GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

Ý Chỉ của Đức Thánh Cha cho Tháng 10/2003

 

Ý Chung: “Xin cho giới trẻ biết theo Chúa Kitô là Ðường, là Sự Thật và Sự Sống, bằng một lòng nhiệt thành quảng đại và sẵn sàng làm chứng cho Người trong tất cả mọi hoàn cảnh họ sống”.


Ý Truyền Giáo: “Xin cho Giáo Hội được Chúa không ngừng ban cho các Vị Chủ Chăn sâu xa khôn ngoan và dồi dào thánh đức, sẵn sàng bênh vực ánh sáng Phúc Âm cho đến tận cùng trái đất”.

 

___________________________________________

 26/10-1/11/2003

Giovanni Paolo II

 

1/11 Thứ Bảy


Thánh Jeronimo HERMOSILLA VỌNG (LIÊM)
Giám mục dòng Đaminh
(1800 - 1861)


Cột Trụ Giáo Hội Việt Nam

Thánh Hermosilla Liêm là một trong ba vị thừa sai lỗi lạc và can đảm nhất trong lịch sử Giáo hội Việt Nam, sánh bước với Đức cha Cuénot Thể (1835-1861, địa phận Đàng Trong) và Đức cha Retord Liêu (1840-1858, địa phận Đàng Ngoài), ba cột trụ chống đỡ Giáo hội Việt Nam trong những giai đoạn khó khăn thời bách hại. Riêng Thánh Giám mục Liêm luôn luôn đứng đầu sổ truy nã của ba triều đại vua và các tổng đốc Nam Định, đã khéo léo khi ẩn khi hiện, hoàn thành trách nhiệm một cách tuyệt vời.

Ba mươi ba năm thừa sai không một ngày yên ổn. Hai mươi năm giám mục chứng kiến bao cảnh tang thương, nhưng chính ngài đã chủ phong cho bốn giám mục (Đức cha Kimeno Lâm, Marti Gia, Alcazar Hy và Sanjurjo An), và truyền chức cho nhiều linh mục bản xứ, đã điều khiển địa phận Đông Đàng Ngoài phát triển vững chắc, đủ khả năng tách làm hai, và khi ngã gục dưới lưỡi gươm của lý hình, thì theo sử gia Rodriguez: Ngón tay phải ngài vẫn chỉ lối cho nhân loại hướng đến một vì sao.

Thỏa Niềm Ước Mong

Thánh Jeronimo Hermosilla Liêm sinh ngày 30.9.1800 tại Santo Dimongo de la Calzada (nước Tây Ban Nha) trong một gia đình tuy nghèo nhưng đạo đức. Từ nhỏ, cậu được theo học với các cha dòng Biển Đức và có ý định xin vào dòng này năm 15 tuổi. Thời đó, nước Tây Ban Nha đang chịu sự thống trị của Napoléon I, các dòng tu không được nhận người. Hermosilla được giới thiệu qua học tại chủng viện địa phận Valencia do các cha dòng Đaminh điều hành. Duyên kỳ ngộ này đã đưa cậu đến dòng thuyết giáo và lãnh tu phục năm 19 tuổi.

Năm sau (1820), nước Tây Ban Nha có loạn, một số tu viện phải giải tán, tài sản Giáo hội bị xung công, các giáo sĩ không tuyên thệ trung thành với hiến pháp mới đều bị bắt giam, bị lưu đầy hoặc bị giết. Hermosilla đành phải rời nhà dòng, đăng ký vào quân đội cho đến năm 1823. Khi vua Fernando khôi phục lại quyền bính, cậu xin vào nhà tập và khấn dòng ngày 29.10.1823. Ba năm quân ngũ sẽ mãi mãi lưu lại nơi vị tu sĩ này tính xông pha, lòng gan dạ, và đức kiên nhẫn.

Năm 1824 khi đọc thư kêu mời của tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi Manila, thầy Hermosilla và mười một người khác liền tình nguyện đi truyền giáo ở Viễn đông. Sau sáu tháng lênh đênh trên biển, ngày 2.3. năm sau, mười hai tu sĩ này đã đến Manila quỳ phục dưới chân cha giám tỉnh và thưa: “Này con đây xin hãy sai con”. Quả là niềm vui lớn lao của tỉnh dòng, vì hai mươi năm qua, tỉnh dòng chỉ đón nhận được hai mươi bảy người bên cạnh con số tám mươi sáu vị đã qua đời vì tuổi già. Năm 1826 thầy Hermosilla lãnh chức linh mục và làm giám đốc Hội Mân Côi. Năm 1828, cha tình nguyện đến Việt Nam cùng với ba thừa sai Pháp, khởi hành từ Macao đến Bắc Việt ngày 2.5.1829. Chín giờ tối, cha tới trụ sở cha chính Amandi Chiêu, và sáng hôm sau cha tới trình diện Đức cha Delgado Y.

Tả sao cho biết niềm vui của vị giám mục. Cả địa phận Đông Đàng Ngoài chỉ có ba vị thừa sai, gồm hai Đức cha Y và Henares Minh, cha chính Hiền, nhưng cả ba vị đều già và bệnh tật. Vừa thấy vị thừa sai mới, Đức cha đã chạy ra và vui sướng: “Vọng, vọng, ước vọng, ước vọng”. Và từ đó, “Vọng” trở thành tên gọi chính thức của cha Hermosilla. Sau vài tháng miệt mài học tiếng Việt, cha Vọng đã không phụ lòng mong đợi của các bậc đàn anh. Cha hòa mình rất nhanh với các tín hữu cũng như người ngoại giáo, tất cả là hy sinh và yêu thương. Không hề mệt mỏi, vị thừa sai ba mươi tuổi không ngừng di chuyển viếng các họ đạo, giảng dạy, rửa tội, và giải tội. Nỗi buồn duy nhất của cha là việc nhiều quá mà làm không xuể. Cha liền viết thơ xin bề trên gởi thêm những tu sĩ trẻ, khỏe mạnh và hăng hái khác.

Danh “Trùm Vọng” Thời Vua Minh Mạng

Mười một thừa sai đầu tiên, cha Vọng là linh hồn các hoạt động truyền giáo của dòng Đaminh trong địa phận: Bốn năm phụ tá cha chính Amandi Chiếu, ba năm bề trên dòng, một năm phụ tá cha chính Hiền, rồi thay thế ngài từ năm 1838. Nhưng thực tế, những khi làm phụ tá, vì cha chính già yếu, mọi công việc đều do cha Vọng điều hành. Cha đã nâng số linh mục bản xứ lên đến bốn mươi, đủ sức đương đầu với cơn bách hại sắp tới.

Bão tố đã thực sự bùng lên trên địa phận Đông Đàng Ngoài từ năm 1838, khởi từ sáu lá thơ cho bốn thừa sai và hai linh mục Việt Nam của cha Viên bị phát hiện. Hai giám mục và cha chính chịu tử đạo, nhiều linh mục, tu sĩ giáo dân đã đổ máu vì đức tin. Cũng vì một trong sáu lá thơ gửi cho cha Vọng, nên “danh trùm Vọng” được ghi vào đầu sổ bộ truy lùng của vua Minh Mạng và quan tổng đốc Trịnh quang Khanh. Chiếu chỉ 18.1.1839 dành một đoạn nói về cha:

“Hãy còn danh trùm Vọng chưa bắt được, dù quan quyền, dù thứ dân, chẳng kỳ ai, hễ bắt được sẽ lãnh thưởng mười ngàn quan tiền...”.

Để giúp dân dễ nhận diện, vô tình vua Minh Mạng lại cho chúng ta biết đôi nét về chân dung của vị thừa sai này: “Người cao lớn, mũi dài, râu rậm, cặp mắt tinh anh và hơi xám, nước da trắng trẻo, khuôn mặt phương phi...”. Đúng là chân dung của một con người nghị lực không bao giờ chịu lùi bước. Quả thực, trong giai đoạn này tuy rất thận trọng, cha Vọng vẫn đi khắp nơi an ủi người này, khích lệ kẻ kia, và trao ban các bí tích như coi thường cơn giận dữ của “hỏa ngục”. Dĩ nhiên không phải là không có những giây phút hồi hộp, khi thì suýt bị bắt với Đức cha Y, khi thì bị cắm đầu cắm cổ vượt vòng vây chạy trốn. Có những lần một mình đi giữa đêm tối trên những đoạn đường quanh co xa lạ.

