này sẽ được kèm theo bằng việc chay tịnh, bằng việc tỏ lòng
thống hối về những thứ hận thù và bạo lực bôi bẩn các mối liên hệ của loài người.
Kitô hữu cũng thực hành những việc chay tịnh truyền thống với nhiều anh chị em
thuộc các tôn giáo khác, thành phần muốn dùng cách này để dứt bỏ tất cả mọi thứ
kiêu hãnh và sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa ban cho những tặng ân cao trọng nhất
và cần thiết nhất, trong số đó đặc biệt là có tặng ân hòa bình.
3. Từ nay trở đi, để cầu cho việc thực hành được bắt đầu từ Mùa Chay này, chúng
ta kêu cầu sự trợ giúp đặc biệt của Mẹ Maria Rất Thánh, Nữ Vương Hòa Bình. Nhờ
lời chuyển cầu của Mẹ, chớ gì mối phúc đức phúc âm “Phúc cho những ai xây dựng
hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9) vang vọng với một mãnh
lực mới mẻ trên thế giới và được thực sự chấp nhận!
Nga lại trục xuất một linh mục Công Giáo ngoại quốc nữa
Cảnh sát ở Pushkin, gần St Peterburg, đã hủy bỏ chiếu khán
của một linh mục Công Giáo người Balan và cho ngài trong vòng hai tuần lễ phải
rời Nga. Đài Phát Thanh Vatican đã tường trình như vậy hôm Thứ Bảy 22/2/2003. Vị
linh mục này là cha Bronislaw Czaplicki thuộc TGP Katovice, đã từng hoạt động 10
năm ở Liên Bang Nga. Hiện nay ngài là cha xứ ở Pushkin, giáo sư ở Chủng Viện St.
Petersburg, và là chủ tịch Ủy Ban Giáo Hội cho Các Vị Tử Đạo Công Giáo Thế Kỷ 20
ở Nga.
Luật Pháp Liên Quan Đến Vụ Linh Mục Lạm Dụng Tình Dục
Tấn Công Ấn Tòa Giải Tội
Theo nguồn tin của Zenit ngày Chúa Nhật 23/2/2003, thì một
bản dự thảo của ngành lập pháp tiểu bang Maryland đòi các vị linh mục phải trình
báo việc lạm dụng tình dục trẻ em. ĐHY Theodore McCarrick đã tuyên bố như thế là
phạm đến ấn tòa giải tội. Ngài tỏ ra cương quyết: “Nếu đạo luật này được thông
qua, tôi sẽ bảo tất cả các vị linh mục trong TGP Washington phục vụ ở Maryland
dẹp nó sang một bên”. Ngài đã viết trong tờ Catholic Standard như thế, theo tờ
Washington Post cho biết. Một số chuyên gia về luật pháp không cho rằng đây là
một dự thảo là hợp hiến.
Bản Tường Trình Thứ Hai của Ban Thanh Tra Vũ Khí với Hội Đồng Bảo An ngày 14/2/2003
Thưa Ngài Chủ Tịch, từ khi tôi tường trình cho Hội Đồng
Bảo An ngày 27/1/2002, UNMOVIC đã có thểm hai tuần thực hiện công việc hoạt động
và phân tích ở Nữu Ước cũng như những việc tích cực thanh tra ở Iraq. Như thế
tất cả thời khoảng này cho tới nay là 11 tuần lễ.
Từ đó, chúng tôi cũng đã nghe vị bộ trưởng nội vụ của Hoa Kỳ trình bày cho Hội
Đồng ngày 5/2 cùng với những bàn luận sau đó.
Sau hết, Tiến Sĩ Elbaradei và tôi đã thực hiện một cuộc gặp gỡ nói chuyện khác
với những vị đồng bạn của chúng tôi cũng như với Phó Tổng Thống Ramadan vào ngày
8 và 9/2.
Giờ đây tôi xin tóm lược ngắn gọn công việc được UNMOVIC thực hiện ở Iraq.
Chúng tôi đã tiếp tục phát triển khả năng của chúng tôi. Văn phòng ở miền Mosul
hiện nay đã hoàn toàn hoạt động với một tổng hành dinh tạm thời. Những dự án mở
một văn phòng ở miền Basra cũng đã được tiến triển. Chiếc máy bay Hercules L-100
của chúng tôi tiếp tục thực hiện những chuyến bay thường lệ giữa Baghdad và
Larnaca. Tám chiếc trực thăng đang hoàn toàn hoạt động.
Về quyết định liên quan đến những vấn đề Iraq nêu lên đối với việc chuyên chở
các tham dự viên trong những vùng phi không vận thì việc di chuyển của chúng tôi
trong những vùng này đã được cải tiến. Chúng tôi muốn tăng thêm việc sử dụng các
chiếc trực thăng.
Con số tham dự viên của Iraq trong các cuộc thanh tra thường lên tới mức độ cứ
năm người cho một thanh tra viên. Trong những cuộc nói chuyện vào Tháng Giêng ở
Baghdad, bên Iraq đã đồng ý giữ ở mức độ một người theo một người. Tình trạng
này đã được cải tiến.
Từ khi chúng tôi tới Iraq đến nay, chúng tôi đã thực hiện được hơn 400 cuộc
thanh tra ở hơn 300 địa điểm. Tất cả mọi cuộc thanh tra đều được thực hiện bất
ngờ không thông báo trước, và đường đi nước bước hầu như bao giờ cũng được đáp
ứng ngay. Không có một trường hợp nào chúng tôi nắm được chứng cớ khả tín cho
thấy phía Iraq biết trước những địa điểm các thanh tra viên sẽ đến cả.
Những cuộc thanh tra đã được thực hiện ở khắp Iraq, ở những địa điểm kỹ nghệ, ở
những khu quân nhu, ở những trung tâm nghiên cứu, những đại học, những dinh thự
tổng thống, những phòng thí nghiệm di động, những tư gia, những cơ sở sản xuất
phi đạn, những trại lính và những khu nông nghiệp.
Ở tất cả mọi địa điểm đã được thanh tra trước năm 1998, chúng tôi đã thực hiện
những việc xem xét lại từ đầu. Việc này bao gồm việc xác định phận sự và những
gì chất chức trong mỗi một dinh thự, mới hay cũ, ở một địa điểm. Nó cũng bao gồm
cả việc kiểm chứng máy móc được đánh dấu trước đây, việc đóng chấm và dán nhãn
hiệu, việc lấy những thứ mẫu chất cũng như việc nói chuyện với nhân viên tại chỗ
về những hoạt động quá khứ và hiện tại của nơi ấy. Ở một số địa điểm chúng tôi
đã sử dụng máy dò xuyên thổ để xem có những cơ cấu dưới lòng đất hay máy móc
được chôn giấu hay chăng.
Qua những cuộc thanh tra được đúc kết cho tới nay, chúng tôi đã biết được hơn về
địa hình về kỹ nghệ và khoa học của Iraq, cũng như về khả năng phi đạn tầm xa
của nước này. Thế nhưng, như trước đây, chúng tôi không biết được hết mọi hang
động và ngõ hẻm. Những việc thanh tra đang góp phần một cách hiệu nghiệm vào
việc lấp đầy khoảng cách của sự hiểu biết cần phải có vào thời khoảng giữa tháng
12/1998 và tháng 11/2002 vì thiếu việc thanh tra.
Chúng tôi đã lấy ở các địa điểm khác nhau hơn 200 thứ hóa chất và hơn 1000 thứ
sinh chất. Chúng tôi đã thử nghiệm ba phần tư của các thứ chất này, bằng cách sử
dụng khả năng phân nghiệm riêng của chúng tôi ở trung tâm Baghdad. Cho đến nay
các thành quả cho thấy rất hợp với những gì Iraq đã khai trình.
Hiện nay chúng tôi đã bắt đầu tiến hành việc phá hủy khoảng 50 lít chất hơi bột
cải do Iraq cho biết chúng đã được giữ ở địa điểm Muthanna với con dấu của
UNMOVIC; một phần ba của chất hơi này đã bị hủy đi. Số lượng thử nghiệm của chất
thiodiglycol, một thứ tiền hô của chất hơi bột cải được cúng tôi tìm thấy ở một
địa điểm khác cũng đã được hủy đi.
Tổng số nhân viên thanh tra của chúng tôi ở Iraq hiện nay lên quá 250 người
thuộc 60 quốc gia. Con số này bao gồm cả chừng 100 thanh tra viên của UNMOVIC,
50 thanh tra viên của IAEA, 15 nhân viên hàng không và 65 nhân viên giúp việc.
Thưa Ngài Chủ Tịch, trong bản tường trình cho Hội Đồng ngày 27/1, tôi đã nói là,
theo kinh nghiệm của chúng tôi, thì về nguyên tắc, Iraq dường như đã tỏ ra muốn
hợp tác về vấn đề tiến hành việc thanh tra, nhất là việc họ cho phép đến ngay
tất cả mọi địa điểm và giúp cho UNMOVIC thiết lập những phần khối cần thiết.
Chúng tôi vẫn cảm thấy thái độ này vẫn còn nguyên như vậy, và chúng tôi ghi nhận
là cho tới nay chúng tôi không có gặp trục trặc gì trong việc đến những địa điểm,
bao gồm cả những địa điểm chưa từng được công bố hay thanh tra, cũng như những
địa điểm tổng thống phủ và các tư gia.
Trong bản tường trình trước đây, tôi cũng nói rằng việc tích cực cộng tác về
chất liệu không thể thiếu, để nhờ việc thanh tra, giúp cho công việc giải giới
được hoàn tất, cũng như giúp cho hệ thống kiểm soát được tiến hành vững chắc.
Việc cộng tác này, như tôi đã nhận định, đòi hỏi hơn nữa ngoài việc mở cửa cho
đến các địa điểm. Theo ngôn từ của Quyết Định 1441, nó đòi Iraq phải nỗ lực một
cách trực tiếp, vô điều kiện và chủ động trong việc giải quyết những vấn đề giải
giới hiện nay, bằng việc đưa ra những thứ được cho là nguy hiểm còn lại cùng với
những hoạch định của chúng để loại trừ đi, hay bằng việc đưa ra chứng cớ khả tín
cho thấy chúng đã bị hủy đi rồi.
Trong tình hình hiện nay, người ta mong rằng Iraq cần phải tích cực tuân hợp.
Trong khi ở Baghdad, chúng tôi đã gặp một phái đoàn đại biểu của chính quyền Nam
Phi. Họ đến đây để cho biết Nam Phi đã chiếm được lòng tin tưởng của thế giới ra
sao trong việc nước này giải giới chương trình thực hiện các thứ vũ khí đại công
phá bằng việc hết sức cộng tác trên hai năm với các thanh tra viên IAEA. Tôi
cũng vừa biết được là Iraq đã chấp thuận lời đề nghị của Nam Phi trong việc Nam
Phi gửi một nhóm chuyên viên đến Iraq nói chuyện nhiều hơn.
Những thứ khí giới đại công phá cùng với những chất liệu và chương trình được
cho là nguy hiểm của Iraq, nếu có, còn lại bao nhiêu nữa? Cho đến nay, UNMOVIC
đã không thấy một thứ khí giới nào như vậy, mà chỉ có một số nhỏ những quân nhu
hóa chất rỗng không là những gì đã được công bố và hủy hoại.
Vấn đề khác nữa, một trong những vấn đề quan trọng, đó là có nhiều thứ vũ khí và
chất liệu được cho là nguy hiểm không được kể đến.
Chẳng hạn, một bản văn do Iraq cung cấp đã cho chúng tôi thấy rằng có chừng 1000
tấn tác nhân hóa chất đã không được kể đến. Tôi không muốn vội kết luận là có
những thứ này; tuy nhiên không phải vì thế mà những thứ ấy không thể có. Nếu
chúng có thực, chúng cần phải được cho biết để hủy hoại đi. Nếu chúng không có
thì phải cho thấy chứng cớ khả tín về sự kiện ấy.
Chúng tôi hoàn toàn biết rằng có nhiều cơ quan tình báo của các chính quyền đã
tin tưởng và chủ trương là những thứ khí giới, chất liệu và chương trình được
cho là nguy hiểm, vẫn còn. Việc chứng tỏ quyết đoán này đã được thể hiện qua
buổi trình bày chất liệu của vị bộ trưởng nội vụ Hoa Kỳ.
Các chính quyền có nhiều nguồn tín liệu mà các thanh tra viên không có, Về phần
mình, các thanh tra viên phải căn cứ việc tường trình của mình vào chứng cớ mà
thôi, những chứng cớ tự họ công khai khảo sát và trình bày. Không có chứng cớ
không thể tin được.
Thưa Ngài Chủ Tịch, trong các bản tường trình trước đây của mình, tôi đã ghi
nhận là có những vấn đề quan trọng còn lại về chất liệu được liệt kê trong các
văn kiện của Hội Đồng Bảo An từ đầu năm 1999 và cũng là những vấn đề Iraq đã quá
rõ.
Chẳng hạn, tôi muốn nói đến những vấn đề anthrax, tác nhân thần kinh VX và các
phi đạn tầm xa, và đã cho biết là những vấn đề này, như tôi đã viết, “đáng được
Iraq cẩn trọng lưu ý hơn là chỉ sơ sài vậy thôi”.
Bản trình báo của Iraq ngày 7/12 năm trước, mặc dù dầy cộm, vẫn không cung cấp
tài liệu và chứng cớ mới cần thiết để giải đáp những vấn đề còn thắc mắc.
Có lẽ đây là vấn đề quan trọng nhất chúng tôi đang phải đối diện. Mặc dù tôi
hiểu được rằng Iraq không dễ gì trưng dẫn cho thấy những chứng cớ cần thiết
trong tất cả mọi trường hợp, nhưng nó cũng không phải là công việc tìm kiếm của
các thanh tra viên. Chính Iraq phải hết sức chú trọng đến công việc này và tránh
đừng coi thường những vấn đề ấy.
Trong bản tường trình hồi tháng Giêng cho Hội Đồng, Tôi đã đề cập tới các phi
đạn tầm xa al-Samud II và Al Fatah, những phòng đúc được tái thiết, việc kiến
tạo dàn thử máy phi đạn tầm xa và việc nhập cảng những bộ máy đầu phi đạn, tất
cả đều đã được Iraq trình cho UNMOVIC.
Tôi nhận thấy là phi đạn tầm xa al-Samud II và Al Fatah có thể thuộc về những
thứ phi đạn được coi là nguy hiểm, như chúng đã từng được Hội Đồng Bảo An thử
tầm phóng xa hơn 150 cây số giới hạn của chúng.
Tôi cũng ghi nhận là Iraq đã yêu cầu ngưng lại những cuộc thử bắn những phi đạn
tầm xa này cho đến khi UNMOVIC hoàn tất việc xem xét về kỹ thuật.