Thoát Chết Trong Đường Tơ Kẽ Tóc

Chúa gìn giữ cha Vọng trong nhiều trường hợp kỳ lạ. Lần kia, tại xứ Liễu Dinh, một người lính đã thấy cha trong phòng, liền gọi đồng đội ra tiếp sức. Đến khi họ vào, cha ngồi sau màn cầu nguyện: “Xin cho ý Chúa được thể hiện...”. Thế mà lính không thấy gì cả, cho đến khi họ nhìn thấy một cụ già có râu ngoài sân, liền nhào ra bắt nhầm, và cha có thời giờ chạy trốn thoát. Lần khác, quan tổng đốc Trịnh quang Khanh dẫn tám trăm lính với hàng chục chiếc thuyền, bao vây làng cha đang ẩn trốn, bỗng trời tối giông bão, thế là quan quân hoàn toàn thất bại: hai thuyền bị đắm và nhiều chiếc bị trôi dạt kéo theo ba sĩ quan và các lính thủy.

Vào cuối thời vua Minh Mạng, địa phận chịu thiệt hại đáng kể. Trên một ngàn nhà thờ bị gỡ xuống, có nơi phải nộp gỗ ván cho quan tỉnh. Các chủng viện, bốn mươi nhà chung, đều bị triệt hạ và giải tán mỗi người mỗi nơi, giáo dân thì bơ vơ, hai vị giám mục và cha chính chịu tử đạo, mọi gánh nặng đổ trên vai cha Vọng. Tuy nhiên với sự cộng tác của hai thừa sai, ba mươi bảy cha dòng Việt và một số linh mục Triều, năm 1840 địa phận đã rửa tội thêm một trăm bốn mươi ba người lớn, hơn một ngàn trẻ em, giải tội hơn một trăm mười tám ngàn người và chứng hôn một ngàn sáu trăm ba mươi đôi.

Thời gian này có hai mẩu chuyện về cha Vọng: Thứ nhất về lá thơ cha báo cáo về tình hình Bắc Việt cho bề trên tỉnh về sự kiên cường của các vị tử đạo và sức sống ngầm của Giáo hội Việt Nam trong những năm giông tố. Lá thơ đã làm cho cả tỉnh dòng vui mừng. Tại nhà thờ Thánh Đaminh ở Manila, cộng đoàn tu sĩ đã sốt sắng hát kinh Te Deum và cử hành một lễ tạ ơn. Lá thơ này được phổ biến khắp nơi, làm cả thế giới ngạc nhiên và khâm phục. Đức Gregoriô XIV viết cho Giáo hội Việt Nam một lá thơ mục vụ khích lệ, ngài họp hội đồng cơ mật trù liệu việc phong thánh cho các vị tử đạo Việt Nam.

Chuyện thứ hai là chuyện thừa sai Marti Gia đã đến Yên Trì được gần một năm mà không có cách nào trình diện để tuyên thệ theo luật bấy giờ (sắc EX QUO). Lúc ấy, cha Vọng đang làm bề trên phải bỏ chỗ ẩn an toàn để đến gặp bề dưới tiến hành việc tuyên thệ này, cũng như đưa ra những lời khuyên thực tiễn.

Dưới thời vua Thiệu Trị cuộc bách hại tuy lắng dịu, nhưng vẫn còn xẩy ra ở một vài nơi. Tòa thánh đặt cha Vọng làm đại diện Tông tòa thay thế Đức cha Y và Minh đã tử đạo. Theo dự định, lễ tấn phong cử hành vào ngày 14.4.1841 tại Vĩnh Trị, Phúc Nhạc, nơi Đức cha Retord Liêu ẩn trú. Tổng đốc Trịnh quang Khanh được mật báo đem quân bao vây bắt lầm được hai vị thừa sai Pháp là Berneux Nhân và Galy Lý. Trên đường áp giải về dinh, dân chúng kháo với nhau “kìa, đó là danh trùm Vọng”. Tổng đốc Trịnh quang Khanh cũng không giấu được vui mừng cho đến khi biết mình đã lầm, liền tức giận, cho đóng cũi, tra tấn dã man và lột trần cả hai vị, trói ngoài công đường cho mọi người xỉ nhục. Về sau nhờ áp lực của quân Pháp, nhà vua cho lệnh thả hai vị về năm 1843. (Xem thêm Hạnh Thánh Anê Đê, trang 137).

Hai ngày sau, cha Vọng mới khởi hành từ Hải Dương đến Vĩnh Trị. Vì đã biết vụ hai vị thừa sai bị bắt, cha nhờ giáo hữu dẫn đi đường khác. Tất cả chỉ có thể đi vào ban đêm, băng rừng lội suối, có khi đi thuyền nhưng thường là đi bộ, còn ban ngày thì ẩn nấp trong bụi cây, ngoài đồng lúa hoặc bụi tre. Tổng đốc Trịnh quang Khanh đã cho đặt các trạm canh khắp nơi. Đặc biệt, có một trạm canh rất cẩn mật, cha phải hối lộ cho viên phó tổng, và theo kế hoạch của ông ta để lọt được qua trạm. Đêm ấy, theo lời chỉ dẫn, cha mặc áo cộc, quần nâu xắn lên tới đầu gối, lấy bùn xoa đen hết mặt mũi chân tay, buộc túm râu tóc lại, đầu đội nón lá... rồi nắm đuôi ngựa của viên phó tổng đang cưỡi, chạy lăng xăng theo sau, như tên đầy tớ để qua trạm.

Vị Giám Mục Khôn Ngoan

Đến Vĩnh Trị, cha Vọng tìm đến tòa giám mục của Đức cha Liêu. Đó là một cái chòi có lối chạy xuống hầm để đề phòng mỗi khi quan quân bất ưng đến thăm. Tại đây ngày 25.4 cha được tấn phong. Đức tân giám mục tìm đường trở về địa phận và đổi tên là Liêm, thay cho danh trùm Vọng vẫn được treo giá cả vạn quan. Ít lâu sau, tổng đốc cũng ngã bệnh và qua đời.

Lợi dụng tình hình lắng dịu, Đức cha Liêm hoạt động không ngừng. Ngày 26.6, ngài tấn phong giám mục cho cha Jemeno Lâm làm phụ tá. Sau lễ ngài tập họp các linh mục để lập chương trình truyền giáo trong hoàn cảnh mới. Từ đó cả địa phận bừng lên sức sống mới. Các nhà thờ, nhà xứ được tái thiết, các nữ tu viện, nhà Đức Chúa Trời được tu sửa. Giáo hữu góp tiền chuộc các anh em khác còn bị giam giữ. Trường Latinh được xây lại tại Nam An (Hải Dương), sau dời về Lục Thủy. Trường Thần học được thiết lập ở Mỹ Đông, Hải Dương. Đức cha khuyên giáo dân đặc biệt tin tưởng, cậy trông vào Đức Mẹ, siêng năng đọc kinh Mân Côi và kêu cầu nữ Thánh Philomena tử đạo. Sau này, ngài chọn thánh nữ làm Bổn mạng địa phận và xin phép Tòa thánh mừng lễ hằng năm. (1)

Nhờ sự cộng tác của nhiều tân linh mục trong địa phận và nhiều thừa sai mới được gửi tới, tình hình địa phận Đông phục hồi rất nhanh. Việc trao ban bí tích được gia tăng thêm mỗi năm. Chỉ cần cẩn thận đôi chút, các giám mục có thể đi ban bí tích Thêm sức nhiều nơi. Năm 1844, ngài mở lễ kính Thánh Tổ phụ Đaminh rất trọng thể. Các linh mục tu sĩ, giáo dân thay nhau về thánh đường Nam An suốt tám ngày liền. Họ gặp nhau chia sẻ tin tức, kinh nghiệm sống đạo của mình. Thánh lễ đại trào duy nhất của Đức cha Liêm, sau này sẽ trở thành tập tục “lễ đầu dòng” trong địa phận. Số tân tòng ngày càng gia tăng. Ngày 22.8.1844, tại Đông Xuyên, Đức cha rửa tội cho bốn mươi bốn người lớn, trong đó có một chánh tổng, một phó tổng, tám lý trưởng, một thầy cúng.