Đầu tuần này, các chuyên viên phi đạn tầm xa của UNMOVIC đã họp hai ngày với các
chuyên viên từ một số quốc gia thành viên để bàn về những vật này. Các chuyên
gia đã đồng thanh kết luận là, căn cứ vào các dữ kiện do Iraq cung cấp, thì hai
loại khác nhau của phi đạn al-Samud II có thể vượt quá tầm hạn 150 cây số. Bởi
thế, hệ thống phi đạn này được cho là nguy hiểm đối với Iraq theo Quyết Định 687
và dự án thanh tra được cho vào Quyết Định 715.
Còn đối với phi đạn Al Fatah, các chuyên gia thấy rằng họ cần phải có dữ kiện rõ
ràng về phi đạn do Iraq cung cấp trước khi họ có thể hoàn toàn xem xét hệ thống
phi đạn này.
Về những phòng đúc phi đạn, tôi ghi nhận như sau: UNSCOM đã ra lệnh và thị sát việc hủy hoại của những phòng đúc ấy, những phòng được dùng để sản xuất hệ thống phi đạn Badr 2000 được coi là nguy hiểm. Iraq đã công nhận là họ đã tái thiết những phòng này. Các chuyên gia đã xác định là những phòng đúc được tái thiết này có thể vẫn được sử dụng để sản xuất các bộ máy cho những phi đạn có tầm hoạt động vượt quá 150 cây số. Bởi thế, những phòng này vẫn được coi là nguy hiểm.
Thành phần chuyên viên cũng nghiên cứu dữ kiện về dàn thử máy phi đạn là dàn thử gần được hoàn tất, và đã thẩm định là nó có khả năng của những bộ máy thử phi đạn xuyên mạnh hơn cả dàn thử của bộ máy SA-2. Cho đến nay dàn thử này vẫn không liên hệ gì với hoạt động được cho là nguy hiểm.
Về vấn đề các bộ máy phi đạn 380 SA-2 được nhập cảng ngoài hệ thống xuất nhập
cảng và nghịch với đoạn 24 của bản Quyết Định 687, Iraq đã cho các thanh tra
viên UNMOVIC biết trong một tường trình ngắn chính thức là những bộ máy này sở
dĩ có là để dùng trong hệ thống phi đạn al-
Samud II là hệ thống giờ đây đã được thẩm định là có thể nguy hiểm. Bất cứ bộ
máy nào như thế được sử dụng trong hệ thống phi đạn này đều được cho là nguy
hiểm. Tôi cố ý thông đạt những khám phá này cho chính quyền Iraq.
Ở cuộc họp vào ngày 8 và 9/2, bên Iraq đã cho biết một số những vấn đề giải giới
quan trọng còn lại và đã trao cho chúng tôi một số giấy tờ, chẳng hạn như liên
quan đến anthrax và chất liệu phát triển, chất tác nhân thần kinh VX và việc sản
xuất phi đạn.
Các chuyên gia hiện diện bên phía chúng tôi đã nghiên cứu những giấy tờ này
trong buổi tối ngày 8/2 và đã gặp các chuyên gia Iraq vào buổi sáng 9/2 để làm
sáng tỏ thêm vấn để.
Mặc dù những chứng cớ mới không thấy trong các thứ giấy tờ này và những vấn đề
còn đang được đặt ra không bị bưng bít qua những giấy tờ ấy hay qua các cuộc bàn
luận của các chuyên gia, thì việc tường trình những giấy tờ này cũng nói lên cho
thấy một thái độ tích cực hơn chú trọng đến những những vấn đề quan trọng đang
được đặt ra.
Bên Iraq đề nghị là vấn đề kiểm chứng số lượng chất anthrax và hai chất tiền hô
VX là những gì được tuyên bố đã bị hủy đi một cách đơn phương, có thể chận lại
bằng một số phương pháp về kỹ thuật và phân tích. Mặc dù các chuyên viên của
chúng tôi vẫn còn đang cứu xét lời đề nghị ấy, họ cũng không hy vọng cho lắm
trong việc có thể xem xét số lượng chất liệu đã đổ xuống đất những năm trước đây.
Chúng tôi vẫn cần đến chứng cớ về văn liệu và chứng từ của nhân viên có liên hệ
với những thứ chất liệu này.
Bức thư đề ngày 12/2 của Văn Phòng Giám Đốc Quốc Gia và Thanh Tra Iraq … cho
thấy một danh sách 83 tên tuổi của những người chứng dự, tôi xin trích nguyên
văn, “vào cuộc hủy hoại một cách đơn phương ở hóa chất trường vào mùa hè năm
1991”.
Trong khi vấn đề thiếu chứng cớ đầy đủ về việc hủy hoại ấy đã cho thấy lý do
quan trọng là tại sao số lượng các hóa chất không được kê khai theo như suy đoán,
thì việc đưa ra một danh sách các người có thể phỏng vấn về những hành động ấy
cũng là một việc hữu dụng và liên quan đến việc hợp tác về chất liệu.
Việc vận chuyển quân nhu tại địa điểm, như được cáo trình, có thể dễ dàng được
coi như một hoạt động di chuyển theo thông lệ các thứ quân nhu được coi là nguy
hiểm, khi tiên liệu xẩy ra việc thình lình thanh tra.
Việc chúng tôi nêu lên nhận định riêng của mình về vấn đề này không có nghĩa là
chúng tôi không cảm ơn về việc cáo trình ấy.
Hôm qua, UNMOVIC đã báo cho các vị thẩm quyền của Iraq biết về ý định của mình
muốn bắt đầu chiếc máy bay thị sát U-2 vào đầu tuần tới với những sắp xếp giống
như những gì UNSCOM đã theo.
Chúng tôi cũng đang tiến hành việc xem xét những cách thức sử dụng máy bay
Mirage của Pháp bắt đầu vào cuối tuần tới, cùng với những thứ drones do chính
phủ Đức cung cấp. Chúng tôi cũng đón nhận việc Nga cung cấp cho một chiếc máy
bay Antonov có khả năng nhìn về đêm, và nó là cái kế tiếp cho việc chúng tôi cải
tiến hơn nữa về khả năng kỹ thuật cho UNMOVIC và IAEA.
Những phát triển này được thực hiện theo chiều hướng của những đề nghị được phổ
biến gần đây, không phải trên mặt giấy, ở Pháp cho rằng cần phải tăng cường khả
năng thanh tra hơn nữa.
Chúng tôi có ý định cứu xét đến những khả năng về việc thị sát những di chuyển
trên đất, nhất là những chiếc xe vận tải, theo như những bản tường trình tình
báo liên tục, chẳng hạn về những đơn vị sản xuất các thứ khí giới sinh trùng di
động. Những biện pháp ấy có thể tăng thêm tính cách hiệu nghiệm của việc thanh
tra.
UNMOVIC vẫn còn đang phát triển khả năng của mình, cả về con số nhân viên lẫn
nguồn liệu kỹ thuật. Trên đường đến tham dự cuộc họp ở Baghdad mới đây, tôi đã
ghé qua Vienna để gặp 60 chuyên gia là những người vừa hoàn tất khóa huấn luyện
tổng quát giành cho các thanh tra viên. Họ thuộc 22 quốc gia, kể cả các quốc gia
Ả Rập.
Thưa Ngài Chủ Tịch, UNMOVIC không phải là không thường xuyên dặt vấn đề là còn
cần bao lâu nữa thì hoàn tất công việc của mình ở Iraq. Câu trả lời lệ thuộc vào
công việc người ta đang nghĩ tới, đó là việc loại trừ những thứ khí giới đại
công phá cùng với những chất liệu và chương trình liên hệ, là những gì đã bị cấm
từ năm 1991, công việc giải giới; hay là việc thanh tra không tìm thấy những
hoạt động được coi là nguy hiểm mới khác.
Công việc thứ hai này, mặc dù không được chú ý tới lắm, vẫn hết sức quan trọng
và không chối cãi được. Nó đòi hỏi việc thanh tra liên tục không có kết thúc cho
đến khi Hội Đồng quyết định khác đi.
Ngược lại, công việc giải giới được Bản Quyết Định 687 phác họa và việc tiến
triển ở những việc giải giới chính yếu còn lại được Bản Quyết Định 1284 phác họa,
cũng như trách nhiệm giải giới được cống hiến cho Iraq như một cơ hội tuân hợp
cuối cùng được Bản Quyết Định 1441 phác họa, bao giờ cũng cần phải được hoàn tất
trong một khoảng thời gian ngắn hạn.
Tiếc thay, việc cộng tác ở mức độ cao Iraq cần có đối với việc giải giới bằng
việc thanh tra đã không xẩy ra ở năm 1991. Mặc dù UNSCOM và IAEA đã thị sát việc
loại hủy đi một số lượng lớn những thứ khí giới, những chất liệu có liên hệ với
các thứ khí giới đó cùng với những thiết kế qua nhiều năm, công việc này vẫn
chưa hoàn tất khi những thanh tra viên phải rút lui gần 8 năm sau, vào cuối năm
1998.
Nếu Iraq cống hiến những việc cộng tác cần thiết vào năm 1991 thì giai đoạn giải
giới theo Bản Quyết Định 687 đã được ngắn lại và một thập niên cấm vận đã không
xẩy ra. Hôm nay đây, sau ba tháng từ khi Bản Quyết Định 1441 được chấp thuận,
giai đoạn giải giới bằng việc thanh tra vẫn có thể ngắn, nếu, tôi xin trích lại
là “việc hợp tác trực tiếp, chủ động và vô điều kiện” với UNMOVIC và IAEA được
thể hiện.
Cám ơn Ngài Chủ Tịch.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo tài liệu do
CNN phổ biến ngày 14/2/2003)
23/2 Chúa Nhật
ĐTC Gioan Phaolô II gửi thư cho Thượng Phụ Alexy II
Giáo Chủ Giáo Hội Chính Thống Nga
ĐTGM Antonio Mennini, vị tân khâm sứ của Tòa Thánh Vatican
ở Nga đã chính thức đến thăm Đức Alexy II và đã trao tận tay cho vị thượng phụ
này một bức thư riêng của Đức Thánh Cha. Được biết hai vị gặp nhau này đã “xem
xét những vấn đề chính về lợi ích của cả hai Giáo Hội”. Đức thượng phụ bày tỏ
hai mối quan tâm của Ngài về hai vấn đề theo Ngài đã làm gián đoạn mối liên hệ
giữa hai Giáo Hội, đó là vấn đề “tiếp tục việc dụ giáo của Công Giáo ở Nga” và
vấn đề “tình trạng đau đớn của Chính Thống Giáo ở Tây Ukraine, nơi mà trên 10
năm nay, những người Công Giáo Hy Lạp đã tàn lụi ba giáo phận của Chính Thống”.
Vấn đề thứ hai này liên quan đến cuộc tranh cãi về những người Công Giáo theo lễ
nghi Đông Phương ở Ukraine, nhất là đa số ở Lviv.
Đầu đuôi câu truyện xẩy ra là sau khi Liên Sô chiếm miền này vào năm 1944 thì
Giáo Hội Công Giáo Đông Phương đã bị Stalin dẹp mất. Nhiều vị linh mục đã nhất
định không “trở lại” Chính Thống đã bị sát hại hay bị đầy ải, trong đó có cả
ĐTGM Josyf Slipyj, vị sau này được Nikita Khrushchev thả ra. Những người Công
Giáo theo lễ nghi Đông Phương này, dưới sự lãnh đạo của ĐHY TGM Lubomir Husar đã
trải qua một cuộc tái sinh từ sau cuộc sụp đổ của cộng sản Liên Sô, và đã lấy
lại những nơi thờ phượng là những viêc làm có những lúc đã động chạm đến vị
thượng phụ Moscow này.
Mặc dù có những cuộc tranh luận này, hai vị cũng hướng đến việc “hợp tác giữa
hai Giáo Hội, việc hai Giáo Hội tiếp tục đối thoại trao đổi, cũng như việc loại
trừ đi những trở ngại vẫn còn trên con đường đi của hai Giáo Hội”. Igor Vyzhanov,
vị phát ngôn viên của Đức Thượng Phụ Moscow này, người cũng có mo85t trong cuộc
gặp gỡ ấy, cho cho Zenit biết là “hoàn toàn ngoại giao” và cho biết nhận định
của mình rằng: “rất khó trông đợi thấy được những quyết định có thể đổi thay mối
liên hệ giữa hai Giáo Hội”.
Quốc Hội Đức kêu gọi cấm tất cả mọi thứ tạo sinh
sao bản cloning
Ngày Thứ Sáu 21/2/2003, Quốc Hội Đức đại đa số, đến độ hầu như đồng thanh, đã bỏ
phiếu để chính quyền ủng hộ việc Liên Hiệp Quốc hoàn toàn cấm việc tạo sinh sao
bản cloning. Hầu như tất cả mọi đảng phái chính trị lớn của Đức, như Dân Chủ
Kitô Giáo, Đảng Xanh v.v. đều bỏ phiếu ủng hộ điều này, một điều trái nghịch với
chủ trương của Thủ Tướng Gerhard Schruder là người dẫn đầu việc yêu cầu Liên
Hiệp Quốc cho phép việc thí nghiệm tạo sinh sao bản con người.
Tiểu ban thứ sáu của Hội Đồng Chung của Liên Hiệp Quốc bàn luận việc tạo sinh
sao bản con người từ năm 2001, lúc hai chính quyền Pháp và Đức nêu lên vấn đề
này. Bản dự thảo của Pháp-Đức này yêu cầu cấm bán phần việc tạo sinh sao bản
thôi, việc tạo sinh cho phép những con người được sao bản bị hủy diệt đi trong
việc nghiên cứu y khoa. Vẫn chưa rõ tại sao Đức đã thay đổi chủ trương của mình
khi nói đến vấn đề tạo sinh sao bản này ở Tổng Hành Dinh Liên Hiệp Quốc tháng
9/2002 vừa rồi.
Một Sử Gia nổi tiếng lên tiếng bênh vực Đức Piô
XII về vụ cứu dân Do Thái thời Thế Chiến Thứ II
Một trong những sử gia được coi là nổi tiếng nhất hiện còn sống là Sir Martin
Gilbert đã ca ngợi những nỗ lực của Đức Piô XII đối với dân Do Thái trong suốt
Thế Chiến Thứ II.