Sự phát triển ấy ngày càng phấn khởi hơn. Năm 1848, khi số tín hữu lên tới 184.000, Đức cha xin Tòa thánh chấp thuận chia địa phận thành hai: Địa phận Trung (nay là Bùi Chu Thái Bình) được trao cho Đức cha Marti Gia, còn Đức cha Liêm giữ lại phần đất đông dân cư (trên mười triệu), mà ít tín hữu (chỉ 0,4 phần trăm). Từ đó hai địa phận ngày càng phát triển vững mạnh hơn, mặc dù vua Tự Đức bắt đầu bách hại đạo. Năm 1852, địa phận của Đức cha Liêm rửa tội được 388 người lớn, 2824 trẻ em, trong đó đa số là trẻ em ngoại.

Mười năm cuối đời của Đức cha Liêm là những năm đầy vất vả và gian lao. Vua Tự Đức ra thêm chiếu chỉ cấm đạo. Năm 1855, khi qua địa phận Trung, hai thầy giảng tháp tùng Đức cha Liêm bị cướp bắt, Đức cha phải năn nỉ cả ngày họ mới chịu tha. Năm sau chính Đức cha bị bắt, khi ngài đi kinh lý xứ Hữu Bàng, phải chuộc mất ba trăm quan . Năm 1858 trước tình hình bách hại gay gắt, sợ sẽ không còn ai sống sót, Đức cha họp và quyết định chia một nửa số thừa sai về Macao, chờ ngày thuận tiện hơn sẽ trở lại địa phận hoạt động. Ngài chỉ giữ lại năm thừa sai Đaminh cho cả hai địa phận. Năm 1859, một lần nữa, Đức cha phải đổi tên là Tuân, để khỏi bị lộ cho tới ngày chiếu chỉ phân sáp ra đời.

Nỗi Đau của Vị Chủ Chăn

Tả sao cho hết nỗi đau của vị chủ chăn dòng thuyết giáo. Hai cuộc tử đạo của hai Đức cha An và Xuyên, biết bao hung tín mỗi ngày: các thánh đường bị phá hủy, nhiều linh mục và thầy giảng bị ngã gục. Giờ đây chiếu chỉ phân sáp lại nhắm đến giáo dân. Ý thức bổn phận chủ chăn, ngài liền viết một thơ luân lưu cho khắp địa phận, kêu gọi mọi người thống hối, để Chúa mở tay ban phát mọi sự lành, kêu gọi tín hữu tin vào Chúa quan phòng, vì “lá cây nhỏ mọn mặc lòng, nếu Chúa chẳng cho động, nó chẳng động được đâu”, khích lệ mọi người can đảm xưng đạo cho vững và năng suy niệm cuộc thương khó mà Chúa đã chịu vì nhân loại hầu được thêm can đảm.

Đêm thu 14.8 năm Tân Dậu (18.9.1861) trong khung cảnh tịch mịch của đêm trăng rực sáng, Đức cha Liêm ngước mắt nhìn cảnh vật mà lòng xúc động trào dâng. Ngài nghĩ đến số phận đàn chiên đang bơ vơ thiếu chủ chăn, những gia đình tín hữu phân tán, vợ một nơi chồng một nẻo, con cái phải xa cha mẹ... Nhưng nỗi khổ tâm nhất của ngài là cũng đêm đó chủng viện Kẻ Mốt phải giải tán, những mầm non của Giáo hội thiếu điều kiện phát triển. Cha Khoa thay mặt ngài, giờ đây đang nói với chủng sinh những lời cuối cùng xiết bao xúc động:

“Từ trước tới nay. Đức cha cố giữ anh em ở đây, và lo liệu cho anh em học hành... Bây giờ Đức cha buộc lòng phải giải tán nhà trường. Nếu Chúa để chúng ta còn sống, thì rồi đây có ngày Đức cha sẽ gọi anh em trở lại. Đức cha nhắn lời chúc lành và dặn dò anh em sống sao cho tốt, trông cậy vào Chúa là Cha nhân lành và đừng quên cầu nguyện cho ngài, cho địa phận và cho cả Giáo hội Việt Nam. Anh em hãy thu xếp đi ngay trong đêm nay, khỏi cần bái chào Đức cha, kẻo ngài không cầm được nước mắt...”.

Cũng đêm đó Đức cha Liêm phải rời làng Kẻ Mốt đến trú ẩn ở Thọ Đức. Ba mươi ba năm hoạt động trên quê hương Việt Nam đã chất chứa những gánh quá nặng trên vai ngài. Giờ đây sức khỏe ngài đã giảm sút, râu tóc đã bạc phơ chỉ duy đôi mắt vẫn giữ được vẻ tinh anh. Cảm thương thay vị cha già bước từng bước mệt nhọc trên quãng đường trơn trượt như trèo lên đỉnh núi Sọ. Ngày mai sẽ ra sao? Không địa sở, không nơi ẩn náu, chỉ còn chờ cái ngày cũng chẳng xa, rơi vào tay những kẻ đang truy nã.

Cùng đi với Đức cha có thầy giảng Giuse Khang. Hai cha con trọ ở Thọ Đức được ba tuần thì bị lộ. Lại phải xuống thuyền qua thị xã Hải Dương và tá túc trên thuyền của một giáo hữu, gia đình ông Trương Bính. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức cha Valentino Vinh và cha Almato Bình dọc theo đường thủy từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc hội ngộ đặc biệt, các vị trao đổi, khích lệ nhau thêm can đảm, và tạ ơn Chúa vì dịp may hiếm có này. Sau đó các vị chia tay nhau mỗi người một nẻo.

Dưới sự tận tình che giấu của ông Trương Bính, Đức cha và thầy giảng Khang được ít ngày bằng yên cho đến hôm xảy ra cuộc cãi vã giữa cha con ông Trương Bính, người con trai vì tức giận cha mẹ, đã đi tố cáo ông bà về tội chứa chấp Tây dương đạo trưởng. Đội Bằng lúc đó làm chánh tổng liền đem gia nhân đến bắt Đức cha vào ngày 20.10.1861. Khi bắt, Đức cha đưa đội Bằng một sồ tiền và nói: “Xin bắt và giam giữ một mình tôi thôi. Hãy để những người đánh cá nghèo nàn này đi”. Khi thầy Khang nhổ cây sào thuyền định chống cự, thì Đức cha cản lại rằng: “Đừng chống trả làm gì, hãy phó mặc cho Thánh ý Chúa. Thế là cả hai bị bắt trói và đưa về Hải Dương.

Đồng Hành Về Trời

Sau khi lấy khẩu cung, Đức cha bị giam trong chiếc cũi chật hẹp, nằm không nổi, đứng cũng chẳng được, cứ phải khom lưng suốt ngày, chân tay rã rời. Dầu vậy ngài vẫn tìm cách giảng đạo cho các bạn tù, và rửa tội cho con trai viên đội Bái, cậu sẽ cùng bị xử tử với Đức cha. Chiều ngày 26.10, sau khi bắt được Đức cha Vinh và cha Bình, quân lính hò reo ầm ĩ, Đức cha Liêm đang thiếp ngủ bừng tỉnh dậy. Ba chiến sĩ đức tin trong ba chiếc cũi ngậm ngùi nhìn nhau nhưng lòng đầy hân hoan, vì thấy được đoàn tụ bên nhau trong những ngày cuối cùng.

Ngày xử được ấn định là 1.11.1861. Ba chiếc cũi được khiêng đi sau đội quân năm trăm người. Đức cha Liêm trong cũi cuối cùng, trang nghiêm như ngày đại lễ, thỉnh thoảng ngài giơ tay ban phép lành cho các giáo hữu đứng hai bên đường. Tại pháp trường Năm Mẫu, ba vị được đưa ra khỏi cũi, cùng cầu nguyện ít phút, rồi đưa tay cho lý hình trói vào ba cọc. Bản án đuợc đọc lên. Ba hồi chiêng trống, ba lưỡi gươm vung lên một lúc, chém rơi đầu ba vị anh hùng. Khi các quan ra về, dân chúng dù lương hay giáo, tranh nhau thấm máu tử đạo.

Ba thi hài được bọc trong ba chiếc khăn và chôn tại chỗ. Thủ cấp các ngài được treo ở bến đò Hàn ba ngày, nhưng sau đó giáo dân đánh tráo bỏ vào đó ba củ chuối để đưa về Yên Dật, và sau lại đưa về an táng tại Thọ Ninh một thời gian, cuối cùng đưa về đền các thánh tử đạo Hải Dương.