Trong một cuộc phỏng vấn ngày 2/2/2003, vị sử gia này đã được chất vấn là Đức
Piô XII có thụ động khi đối đầu với Đảng Nazi hay chăng. Ông đã trả lời rằng:
“Xin hãy đọc tác phẩm mới của tôi, cuốn ‘Kẻ Công Chính’. Tôi đã viết dài dòng
trong cuốn sách này về Giáo Hội Công Giáo, một giáo hội có một số nhà lãnh đạo
đã đóng góp một phần đáng kể trong việc giải cứu những người Do Thái, nhiều vị
linh mục và […] giáo dân Công Giáo đã đóng vai trò đáng kể. Chính Đức Giáo Hoàng
đã được Tiến Sĩ Goebbels (một tác nhân truyền bá Nazi) công bố là Ngài đã đứng
về bên những người Do Thái, qua sứ điệp Kitô Giáo được phổ biến vào tháng
12/1942, một sứ điệp Ngài lên tiếng chỉ trích chủ trương duy chủng tộc. Vị Giáo
Hoàng này cũng đã góp phần được tôi trình bày một số chi tiết trong việc giải
cứu ba phần tư những người Do Thái ở Rôma, khi Ngài cho biết trong vòng một thời
gian rất ngắn để SS đến tụ hợp tất cả 5 ngàn người lại, ít là 4 ngàn trong họ đã
được chỗ trú ngụ trong chính Vatican và các nơi khác của Công Giáo… Bởi vậy, tôi
hy vọng của sách của tôi có thể phục hồi, một cách nào đó, dựa trên nền tảng của
sự kiện lịch sử, những chiếm đạt thực sự và tuyệt vời của những người Công Giáo
trong việc giúp những người Do Thái trong thời gian chiến tranh ấy”.
Tiến Sĩ Gilbert, một người Do Thái, chuyên gia về Chiến Tranh Thứ II và Cuộc Tế
Thần Do Thái. Năm 1968, ông được chỉ định là một người chính thức viết về Sir
Winston Churchill. Ông là tác giả của 70 cuốn sách, trong đó có những cuốn như
Cuộc Tế Thần "The Holocaust", Trại Tập Trung Auschwitz và Nhóm Đồng Minh
"Auschwitz và the Allies", Cuộc Thế Chiến Thứ Nhất "The First World War", Cuộc
Thế Chiến Thứ Hai "The Second World War" và Lịch Sử Thế Kỷ 20 "A History of the
Twentieth Century".
Ba năm trước đây, ông đã xuất bản cuốn “Không Bao Giờ Còn Một Thứ Lịch Sử Tế
Thần Nữa”. Được United Press International phỏng vấn, vị sử gia này cho biết:
“Kitô hữu là thành phần nạn nhân đầu tiên của Nazi… Một trong những điều tôi cố
gắng nói lên trong cuốn sách này đó là các giáo hội Kitô Giáo đã tỏ ra thái độ
cương quyết… Vào giai đoạn xẩy ra Vụ Tế Thần, Giáo Hội này đã không lưỡng lự…
tất cả các vị giám mục chính của Pháp đã lên tiếng phản đối chống lại những việc
đầy ải… Balan đã có những Người Dân Ngoại (đối với dân Do Thái) Công Chính hơn
bất cứ xứ sở nào khác”.
Cũng trong tác phẩm ấy, vị tiến sĩ sử gia này còn cho biết không phải là ông
không biết gì đến có một số Kitô hữu sống phản lại với niềm tin của họ trong
việc không tỏ ra chống lại Nazi, thế nhưng ông cắt nghĩa là “họ làm như thế
không phải bất chấp và không vì tôn giáo của họ. Điều này đặc biết đúng trong
trường hợp Giáo Hội Công Giáo, một Giáo Hội có những giáo huấn về luân lý hoàn
toàn minh nhiên chống lại chủ nghĩa duy chủng tộc, chủ nghĩa phản Giống Dân Sơ
Mít (Semite, một giống dân bao gồm dân Do Thái và Ả Rập) và việc sát nhân. Tôi
cố gắng tìm xem những gì Giáo Hội Công Giáo và các vị trong giáo hội cũng như
chính Đức Pacelli thực sự đã làm. Vậy việc thử thách xẩy đến cho Đức Pacelli đó
là lúc nhóm Gestapo (lực lượng công an bí mật của Nazi) đến Rôma để hốt những
người Do Thái. Giáo Hội Công Giáo, theo lệnh khẩn cấp của Ngài, lập tức phân tán
những người Do Thái bao nhiêu có thể”.
Đối với những lời tố cáo của Daniel Jonah Goldhagen là tất cả mọi người Đức đã
hợp tác với cuộc bắt bớ của Nazi và là những cộng sự viên của Hitler, vị sử gia
Do Thái này cho biết: “Có những người ở Đức, mặc dù bị áp lực khủng khiếp của
nhóm Gestapo, đã hết sức liều mình để cứu những người Do Thái, và họ đã cố giúp
những người Do Thái… Có nhiều tay Schindler, thay vì tác hành như những kẻ khống
chế xấu xa, đã tỏ ra những nỗ lực lớn lao để cứu những người Do Thái, không phải
những cá nhân Do Thái mà đôi khi cả hàng tá và thậm chí hằng trăm người. ‘Mặt
trái của đồng tiền’ đã được hoàn toàn chứng tỏ trong cuốn ‘Kẻ Công Chính’, một
cuốc sách có cả một chương về đức anh hùng của Người Đức.
Đối với việc Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi trong
Năm Thánh 2000, vị tiến sĩ sử gia Do Thái nổi tiếng này nói rằng ông hết sức cảm
kích việc Đức Giáo Hoàng đã nhìn nhận những lạm dụng mà một số người Công Giáo
đã phạm đến những người Do Thái trong quá khứ. Thế nhưng, ông nhấn mạnh là “việc
làm này không được nhìn một chiều, như thường thấy hiện nay. Nếu vị Giáo Hoàng
này đã phải xin lỗi thì có lẽ người ta cũng phải cám ơn Ngài. Thật vậy, tác phẩm
của tôi thực sự đã cám ơn Ngài về những gì Tòa Thánh Vatican đã làm để cứu mạng
sống của người Do Thái”.
Bàn Cờ Iraq: chiến tranh tâm lý và chính trị
|
Hôm Thứ Năm 20/2/2003, vị lãnh sự Iraq ở Liên Hiệp Quốc là
Mohamed Aldouri cho biết chính phủ của ông đã gửi một bức thư cho Tổng Thư Ký
Liên Hiệp Quốc Kofi Annan để “bác bỏ” những tố cáo của Hoa Kỳ là nước của ông có
các thứ khí giới đại công phá và ủng hộ các tay khủng bố. Ông cho biết bức thư
dài 20 trang này phủ nhận hết những gì Bộ Trưởng Nội Vụ Hoa Kỳ Colin Powell đã
nói với Hội Đồng Bảo An hôm 5/2/2003.
|
Cũng hôm Thứ Năm 20/2/2003, ngoại trưởng Nga Igor Ivanov
đã nói, tuy không công khai nói rõ nước nào, việc làm áp lực cho các thanh tra
viên phải ra khỏi Iraq để mượn cớ tấn công Iraq. Tuy nhiên, một viên chức cao
cấp Nga đã cho CNN biết là ông ta ám chỉ Hoa Kỳ. Thật vậy, trong một cuộc họp
báo vị ngoại trưởng này cho biết Moscow đã nhận được tín liệu nói rằng các thanh
tra viên “đang bị một áp lực hết sức mãnh liệt… buộc những thanh tra viên này
rời Iraq như họ đã làm vào năm 1998 hay buộc họ phải cho Hội Đồng Bảo An Liên
Hiệp Quốc những thẩm định có thể được sử dụng như bình phong để bắt đầu thực
hiện việc ra quân”. Ông nói Moscow đã kêu gọi các thanh tra viên hãy tiếp tục
“thi hành một cách khách quan việc làm chuyên nghiệp của họ, và cộng đồng thế
giới phải cung cấp cho họ tất cả những trợ giúp về chính trị cần thiết chứ đừng
làm áp lực trên họ”. Vị ngoại trưởng này đồng thời cũng kêu gọi Iraq hãy hoàn
toàn cộng tác với các thanh tra viên: “Chúng ta đạt được các kết quả cụ thể càng
sớm từ những hoạt động của các thanh tra viên quốc tế thì chúng ta càng có nhiều
cơ hội để ổn định chính trị”. Nga Số đã từng tuyên bố không ủng hộ bất cứ một
quyết định mới nào của Liên Hiệp Quốc cho phép sử dụng võ lực, và vị ngoại
trưởng này tin tưởng tình hình có thể được giải quyết trong phạm vi của quyết
định 1441.
Ngày hôm sau, Thứ Sáu, 21/2/2003, trong một cuộc họp báo, lãnh sự Iraq ở Nga là
Abbas Khalaf đã cho các phóng viên báo chí biết rằng lời công bố của ngoại
trưởng Nga ấy đã xác nhận những lời tố cáo của Iraq từ năm 1998 là Iraq không
trục xuất các thanh tra viên mà là Hiệp Chủng Quốc đã truyền lệnh cho họ phải bỏ
Iraq để làm cớ tấn công Iraq. Ông lãnh sự này nói: “Baghdad đã cảnh giác toàn
thể thế giới về điều này từ lúc ấy, thế nhưng không ai chịu tin họ lại còn thậm
chí cho rằng Iraq đã trục xuất các thanh tra viên”. Vị lãnh sự này còn thừa
thắng xông lên cho Hoa Kỳ thực hiện những cuộc vận động “ngôn từ té re” (verbal
diarrhea) để chống Iraq. Tòa Bạch Ốc, theo ông, giờ đây là một “Tòa Hắc Ám bốc
lên khói lửa chiến tranh”. Vị lãnh sự này cho biết tòa lãnh sự của ông ở Nga
ngày đêm nhận được điện thoại tỏ tình đoàn kết với Iraq. Trả lời cho vấn đề giới
truyền thông cho biết có nhiều người tình nguyện muốn đến Iraq để chiến đấu cho
Iraq, ông trả lời “chúng tôi không cần dân chúng chiến đấu cho Iraq”, nhưng ông
từ chối không cho biết Iraq có cấp giấy nhập cảnh cho những tình nguyện viên này
hay chăng. Ông nói rằng Iraq hoan nghênh những ai “phủ nhận” chiến tranh đối với
Hoa Kỳ. Ông cho biết các ký giả Nga được ưu tiên cấp giấy nhập cảnh vào Iraq,
nhưng ông không cấp giấy này cho các ký giả của CNN, của truyền hình Nhật Bản và
các cơ quan thông tin khác ở Moscow.
|
Cũng hôm Thứ Năm 20/2/2003 này, tại Hoa Kỳ, Bộ Trưởng Quốc
Phòng Donald Rumsfeld cho biết trong một cuộc phỏng vấn với PBS: “Chúng tôi đã ở
vào lúc nếu được tổng thống quyết định là Bộ Quốc Phòng sửa soạn và có khả năng
cùng sách lược làm điều này”. Tuy nhiên, ông cho biết, việc chuyển quân đến
Trung Đông không có nghĩa là không thể tránh được chiến tranh. Theo ông, chiến
tranh chỉ có thể tránh được một khi Iraq tuân hợp với những đòi hỏi giải giới
của Liên Hiệp Quốc, hay Tổng Thống Saddam Hussein quyết định tự nguyện bỏ xứ ra
đi hoặc bị dân chúng lật đổ.
Thứ Sáu, 21/2/2003, một viên chức Hoa Kỳ nói rằng bản quyết định dự thảo mới do
Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc phác họa hy vọng cùng lắm sẽ xong vào Thứ Hai
hay Thứ Ba tới đây, và Hội Đồng Bảo An sẽ bỏ phiếu vào tuần thứ hai của Tháng Ba,
sau ngày 7/3 là ngày ban thanh tra vũ khí tường trình kết quả thanh tra của họ
cho hội đồng này lần thứ ba. Bản quyết định mới do hai cường quốc này phác họa
nhắm vào ngôn từ nhấn mạnh đến việc có thể sử dụng quân sự để tấn công Iraq. Hai
nước này đang thực hiện những cuộc vận động ngoại giao (chẳng hạn bộ trưởng nội
vụ Powell đang vận động các nước Á Châu như Nhật có chân trong hội đồng này và
Tổng Thống Bush gặp Thủ Tướng Tây Ban Nha Jose Maria Aznar vào Thứ Sáu và Bảy
tại nông trại của ông ở Crawford) để kiếm phiếu thuận cho đủ 9 phiếu trong 15,
trong đó không có một phiếu nào phủ quyết veto của một trong 5 quốc gia thường
trực, trong đó có Pháp, Nga và Tầu. Nguồn tin cũng cho biết, nếu cảm thấy không
kiếm nổi số phiếu thuận này thì bản quyết định mới của họ có thể sẽ không được
chiềng làng.
|
Cũng vào Ngày Thứ Sáu 21/2/2003, trưởng ban thanh tra Hans
Blix đã trao cho vị lãnh sự Iraq là Mohammed Aldouri ở Liên Hiệp Quốc một bức
thư cho biết Iraq phải hủy hoại những phi đạn tầm xa al-Samound-2 kể từ ngày
1/3/2003. Vẫn biết, theo tường trình của ông Blix lần hai với Hội Đồng Bảo An
vừa rồi thì những phi đạn tầm xa này không trái với qui định của Liên Hiệp Quốc.
Tuy nhiên, sau đó, một phái đoàn thanh tra quốc tế đã thử lại và thấy rằng các
phi đạn này có thể bắn xa hơn 30 cây số ngoài hạn định 150 cây số của nó. Theo
bức thư của ông Blix thì việc hủy hoại này phải được thực hiện trước sự chứng
kiến của các thanh tra viên và bao gồm tất cả những gì thuộc về nó, kể cả xăng
nhớt, văn kiện, đồ thử, nhưng không liên quan gì đến các cơ sở chế tạo của nó
như Hoa Kỳ đòi cũng phải được phá hủy. Phương pháp hủy hoại có thể bằng cách
“phá nổ, nghiền nát, nung chảy hay các phương pháp thể lý hoặc hóa chất khác”.
|
Trong cuộc phỏng vấn với CNN tuần vừa rồi, Phó Thủ Tướng Tariq Aziz cho biết chế độ Iraq sẽ chống lại lệnh này: “Những phi đạn tầm xa không cần phải bị phá hủy vì chúng thực tế ở trong tầm mức chúng tôi được phép có”. Theo vị phó thủ tướng này thì sở dĩ những phi đạn tầm xa ấy có thể đi xa hơn giớin hạn của chúng là vì chúng được thử không có những máy móc hướng dẫn. “Vấn đề hoàn toàn bất công và không thể chấp nhận được bởi bất cứ những tiêu chẩn khoa học và an ninh nào… Việc hủy hoại cần phải được căn cứ vào lý trí, một lý trí gắn liền với những vấn đề an ninh và hòa bình”.