Đức cha đã nằm xuống, nhưng chân lý ngài đã truyền giảng, phong thái và nhiệt tâm của ngài vẫn sống mãi trong các tín hữu và hàng giáo sĩ của địa phận. Tất cả sẽ nắm tay nhau theo dấu chân vị cha chung để tiếp tục làm chứng cho đức tin.

Đức Thánh Cha Piô X suy tôn Đức cha Jeronimo Hermosilla Liêm lên bậc Chân Phước ngày 20.5.1906.

(1): Hiện nay Giáo hội không kính Thánh nữ Philomêna nữa, vì danh xưng này được tìm thấy nơi huyệt mộ của vị thánh tử đạo lại không phải là tên của người.
 

Thánh Valentino BERRIO-OCHOA VINH
Giám mục dòng Đaminh
(1827 - 1861)

 

Đẹp Như Khúc Tình Ca

Cuộc đời Thánh Valentino Vinh đẹp như một bài thơ và hùng tráng như bản tình ca bất hủ. Quả thật, cuộc đời ngài chỉ vỏn vẹn có ba mươi bốn năm với ba năm giám mục, không có nhiều thành quả lẫy lừng, nhưng đã là một thiên tình ca hùng tráng... Cuộc đời ấy được đan dệt bằng biết bao biến cố thăng trầm, bao kỷ niệm gian khổ và bao thắng vượt anh hùng. Với tinh thần đơn sơ của một người tràn đầy tình yêu Chúa và tha nhân, ngài đã biến tất cả thành một giai điệu nên thơ. Tất cả những nỗi vất vả đã được vị giám mục hầm trú này khoác cho chiếc áo tươi vui bằng thái độ kiên cường, bằng tình yêu nhiệt thành và sự trung tín. Ngài biến đổi chúng bằng những phút chiêm niệm sâu xa và bằng nụ cười bất diệt.

Nỗ Lực Tuổi Trẻ

Valentino Berrio-Ochoa Vinh xuất thân trong một gia đình quý phái, đạo đức nhưng lại nghèo. Sinh ngày 14.2.1827 tại làng Elorrico, địa phận Vich, nước Tây Ban Nha. Cuộc đời Valentino chịu ảnh hưởng rất nhiều của song thân. Cậu học được nơi cha sự cần cù kiên nhẫn, và thừa hưởng nơi mẹ một đức tin sống động, lòng sùng kính Đức Maria và tính vui tươi hòa nhã với mọi người. Đặc biệt với mẫu thân, Valentino vẫn hằng ôm ấp mối tình thắm thiết cả khi đã làm giám mục mà chúng ta có thể thấy được, vẫn dạt dào trong các lá thơ viết về cho bà.

Vì thân phụ thường đóng bàn ghế cho một nữ tu viện Đaminh trong vùng, nên Valentino được vào giúp lễ. Nhờ vậy cậu có dịp tiếp xúc với cha linh hướng của tu viện, một linh mục dòng Đaminh. Khi rảnh rỗi, cậu đến gặp cha để nghe cha kể chuyện về các vị thừa sai Đaminh tại Việt Nam, về những mẫu gương dấn thân và những cuộc tử đạo anh hùng. Từ đó, cậu bé mười hai tuổi ôm mãi trong lòng giấc mộng vàng là được làm linh mục Đaminh và đến phục vụ tại mảnh đất Việt Nam yêu dấu. Nhưng vì gia đình quá nghèo, cậu phải phấn đấu rất nhiều để biến mộng ước thành hiện thực.

Sáu năm liền, Valentino phải kết hợp ba chương trình: vừa làm mộc giúp phụ thân, vừa trau dồi văn hóa phổ thông và xếp thêm giờ học tiếng Latinh. Theo gương Đức Giêsu nơi xưởng mộc Nazareth xưa, cậu kiên nhẫn chờ đợi ý Chúa thể hiện. Năm 18 tuổi, nhờ sự giúp đỡ của một linh mục, cậu xin phép cha mẹ gia nhập chủng viện Logrono. Tại đây, cậu được các giáo sư, các bề trên và bạn bè quý mến. Mọi người ghi nhận nơi chàng thanh niên này tính chăm chỉ học hành, một nếp sống đạo đức sâu xa, khổ chế với mình nhưng lại tươi vui với mọi người. Đức giám mục địa phận, khi kinh lý làng Elorrio ghé thăm gia đình anh, đã nói với thân mẫu anh rằng: “Bà Maria ơi, có lẽ con bà sẽ làm đến giám mục”.

Sau ba năm triết học với thành quả mỹ mãn, hè năm 1848, thầy Valentino về thăm gia đình, và thấy cha đã già yếu quá vất vả với công việc, thầy trở lại xin bề trên được sống ngoại trú để vừa đi học thần học, vừa có thể phụ giúp gia đình ba mươi tháng. Hơn hai năm rưỡi đã trôi qua như thế, mãi tới khi theo lời đề nghị của một cha giáo sư, Đức giám mục cho thầy lãnh chức cắt tóc và đặt thầy làm linh hướng dự khuyết của chủng viện. Đây là trường hợp rất họa hiếm nói lên uy tín của thầy, tuy còn là sinh viên mà đã được chọn vào một trách vụ thường dành cho những vị linh mục lão thành đạo đức và nhiều kinh nghiệm.

Vị Linh Hướng Đạo Đức

Lòng tín nhiệm thầy Valentino của Đức cha Irigoyen ngày càng rõ rệt hơn, khi ngài lần lượt trao ban chức năm, chức sáu và linh mục cho thầy chỉ trong một năm (1851). Valentino đã chuẩn bị xứng đáng, và trong niềm hân hoan khôn tả, vị tân linh mục đã viết thơ cho thân mẫu như sau:

“Mẹ yêu dấu của con, hôm qua, ngày 14.6.1851, ngày mộng ước, ngày con được thụ phong linh mục... Con của mẹ giờ đây đã được tình thương Chúa nhắc lên chức phẩm cao cả, đến nỗi các thiên thần cũng phải run sợ...” (Thơ 16).

Hơn hai năm tận tụy với chức vụ linh hướng đại chủng viện, cha Valentino vẫn ôm ấp giấc mộng vàng thuở thơ ấu. Sau khi bàn hỏi với cha linh hướng dòng Tên tại Loyola, cha xin phép giám mục qua dòng Đaminh. Lúc giã từ người quen, có người hỏi cha: “Cha đi đâu, và bao lâu mới trở lại?”. Cha đáp: “Tôi đi để quê tôi có người làm thánh”. Và cha đã khởi sự quyết định nên thánh đó bằng thái độ từ bỏ dứt khoát: Đường từ nhà đến tu viện Ocana độ ba bốn ngày đường, cha quyết định đi bộ, không giày dép, không tiền bạc. Hành trang duy nhất là cuốn sách nguyện. Sau có người thấy tội nghiệp, tìm các ép mời cha đi xe ngựa vài đoạn đường.

Ocana, một học viện của tỉnh dòng Mân Côi, từ năm 1830, nơi đã đào tạo hai Đức cha An và Xuyên, khi đó đang làm giám mục chánh phó địa phận Trung Đàng Ngoài, đã rộng cửa đón vị linh mục linh hướng nổi tiếng, trao tu phục và sau một năm tập như thường lệ, đã cho cha khấn trọng ngày 12.1.1854. Ba năm sau, cha tiếp tục giấc mộng thời niên thiếu, nên qua trụ sở tỉnh dòng ở Manila để tìm đường đến Việt Nam. Sáu tháng lênh đênh trên biển cả, chiếc tàu của cha Valentino gồm các thừa sai của ba dòng tu Đaminh, Phanxicô và Augustino. Các vị tổ chức đời sống như một tu viện. Qua thơ cha Valentino thuật lại: các vị cùng nhau dâng lễ, đọc kinh nguyện mỗi ngày. Dịp tuần thánh, các vị cũng tổ chức nghi lễ rửa chân, suy niệm đàng thánh giá, bắn pháo bông mừng Phục sinh và tổ chức việc suy niệm Đức Mẹ trong tháng hoa nữa. Ngày 17.6.1857, cha đến Manila trong niềm vui của các anh em dòng tại đây. Anh em ra đón cha tại bến tàu, rồi đưa về thánh đường hát kinh TE DEUM và tạ ơn Đức Mẹ trước bàn thờ Mân Côi.

Biến Ưu Sầu Thành Khúc Ca Vui

Ngày 30.3.1858, cùng với cha Riana Hòa và cha Carreras Hiến, cha Borrio-ochoa đặt chân lên đất Việt Nam, đến trình diện cha chính Nam và Đức cha Xuyên tại Kiên Lao. Cơn bách hại đang ở cao điểm: Đức cha An mới bị tử đạo được tám tháng, thủ cấp của Đức cha Xuyên được treo giá vàng, nên thường xuyên ngài phải ẩn nấp. Trong thơ chín mươi ba gởi về gia đình, cha Vinh đã ghi nhận:

“Cánh đồng truyền giáo này không thấy lấy một ngày quang đãng, không ngày nào không phải cố gắng giữ nét vui tươi. Không ngày nào không có đau thương để khóc, không có lo toan để tìm phương bổ cứu, không có một kẻ theo dõi hay quan quân truy lùng”.

Sườn núi Canvê trơn dốc của cha Vinh đã bắt đầu. Tại đây tất cả đều còn lạ lẫm: Ngôn ngữ, tập quán, đường đi, con người và bao nhiêu thứ phải làm quen, phải học. Thế mà chỉ mấy ngày sau khi chào vị chủ chăn địa phận, vì tình hình an ninh, mỗi vị phải chia tay nhau ẩn náu mỗi người một phương. Tuy mới chân ướt chân ráo đến vùng truyền giáo, cha Vinh phải vận dụng sự khôn ngoan và sáng tạo để hoàn thành những công tác mục vụ, thăm viếng. Tất cả mọi việc đều phải lén lút.

Hai tháng rưỡi trôi qua, tuy tiếng Việt nói chưa thông thạo, nhưng tài năng và nhân đức của vị linh mục trẻ tuổi này đã được khẳng định. Đức cha Sampedro Xuyên, trước nguy cơ có thể bị bắt, đã chuẩn bị cho tương lai của địa phận, ngài dùng quyền tòa thánh để chọn một giám mục phó có quyền kế vị. Ngài đã chọn cha Berrio-Ochoa Vinh. Đây là tâm sự của vị tiến chức:

“Thưa Đức cha, nếu được thì xin cất chén đó cho con... Con thấy lòng tràn ngập lo lắng, áy náy khi nghĩ đến địa vị mà Đức cha muốn đặt con lên. Nhưng điều mà môi miệng con nói, thì con cũng xin nói cả tấm lòng, đó là xin vâng trọn ý Chúa, bây giờ và đời đời chẳng cùng”.

Giám Mục “Gậy Tre Mũ Giấy”

Lễ tấn phong tân giám mục Valentino Vinh, quả thực có một không hai trong lịch sử Giáo hội. Đêm 13 rạng ngày 14.6.1858, Đức cha Xuyên cử hành lễ tấn phong trong nhà ông trùm Chi ở Ninh Cường. Lễ nghi được tiến hành âm thầm giữa đêm thâu, không một tiếng hát, không một người tham dự. Hai cha Riano Hòa và Carreras Hiển là thụ phong, bao tay, bít tất không có, mũ ngọc của tân giám mục làm bằng bìa cứng cũng phủ giấy trang kim, gậy ngọc là một cây nứa, dây gậy cuốn bằng rơm cũng được bọc giấy trang kim. Việc chuẩn bị cho ngày lễ, chúng ta hãy nghe ngài thuật lại trong thở gởi cho cha Orge ở Manila:

“Con thú thật rằng, con muốn thoát ra khỏi vòng ràng buộc này. Nhưng biết bao lần Đức cha đã bảo con, nên theo lương tâm, buộc con phải vui nhận việc tuyển chọn... Con không dám chống cự ý Chúa đã rõ rệt. Sau ngày được tuyển chọn, con chỉ còn vừa đủ thì giờ để cấm phòng. Con lắng nghe ngài phán trong thinh lặng, không có lấy một cuốn sách nào giúp tĩnh tâm, mà có tìm cũng không ra... Không phải chỉ thiếu sách cấm phòng, nhưng chiều áp lễ tấn phong, thấy rằng mới chỉ có độ một nửa khăn áo cần dùng trong nghi lễ, Đức giám mục đại diện tông tòa và con phải vội vàng hai tay kim chỉ đóng vai thợ may. Tạ ơn Chúa, tới đúng giờ đã định, chúng con cũng có ít khăn áo xứng đáng... (Thơ 79).

Nếu như Thánh Phaolô xưa tự nhận mình là tông đồ sinh non, vị tân giám mục cũng tự nhận là giám mục sinh non, sinh thiếu tháng. Chưa đầy ba tháng trên đất Việt với số tuổi ba mươi mốt, thế mà giờ đây phải quan tâm săn sóc một địa phận trên 150 ngàn giáo hữu giữa cơn cuồng phong bách hại ác liệt nhất. Lúc này đây, ngoài Chúa ra, ai có thể cảm thông được nỗi ưu tư của ngài?

Sau ngày tân phong, hai Đức cha và hai linh mục lên xứ Quần Cống. Được ít hôm, quan án sát Nam Định đến bao vây làng này, khiến mỗi vị phải đi một ngả. Đức cha Vinh phải chạy sang Trà Lũ, Đức cha Xuyên qua làng Thôn Đông, rồi đến Kiên Lao thì bị bắt ngày 8.7 và bị xử lăng trì ngày 28.7.1858. Từ nay, Đức cha Vinh phải một mình lãnh trách nhiệm toàn địa phận Trung. Theo ý vị tiền nhiệm, Đức cha bỏ địa phận trốn qua tỉnh Hải Dương, là nơi cuộc bách hại còn lắng dịu. Sau bốn ngày vượt sông băng lạch, ngài đến Cao Xá, tỉnh Hưng Yên, rồi tới nơi Đức cha Hermosilla Liêm và cha Almato Bình trú ẩn. Được ít lâu, ngài đã tìm được nơi trú ẩn mới trong vườn nhà anh Thăng, làng Hương La, xứ Tử Nê (Bắc Ninh). Gia chủ đã đào cho ngài một hầm trú ẩn khá an toàn. Chính tại hầm này, vị giám mục “hầm trú” đã thành lập tòa giám mục trong gần trọn đời giám mục của ngài.

Giám Mục Hầm Trú

Khi nghe tin Đức cha Xuyên tử đạo, dầu kiên nhẫn và bình tĩnh, Đức cha Vinh đã phải phát biểu nửa đùa nửa thật rằng:

“Đức giám mục khả kính Sampedro Xuyên để lại cho tôi một gánh quá nặng. Ngày nào tôi nhoai đến thiên cung, tôi sẽ tố cáo ngài”.

Trong thư gửi cho một linh mục bạn, ngài viết: “Tôi còng lưng gánh một gánh mà tôi sợ, rất sợ, sợ đổ vỡ dọc đường...”. Sau đó, Đức cha tìm mọi cách trở về với địa phận, nhưng không thể được, vì cơn bách hại tại địa phận Trung quá khắc nghiệt.

Theo cha M. Gispert, có một lần duy nhất trong đời giám mục, Đức cha Vinh về xứ Kẻ Mèn, thuộc địa phận Trung. Nơi đây, cùng với cha Riano Hòa, hai vị đã tuyên thệ xây cất một thánh đường dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm, và nhận Người làm Bổn mạng của địa phận, nếu Chúa ban cho Giáo hội thoát khỏi cuộc bách hại và hưởng thái bình. Lời tuyên thệ này về sau khi cha Hòa làm giám mục đã thực hiện. Đó là thánh đường sau ba lần tái thiết, nay là một thánh đường kiểu Gothique nguy nga dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Phú Nhai.

Trở lại vị giám mục hầm trú tại Hương La. Sáu tháng đầu, ngài sống chung với Đức cha Alcaza Hy, Đức cha phó địa phận Đông, cho đến khi vị này phải rời xứ truyền giáo tạm lánh qua Macao. Chính tại hầm trú này, Đức cha điều hành địa phận gần trọn ba năm. Nơi đây, ngài sống như một ẩn sĩ, nhưng vẫn là linh hồn của địa phận Trung. Sinh hoạt thường nhật của ngài là cầu nguyện hy sinh, viết thơ cho các linh mục và các giáo xứ bên địa phận. Hỗ trợ Đức cha có bốn đại chủng sinh và ông lang Thư, người Cao Xá, trong việc sao chép thư luân lưu, cũng như việc liên lạc.