|
Thứ Bảy 22/2/2003, sau khi gặp Thủ Tướng Jose Maria Aznar
Tây Ban Nha tại nông trại của ông ở Texas, Tổng Thống Bush đã cho báo chí biết
rằng: “Quyết Định 1441 không cần những dấu hiệu cho thấy tiến bộ hay những dấu
hiệu thụt lùi nho nhỏ. Nó đòi phải hoàn toàn và lập tức giải giới. Đó là vấn đề
duy nhất trước hội đồng này mà thôi”. Vị tổng thống và thủ tướng này đã gọi điện
thoại cho Thủ Tướng Tony Blair và Thủ Tướng Ý Silvio Berlusconi về việc sử dụng
chữ nghĩa cho bản quyết định mới họ đang soạn thảo. Cho tới nay, trong Hội Đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc phe chủ chiến mới có 4, đó là Hiệp Chủng Quốc, Hiệp Vương
Quốc, Tây Ban Nha và Ý Đại Lợi, còn phe chủ hòa có Pháp, Nga, Tầu, Đức và các
nước còn lại, như Angola, Cameroon, Guinea, Pakistan, Syria, Chí Lợi và Mễ Tây
Cơ. Sau khi gặp Tổng Thống Bush, Thủ Tướng Tây Ban Nha đi đến hai nước thành
viên của hội đồng này là Chí Lợi và Mễ Tây Cơ để kéo vây cánh.
|
Cũng vào ngày Thứ Bảy 22/2/2003, trong một cuộc họp với
Đảng Xanh của mình ở Bá Linh, Ngoại Trưởng Đức là ông Joschka Fischer đã cảnh
giác về việc chiến tranh đánh Iraq có thể sẽ làm tăng cường nạn khủng bố. Ông
vẫn tỏ lập trường chống chiến tranh của Đức trong khi việc thanh tra đang tiến
hành tốt đẹp: “Câu hỏi chính yếu là: ‘Liệu nạn khủng bố thế giới có bị suy yếu
hay lại không ngờ làm tăng phát vì việc sử dụng quân sự?’ Vậy thì điều này có
nghĩ a là gì chẳng những đối với tình trạng yên ổn của miền này cũng như của
tình trạng an ninh của chúng ta? Đó là lý do tại sao tôi tin rằng chiến tranh
chỉ là giải pháp cuối cùng, chứ không phải là giải pháp kế tiếp. Tôi sợ là chúng
ta đang đi lạc hướng… Chúng ta muốn có một đường lối để giải giới, nhưng phải là
đường lối can thiệp phi quân sự. Chúng ta không muốn thấy xẩy ra cuộc chiến
tranh giải giới vì tôi không nghĩ rằng nó sẽ giải quyết được các vấn đề”.
Cũng vào Ngày Thứ Bảy 22/2/2003, một bản tuyên ngôn đã được các ngoại trưởng
chấp thuận để sửa soạn cho cuộc họp thượng đỉnh vào Thứ Hai tới đây của Phong
Trào Non-Aligned Movement gồm 114 quốc gia, hầu hết là các quốc gia đang phát
triển, với con số 55% tổng số dân trên thế giới và gần 2/3 quốc gia thành viên
của Hội Đồng Bảo An. Iraq là một trong những quốc gia đứng ra thành lập phong
trào này, một phong trào được lập nên từ năm 1955 để trở thành một đường lối
trung lập giữa Hiệp Chủng Quốc và Liên Bang Sô Viết. Bản tuyên ngôn này chất
chứa những điểm chính yếu sau đây: nếu Iraq tiếp tục hợp tác với các thanh tra
viên trong việc loại trừ các thứ vũ khí đại công phá thì các thứ cấm vận từ năm
1991 phải được dẹp bỏ; khuyên Iraq tuân hợp Quyết Định 1441 của Hội Đồng Bảo An
và tỏ ra chiều hướng không muốn thấy xẩy ra một cuộc tấn công. Bản tuyên ngôn
này là việc đáp ứng của tình trạng xuống đường biểu tình khắp thế giới chống
chiến tranh cuối tuần vừa rồi. Bản văn viết: “Chúng tôi lập lại quyết tâm của
chúng tôi với những nguyên tắc nồng cốt của vấn đề phi võ lực cũng như vấn đề
tôn trọng chủ quyền, sự nguyên vẹn về lãnh thổ, tình trạng độc lập về chính trị
an ninh của tất cả mọi quốc gia phần tử”.
22/2 Thứ Bảy
ĐTC tiếp và kêu gọi Thủ Tướng Tony Blair của Hiệp Vương
Quốc hãy tránh thảm trạng chiến tranh
|
Trước ngày gặp ĐTC, vị thủ tướng này đã gặp thủ tướng Ý là Silvio Berlusconi. Ông nói: “Tôi hoàn toàn hiểu được việc các phần tử của giáo hội hay thật sự cả nơi xã hội không thích chiến tranh. Đó là lý do tại sao chúng tôi đã cố gắng tránh chiến tranh qua 12 năm trường cùng với mấy tháng ở Liên Hiệp Quốc. Tôi hiển nhiên là biết rất rõ các quan điểm của vị giáo hoàng này và những quan điểm ấy rất minh bạch… Xin cho tôi nói thẳng điều này, đó là chúng tôi không muốn chiến tranh, không ai muốn chiến tranh cả. Những lời được Đức Giáo Hoàng diễn tả cho thấy… đó là việc dân chúng lưỡng lự tiến tới chỗ chiến tranh ngoại trừ đó là giải pháp cuối cùng. Đó cũng là chủ trương của chúng tôi”. Thế nhưng, vị thủ tướng này vẫn chủ trương: “Saddam một là giải giới một cách ôn hòa hay là hắn sẽ bị giải giới bằng võ lực. Thế nhưng, cuối cùng tôi không thể tránh được việc này trừ phi Saddam chọn đường lối giải giới ôn hòa. Hắn biết rằng hắn phải làm gì và hắn có khả năng làm điều đó. Vấn đề là hắn có muốn làm hay chăng”. Phần thủ tướng Ý thì cho biết: “Chúng tôi không phải là những người muốn chiến tranh xẩy ra. Chúng tôi muốn đạt được việc giải giới ôn hòa”.
ĐTGM Canterbury, Rowan Williams, vị lãnh đạo 70 triệu tín đồ Anh Giáo,
trong đó có thủ tướng Blair, cũng vào
chính ngày thủ tướng Tony gặp thủ tướng Ý hôm Thứ Sáu, đã đặt vấn đề về hậu quả
chiến tranh với Iraq như sau: “Tôi không nghĩ rằng người ta có thể phủ nhận là
không có lý do luân lý nào về việc gây ra chiến tranh đối với trường hợp nhân
đạo của nhân dân Iraq. Vấn đề là phải chăng có những thứ can thiệp sẽ làm cho
tình trạng tệ hại hơn cho dân chúng ở Iraq cũng như ở vùng đó”.
Hôm thứ Bảy 1/2/2003, CNN đã cho biết Vị Giám Mục lãnh đạo Giáo Hội United
Methodist là Melvin G. Talbert, 68 tuổi, tức vị lãnh đạo tôn giáo của Tổng Thống
Bush, cũng đã lên tiếng nhận định về lý do chính đáng và hậu quả tại hại của
chến tranh là: “Iraq chưa từng phạm đến chúng ta. Chiến tranh chỉ làm xuất hiện
thêm nhiều tay khủng bố và tạo nên một thế giới nguy hiểm hơn cho con cái của
chúng ta mà thôi”.
|
Đúng như dự định, Thủ Tướng Hiệp Vương Quốc Tony Blair đã
đến triều kiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hôm Thứ Bảy 22/2/2003 trong vòng 30
phút. Vị Thủ Tướng này là một người theo Anh Giáo, nhưng người vợ tên Cherie lại
là Công Giáo. Theo văn phòng báo chí của Tòa Thánh Vatican thì ĐTC đã lợi dụng
dịp này để lập lại chủ trương rõ ràng của Ngài là: “đối với tình hình trầm trọng
ở Iraq, cần phải hết sức tránh những chia rẽ mới trên thế giới”, tức cần phải
hết sức nỗ lực “để ngăn chặn thảm cảnh chiến tranh”. Các tờ nhật báo Ý đã trích
dẫn từ những nguồn tin từ Tòa Thánh Vatican cho biết là Đức Giáo Hoàng đã lưỡng
lự trong vấn đề gặp vị thủ tướng này, vì ông quyết định giải giới Iraq bằng võ
lực nếu Saddam Hussein không chịu tuân theo ý muốn của Liên Hiệp Quốc.