Thật đáng khâm phục, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng như thế, Đức cha vẫn hướng về ánh sáng cuối đường hầm, vẫn nhìn trời xanh qua kẽ lá, vẫn chuẩn bị cho Giáo hội tương lai trong hoàn cảnh tưởng như tuyệt vọng này. Trong hầm trú, ngài vẫn tiếp tục hướng dẫn, dạy thần học cho một số chủng sinh, huấn luyện các linh mục tương lai. Để ôn học thêm và để việc huấn luyện được đầy đủ, giữa khung cảnh bão táp ấy, ngài viết thơ cho cha quản lý ở Macao, xin gởi cho cha bộ sách thần học, bộ Contra Gentiles của Thánh Tôma và nhất là bộ Giáo luật.

Ba năm trải qua như thế. Tất cả ở dưới hầm trú, trừ đôi lần giữa đêm, ngài ra khỏi đó để thăm và xưng tội với Đức cha Liêm, hoặc đi giúp các bệnh nhân, nhưng không vượt ra khỏi ranh giới hai làng Đức Trai và Tử Nê. Một vài lần, ngài phải cuốn gói chạy trốn qua một hầm khác để tiếp tục ẩn nấp. Thực tả sao cho xiết những nỗi cơ cực và nỗi khổ ngài chịu. Cơ cực vì hầm chật chội, ngột ngạt, ăn uống thiếu thốn... Khổ tâm vì không thể về với địa phận mình, trong khi cơn bách hại ngày càng gia tăng. Các hung tín được loan báo tới tấp: Một, hai... rồi mười tám linh mục tử đạo, các thầy giảng và biết bao giáo hữu bị ngã gục vì đức tin chân chính. Trong một thơ gửi cho Thánh bộ truyền giáo, cha viết:

“Rất có thể trong ít tháng nữa, địa phận của tôi chẳng còn thừa sai, chẳng còn linh mục, không chủng sinh, không thầy giảng và không biết còn nên nói thêm chăng, không còn bổn đạo (Thơ 93).

Vui Tươi và Xả Kỷ

Tuy sống gian khổ như thế, Đức cha Vinh đã không một lời rên rỉ, không một tiếng thở than. Cái “chương trình” thánh thiện trong vui tươi và xả kỷ của anh chủng sinh thợ mộc vừa học vừa làm thời niên thiếu, giờ đây ngài vẫn trung thành thực hiện. Ta có thể thấy điều đó trong một thơ gửi cho thân mẫu vào tháng 8.1860:

“Mẹ chí yêu của lòng con,

Mẹ hỏi con sống thế nào, ăn uống làm sao? Mẹ quý mến của con ơi! Con sống tươi lắm, con làm giám mục cơ mà! Còn thức ăn ngày nào cũng có. Đừng lo mẹ ạ, chúng con chẳng đói đâu. Nhưng mẹ tưởng hễ làm giám mục là phải ngồi ngựa à? Không, chúng con tuột giày ra giữa đêm hôm tăm tối, nhoài hết chỗ lội này đến quãng lội khác. Vậy mà cứ vui thôi. Một hôm, con lội sáu dặm đường, trên mưa tuôn, dưới bùn trơn, con ngã soành soạch không biết bao nhiêu lần. Tuy là giám mục, con cũng ướt như chuột và lấm bùn be bét. Nhưng giáo hữu ở đây tốt lắm, về tới nhà đã thấy họ đổ nước cho con tắm rửa sạch sẽ để chuẩn bị dâng lễ...

Ồ có lẽ mẹ bão: Vinh nhỏ của mẹ ơi, sống thế xìu lắm! Không, chả buồn chả xìu chút nào mẹ ạ. ở đây người ta sống mạnh, sống tươi, nhanh nhẹn lắm. Chúa an ủi chúng con trong lao nhọc. Con tuy là “trai già” mà nhảy qua vũng lội vẫn lẹ như sóc ấy. Mẹ ạ, Vinh trước đã là đứa con nhảy nhót qua núi đồi, thì nay bộ mặt đầy râu của nó, cũng sẽ làm những tên quỷ già nhất ở trong hỏa ngục phải run sợ ...” (Thơ 116).

Quả thực, phải có tâm hồn tươi trẻ và siêu nhiên mới có được thái độ và lời lẽ như vậy, vừa dí dỏm vừa tươi vui pha chút đùa bỡn nữa. Những lá thơ như thế phản ảnh được sự bỏ mình và nét tươi trẻ của vị giám mục tử đạo ba mươi bốn tuổi này. Thực là cái vui của các vị thánh, của những tâm hồn đầy Chúa. Chẳng bao lâu nữa, vẫn với niềm vui tươi và tính đơn sơ phó thác ấy, ngài giơ đầu đón nhát gươm lý hình, và trên khuôn mặt đẫm máu đào của ngài, còn ánh lên nét tươi vui.

Tháng 8.1861, chiếu chỉ phân sáp của vua Tự Đức như một cơn hồng thủy tràn lấn mọi thị xã cũng như thôn quê. Làng Hương La cũng không thể yên ổn được nữa. Đức cha Vinh liền xuống thuyền với linh mục Almato Bình, xuôi dòng xuống Hải Dương. Tại đây, may mắn hai vị gặp Đức cha Liêm và thầy Khang đang ở trên một thuyền khác trong bầu khí thân mật và cảm động. Nhưng sau đó, thuyền ngài lại phải tiếp tục cuộc hành trình. Các giáo hữu giới thiệu hai vị trọ nhà một người ngoại giáo làm phó lý ở gần đó. Không ngờ cháu ông này đi báo với quan, khiến hai vị bị bắt ngày 25.10.1861 và bị đóng cũi giải về Hải Dương. Tại đây, hai vị gặp lại Đức cha Liêm trong một cũi khác, ngài đã bị bắt trước đó năm ngày.

Ngày 1.11.1861, ba vị thừa sai cùng bị đem đi xử. Quân lính áp giải đông như đi rước. Cũi Đức cha Vinh đi giữa hai vị kia. Ngài bình tĩnh ngồi cầu nguyện như thói quen, nét mặt tươi tỉnh khiến mọi người phải ngạc nhiên. Tại pháp trường Năm Mẫu, qua ít phút cầu nguyện, lý hình đã chém đầu các ngài theo hiệu chiêng trống. Thi thể ba vị tử đạo được chôn tại đó, sau được cải về Thọ Ninh rồi Kẻ Mốt. Đến đời Đức cha Hiền, thi hài Đức cha Vinh được gởi về Macao, và sau cùng được đưa về quê hương của Ngài.

Đức Thánh Cha Piô X đã suy tôn giám mục Valentino Berrio-Ochoa Vinh lên bậc Chân Phước ngày 20.5.1900.

NB: Các thơ của Đức cha Vinh được linh mục Jacinto M. Garrastachi OP tổng hợp xuất bản tại Bilbao 1951. Chúng tôi trích lại theo cuốn “Giám Mục Hầm Trú” Sàigòn 1958.
 


Thánh Phêrô ALMATO BÌNH
Linh mục dòng Đaminh
(1831 - 1861)

 

Xâu Chuỗi và Thanh Gươm

Chân dung của Thánh Almato Bình được phác họa dưới hình một tu sĩ Đaminh có vầng trán rộng của sự thông minh, với bộ râu của người nghị lực. Cặp mắt ngài đăm đăm nhìn xuống đôi tay: tay phải cầm ngành lá vạn tuế, một chuỗi Mân Côi và một thanh đao to bản, tay trái khẽ nâng cao mũi dao với ngón tay cái đang chạm vào lưỡi, như muốn thử nó sắc cỡ nào, trên môi hé nở một nụ cười.

Đức chân dung ấy nói lên hai đặc điểm của vị thánh: Tín nhiệm vào Đức Maria và suốt đời trân trọng với phúc tử đạo, không đâm đầu tìm cái chết, nhưng vui tươi đón nhận nó.

Nụ Hoa Kết Trái

Phêrô Almato Bình chào đời vào lễ Các Thánh 1.11.1831 tại làng Santo Felice Saserra, xứ Vich, miền Cataluna nước Tây Ban Nha. Thân phụ cậu là ông Salvio Almato làm nghề y sĩ và thân mẫu là bà Antonia. Cậu có người bác là một linh mục kinh sĩ phụ trách giải tội cho khắp địa phận và người em gái sau cũng đi tu.

Từ thơ ấu, cậu Almato đã có những dấu hiệu hâm mộ tu trì. Khi ngồi một mình, cậu thích xếp hình các nhà thờ hoặc bắt chước các linh mục dâng lễ. Thỉnh thoảng cậu tập họp các trẻ nhỏ tuổi hơn để cùng đọc kinh Mân Côi, hoặc kể chuyện giáo lý cho chúng nghe.

Năm 15 tuổi, gia đình cho cậu vào chủng viện. Tại đây, Almato có cơ hội đọc các bản tin tức về truyền giáo của tỉnh dòng Đaminh Mân Côi tại Viễn Đông. Từ đó khát vọng truyền giáo luôn sục sôi trong lòng anh. Khi được giám mục Claret khuyến khích, anh quyết định giã từ bạn bè và gia đình để đến Ocana xin vào dòng Đaminh. Sau thời gian thử thách, ngày 25.9.1847, anh được lãnh tu phục vào tập viện, và ngày 26.9.1848, thầy tuyên hứa.

Tháng 9.1849, thầy Almato đến Manila tiếp tục học thần học. Ngoài những giờ miệt mài học tập, thầy thích tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện và đọc sách thiêng liêng. Năm 1854, thầy được thụ phong linh mục và năm sau được phái đến phục vụ tại Việt Nam. Ngày 4.8.1855, cha Almato đến địa phận Đàng Ngoài (địa phận Đông).

Khó Khăn và Nghị Lực

Khi mới đến Việt Nam, cha Almato nhận tên là Bình, ở lại Nam An và Đông Xuyên. Sau đó cha về chủng viện Kẻ Mốt để học tiếng Việt với cha Gaspar Nghĩa, rồi được cử đi phụ trách xứ Thiết Nham hơn một năm. Tình trạng sức khỏe của cha Almato Bình thật yếu kém, cha bị bệnh thường xuyên. Nhưng bên trong thân xác yếu đuối đó là một khối nghị lực tưởng chừng như vô tận, đủ sức đưa cha vượt mọi khó khăn thử thách của môi trường truyền giáo.

Từ năm 1857, cuộc bách hại ngày càng khốc liệt, cha Bình bó buôc phải nay đây, mai đó, ít khi được yên ổn. Ban ngày phải trốn trong hầm ẩm thấp, ban đêm mới ra ngoài, đi thuyền lẻn đến phục vụ giáo hữu hai bên sông. Những hôm bị bao vây bất ngờ, cha phải ngủ lại trong bụi rậm, bụi tre hoặc phải băng sông lội suối dưới trời mưa lạnh giá. Bệnh hoạn, đói rách và nguy cơ bị bắt như ba tai họa thường xuyên của cha, nhưng vị tông đồ của Chúa đã thắng vượt được tất cả nhờ chí khí can trường và tinh thần hăng say của tuổi trẻ. Khi tình hình cấm đạo trở nên gay gắt hơn, các thừa sai Đaminh quyết định chia một nửa tạm lánh sang Macao, cha Bình tình nguyện xin ở lại Việt Nam.

Trong một thơ gởi cho gia đình, cha viết:

“Con và một linh mục nữa đã ẩn mình bảy, tám tháng nay trong một nhà có sẵn hang ở dưới lòng đất để núp khi quan quân vây bắt. Nhưng nay mai nếu cha mẹ có nghe tin con bị bắt, thì xin cha mẹ đừng khóc làm chi. Hãy vui mừng con được phúc trọng dường ấy”.

Từ tháng 8.1861, dưới ảnh hưởng của chiếu chỉ phân sáp, hàng giáo sĩ hầu như không thể tìm được chỗ nào an toàn để ẩn náu. Cha Almato Bình, trước đã rời Thiết Nham sang Kẻ Nê rồi ẩn ở Thọ Ninh, nay lại xuống thuyền đi với Đức cha Valentino Vinh xuôi theo giòng sông Thái Bình. Đến Hải Dương, hai vị gặp Đức cha Hermosilla Liêm và thầy giảng Giuse Khang. Ngày 20.10.1861, khi Đức cha Liêm và thầy giảng Khang bị bắt, thì cha Bình và Đức cha Vinh cũng đang ở trên một thuyền khác, nhưng may mắn đã chạy thoát được.

Sau biến cố đó, hai vị thấy trốn trên thuyền không yên ổn nữa, nên khi một giáo hữu là ông Cựu Trọng giới thiệu hai vị tới trọ tại nhà một người ngoại giáo là ông lang Thửa, hai vị đã đến đó và được tiếp đón niềm nở. Tuy nhiên, người cháu của ông lang là Khán Cáp, khi biết tin này, liền báo với quan để lãnh thưởng. Để khỏi mang tiếng xấu, anh ta mời vị thừa sai đi ẩn chỗ khác, rồi dẫn hai vị ra đồng ruộng cho quan huyện Thanh Hà đến bắt. Hôm đó là ngày 25.10.1861.

Phúc Trường Sinh

Quan Tổng đốc Hải Dương là Nguyễn quốc Cẩm thấy các giáo sĩ Tây có dáng vẻ hiền lành nên không đành tâm đối xử tàn nhẫn. Ông chỉ điều tra qua loa về tên tuổi và việc giảng đạo. Cha Bình trả lời: “Tôi là linh mục, tên là Bình, người I-Pha-Nho, sang An Nam giảng đạo được bảy năm tại nhiều nơi”. Nhưng cha không nói rõ địa điểm nào cả.

Tuy quan tổng đốc cho giam mỗi vị vào một cũi, nhưng ông lại ra lệnh cho viên cai ngục phải đối xử tử tế và nghiêm cấm ăn nói lỗ mãng. Thái độ “nương tay” trên đã được đồn đãi đến tai tổng đốc Nam Định Nguyễn đình Tân, ông đích thân ra Hải Dương và dùng quyền ép viên tổng đốc ở đây phải lên án trảm quyết. Ngày 1.11.1861, đúng ngày cha Almato tròn ba mươi tuổi, từ nay trở thành ngày sinh nhật trên trời của cha cùng hai vị giám mục Hermosilla Liêm và Berrio-Ochoa Vinh.

Ngày xử án, ba chiếc cũi được khiêng đi sau toán lính đông đảo. Cha Bình trong cũi đầu tiên, tay cầm chuỗi Mân Côi bình thản cầu nguyện, khiến mọi người hiện diện phải bỡ ngỡ. Tại pháp trường Năm Mẫu, sau ít phút cầu nguyện lý hình đã chém đầu các ngài trong tiếng chiêng đổ dồn. Thi thể ba vị được chôn cất ngay tại nơi xử án, sau dời về Thọ Ninh. Hiện nay, thủ cấp cha Almato Bình được tôn kính ở quê hương Tây Ban Nha, còn hài cốt của cha được an táng trong thánh đường kính bổn thánh tử đạo Hải Dương.

Ngày 20.5.1909, Đức Thánh Cha Piô X đã suy tôn linh mục dòng Đaminh, cha Almato Bình lên bậc Chân Phước.

 

Thực hành giới răn trọng nhất

 Trò chơi Phúc Âm Chúa Nhật XXXI

Phúc Âm

Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. Luật sĩ thưa Ngài: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”. Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.

Hướng Dẫn

Qua bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm B, chúng ta thấy được 4 điều sau đây:

Thứ nhất, chúng ta thấy Chúa Giêsu dạy chúng ta chẳng những phải kính mến Chúa hết mình mà còn phải yêu thương nhau như mình nữa mới trọn, chứ không phải chỉ kính mến Chúa hết mình, nói cách khác, kính mến Chúa hết mình còn ở tại việc yêu nhau như mình nữa, hay yêu nhau như mình là dấu chứng tỏ kính mến Chúa hết mình.

Thứ hai, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm, chúng ta còn thấy, con người chỉ có thể kính mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình khi họ tin nhận “Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất” mà thôi. Hay nói cách khác, chính vì con người tin nhận chỉ có một Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài ra không còn Vị Chúa Tể hay thần tượng hoặc ngẫu tượng nào khác, mà họ phải kính mến Ngài hết mình và yêu nhau như mình.