Quan Điểm của Tòa Thánh về Vấn Đề Iraq tại Liên Hiệp Quốc
Trong buổi họp của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc Thứ
Tư 19/2/2003 về vấn đề Iraq, ĐTGM Celestino Migliore, quan sát viên thường trực
của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc, đã phát biểu quan điểm và chủ trương của Tòa
Thánh như sau:
|
Thưa Ngài Chủ Tịch,
Cám ơn Ngài đã cho tôi có cơ hội để bày tỏ mối quan tâm và lo âu sâu xa của Tòa
Thánh chúng tôi về vấn đề Iraq cũng trong Căn Phòng của Hội Đồng Bảo An này, nơi
mà những vấn đề liên hệ với hòa bình và an ninh thế giới được bàn luận để giúp
cho thế giới tránh khỏi nạn chiến tranh. Lợi dụng cơ hội này, thưa Ngài Chủ Tịch,
tôi hân hoan nhắc đến cuộc gặp gỡ thành đạt của Tổng Thư Ký Kofi Annan và ĐTC
Gioan Phaolô II tối hôm qua ở Vatican.
Thưa Ngài Chủ Tịch,
Ngay từ khi bắt đầu, Tòa Thánh chúng tôi bao giờ cũng nhìn nhận vai trò bất khả
thay thế của cộng đồng quốc tế trong việc giải quyết vấn đề tuân hợp của Iraq
đối với các quyết định của Liên Hiệp Quốc.
Về khíacạnh này, Tòa Thánh chúng tôi nhận thấy rằng cộng đồng quốc tế đã có lý
để mà lo âu và đang nêu lên một lý do chính đáng và khẩn trương trong việc giải
giới những lò vũ khí đại công phá, một đe dọa nổi lên chẳng những ở một miền duy
nhất mà tiếc thay còn ở các phần đất khác trên thế giới chúng ta nữa. Tòa Thánh
tin rằng, với những nỗ lực vận dụng sức mạnh từ dồi dào những phương thế ôn hòa
theo luật lệ quốc tế, thì vấn đề sử dụng võ lực không phải là một phương tiện
chính đáng. Cùng với những hậu quả trầm trọng gây ra cho thành phần dân chúng đã
từng bị thử thách quá lâu, còn có cả những viễn ảnh đen tối về những thứ căng
thẳng và xung khắc giữa các dân tộc và các nền văn hóa, cùng với viễn ảnh về
việc tái diễn một cuộc chiến tranh bất thỏa thuận được dùng như đường lối để
giải quyết những tình hình không thể nắm bắt.
Tòa Thánh chúng tôi hết sức theo dõi những diễn biến như thế và bày tỏ việc ủng
hộ những nỗ lực của cộng đồng quốc tế hướng về việc giải quyết cuộc khủng hoảng
này trong lãnh vực pháp luật quốc tế. Để đạt mục đích này và chú trọng đến nó,
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vừa mới sai một Vị Sứ Giả Đặc Biệt đến Baghdad để
gặp Tổng Thống Saddam Hussein và trao cho ông một Sứ Điệp nhấn mạnh, ngoài những
vấn đề khác, đến nhu cầu cần phải có những dấn thân cụ thể trong việc trung
thành gắn bó với những quyết định hiện hành của Liên Hiệp Quốc. Một sứ điệp
tương tự như vậy cũng được chuyển đến Ông Tarek Aziz, Phó Thủ Tướng Iraq, vị đến
thăm Đức Giáo Hoàng ngày 14/2 vừa rồi. Ngoài ra, trước hậu quả tàn khốc của một
cuộc can thiệp bằng quân sự có thể xẩy ra, Vị Sứ Giả Đặc Biệt của Đức Giáo Hoàng
cũng đã kêu gọi lương tâm của tất cả những ai đóng vai trò trong việc quyết định
tương lai của cuộc khủng hoảng này vào những ngày quyết liệt tới đây “vì, cuối
cùng, chính lương tâm mới là phán quyết cuối cùng, mạnh hơn tất cả mọi sách lược,
tất cả mọi ý hệ cũng như tất cả mọi tôn giáo”.
Thưa Ngài Chủ Tịch,
Tòa Thánh chúng tôi tin rằng mặc dù tiến trình thanh tra vũ khí có vẻ hơi chậm,
song nó vẫn là đường lối hiệu nghiệm có thể dẫn đến việc xây dựng một cuộc đồng
thuận mà, nếu được Các Nước rộng rãi tỏ ý, đến nỗi không một Chính Quyền nào có
thể làm khác đi mà lại không bị thế giới cô lập. Bởi thế, Tòa Thánh chúng tôi
cũng thấy rằng nó còn là một đường lối thích hợp có thể dẫn tới một quyết định
được chấp nhận và đáng tôn trọng cho vấn đề này, một quyết định ngược lại có thể
đặt nền cho hòa bình thực sự và bền vững.
“Chiến tranh không bao giờ có thể là một phương tiện con người có thể chọn lựa
để sử dụng trong việc ổn định những khác nhau giữa các quốc gia. Như Hiến Chương
của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc và chính luật pháp quốc tế nhắc nhở chúng ta rằng,
không thể quyết định chiến tranh, ngay cả khi nó là vấn đề bảo toàn cho công ích,
trừ phi nó là giải pháp cuối cùng và thuận hợp với những điều kiện rất ngặt
nghèo, song phải chú trọng tới những hậu quả gây ra cho thành phần dân sự cả
trong và sau những hoạt động quân sự” (Address of Pope John Paul II to the
Diplomatic Corps, 13 January 2003).
Về vấn đề Iraq, đại đa số cộng đồng thế giới đang kêu gọi một giải pháp ngoại
giao cho cuộc tranh luận này cũng như cho việc tìm kiếm tất cả mọi đường lối
giải quyết ôn hòa. Không được coi thường lời kêu gọi ấy. Tòa Thánh chúng tôi
khuyên những ai có liên quan hãy cởi mở đối thoại để có thể mang lại những giải
pháp ngăn chặn chiến tranh có thể xẩy ra và chúng tôi cũng xin cộng đồng thế
giới hãy lãnh trách nhiệm của mình trong việc đối đầu với những thiếu sót của
Iraq.
Thưa Ngài Chủ Tịch, trước khi chấm dứt lời phát biểu này, xin cho phép tôi được
vang vọng lại trong Căn Phòng hòa bình này những lời chan chứa hy vọng của Vị Sứ
Giả Đặc Biệt của Đức Gioan Phaolô II gửi đến Iraq: “Hòa bình vẫn còn khả dĩ ở
Iraq và cho Iraq. Bước tiến nhỏ bé nhất trong mấy ngày nữa đây đáng giá là một
cái nhẩy vọt tới hòa bình”.
Tôi xin cám ơn Ngài Chủ Tịch.
Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo tài liệu do
Zenit phổ biến ngày 20/2/2003