Thứ ba, cái quí giá nhất trên đời này, trước mặt Chúa cũng như trước mắt thế gian, đó là yêu thương: yêu thương trọng hơn tất cả mọi lễ vật hiến dâng lên cho Chúa là thế, đúng như người luật sĩ thưa với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, và cũng hợp với những gì Chúa Giêsu dạy ở bài giảng trên núi về việc về làm hòa với người xúc phạm tới mình trước khi dâng của lễ trên bàn thờ (x Mt 5:23-24).

Thứ bốn, thế nhưng, nhận biết giá trị tuyệt hạng của giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình như người luật sĩ trong bài Phúc Âm mà thôi chưa đủ, còn phải mang ra thực hành nữa mới được, mới được rỗi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với nhà luật sĩ này sau khi ông trình bày cảm nhận của mình về giới răn trọng nhất, như sau: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.

Đó là lý do hôm nay chúng ta cùng nhau sinh hoạt trò chơi thực hành giới răn trọng nhất như sau.

Sinh Hoạt

1. Trò chơi này có thể chơi làm hai cách, một là mỗi nhóm cử ra một người để chơi chung với các nhóm khác cùng một lúc, người nhóm nào làm sai thì bị loại; hai là mỗi nhóm cử ra từ 3 đến 5 người để chơi theo từng nhóm, rồi so sánh xem nhóm nào ít người làm sai nhất thì thắng.

2. Người được nhóm cử ra sẽ phải để ý làm theo những cử chỉ do người quản trò dạy cho biết cách mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình như thế nào, rồi sau đó người quản trò bảo làm sao thì làm đúng y như vậy.

3. Theo bài Phúc Âm về giới răn mến Chúa hết mình là mến Chúa hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực của mình, đồng thời cũng phải yêu tha nhân như mình. Bởi thế, để thực hành giới răn mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình này, người quản trò có thể chỉ cho người đại diện các nhóm bày tỏ bằng 5 cử điệu, chẳng hạn: kính mến Chúa “hết lòng muốn” bằng cử chỉ hai tay ôm ngực (chỗ trái tim), “hết linh hồn” bằng cử chỉ tay phải bịt mắt (mắt là biểu hiệu của linh hồn và là cửa sổ của linh hồn), “hết trí khôn” bằng cử chỉ tay trái ấp lên trán, “hết sức lực” bằng cử chỉ hai cánh tay cong lại và gồng lên theo kiểu người lực sĩ, và yêu thương nhau như bản thân mình bằng cử chỉ hai bàn tay ôm lấy bụng (vì bụng tiêu biểu cho thông cảm, nên mới có câu “suy bụng ta ra bụng người”).

4. Sau khi tập cho những người đại diện các nhóm xong, trước khi bắt đầu cuộc chơi, tất cả tham dự cuộc chơi đều phải bịt mắt, vì yêu mến Chúa cần phải có đức tin mạnh mẽ, vả lại để không bị ảnh hưởng nhau khi làm. Cuộc chơi thi đua thực tập mến Chúa yêu người sẽ diễn tiến theo lời người quản trò nói, lúc đầu (khoảng 3 lần) theo thứ tự chầm chậm các cử điệu, nhưng 5 hay 7 lần sau sẽ nói làm không theo thứ tự nữa và càng lúc càng nhanh hơn.

5. Cứ sau mỗi một cử điệu thì dừng lại xem ai làm sai thì loại. Nếu chơi từng nhóm riêng thì người quản trò cứ căn cứ vào số người của nhóm mà nói bấy nhiêu lần, và sau bằng ấy lần xem nhóm còn lại bao nhiêu người làm đúng. Và so sánh các nhóm với nhau, nhóm nào có nhiều người làm đúng nhất thì đoạt giải mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình.

 

31/10 Thứ Sáu

Ðể chấm dứt Tháng Mân Côi 2003 và để hướng về Ngày Thánh Mẫu  Thứ Bảy Ðầu Tháng ngày mai Lễ Trọng Kính Chư Thánh , chúng ta hãy

CÙNG GIỚI TRẺ CỬ HÀNH MẦU NHIỆM MÂN CÔI


“Việc cầu Kinh Mân Côi cho trẻ em, thậm chí việc cầu Kinh Mân Côi với trẻ em, dạy cho các em ngay từ những năm đầu tiên của cuộc đời các em việc ‘ngừng lại để cầu nguyện’ hằng ngày với gia đình, thực ra không phải là cách giải quyết cho hết mọi vấn đề, song cũng là một hỗ trợ thiêng liêng không được phép coi thường. Người ta có thể phản đối là Kinh Mân Côi dường như khó có thể hợp thị hiếu với trẻ em và giới trẻ ngày nay. Thế nhưng, có lẽ điều chống đối này cố ý nói đến phương pháp nghèo nàn trong việc cầu Kinh Mân Côi. Vả lại, miễn là không phạm gì đến câu trúc căn bản của Kinh Mân Côi, cũng không cấm trẻ em và giới trẻ cầu Kinh Mân Côi, trong gia đình hay trong nhóm hội, với những phương trợ có tính cách biểu hiệu hay thực tế thích đáng để chúng có thể hiểu biết và cảm nhận. Tại sao lại không thử đi nhỉ? Với ơn Chúa giúp thì phương pháp mục vụ cho giới trẻ có tính cách tích cực, hăng say và sáng tạo – như được thực hiện vào những Ngày Giới Trẻ Thế Giới! – vẫn có thể đạt được những thành quả hết sức lạ lùng. Nếu khéo thực hiện Kinh Mân Côi, Tôi bảo đảm là giới trẻ một lần nữa sẽ làm cho người lớn bỡ ngỡ lạ lùng, ở cách thức chúng yêu chuộng kinh nguyện này và sốt sắng đọc kinh ấy hợp với lứa tuổi của chúng”.

Trên đây là những lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhận định và quả quyết, trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Ngài ở đoạn 42, về việc cầu Kinh Mân Côi với trẻ em và giới trẻ. Đoạn tông thư trên đây có 4 điểm quan trọng sau đây:

1. “Việc cầu Kinh Mân Côi với trẻ em… là một hỗ trợ thiêng liêng không được phép coi thường”;

2. “Người ta có thể phản đối là Kinh Mân Côi dường như khó có thể hợp thị hiếu với trẻ em và giới trẻ ngày nay”;

3. “Cầu Kinh Mân Côi, trong gia đình hay trong nhóm hội, với những phương trợ có tính cách biểu hiệu hay thực tế thích đáng để chúng có thể hiểu biết và cảm nhận”;

4. “Nếu khéo thực hiện Kinh Mân Côi, Tôi bảo đảm là giới trẻ một lần nữa sẽ làm cho người lớn bỡ ngỡ lạ lùng, ở cách thức chúng yêu chuộng kinh nguyện này và sốt sắng đọc kinh ấy hợp với lứa tuổi của chúng”.

Thật vậy, theo kinh nghiệm bản thân, trong thời gian hoạt động tông đồ giới trẻ từ năm 1991 tới nay, tôi đã cảm nghiệm được tất cả những gì Đức Thánh Cha nói đến trên đây.

Về điểm thứ nhất, tôi đã được hân hạnh “cầu Kinh Mân Côi với trẻ em…”, với các em Thiếu Nhi Fatima Tổng Giáo Phận Los Angeles hằng tuần, hằng tháng và hằng năm. Hằng tuần vào ngày Thứ Bảy tại mỗi Đoàn (giáo xứ). Hằng tháng vào ngày Thứ Bảy Đầu Tháng với chung Liên Đoàn (gồm 5 Đoàn thuộc TGP/LA) ở địa điểm của một Đoàn. Hằng năm vào các dịp tổ chức chung, như Trại Hè, Trại Huấn Luyện và Khóa Tĩnh Huấn.

Về điểm thứ hai, phải thú nhận là rất hiếm em thích thú việc lần hạt Mân Côi, sốt sắng và trung thành cầu Kinh Mân Côi. Các huynh trưởng Thiếu Nhi Fatima khi tuyên hứa để trở thành huynh trưởng đã hứa lần hạt 50 kinh mỗi ngày. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, qua đời sống đạo và tinh thần sinh hoạt phục vụ của các em, tôi cũng có thể biết các em có lần hạt Mân Côi hằng ngày không? Có những em tự thú hễ bao giờ các em bỏ tràng hạt xuống là bắt đầu sống bê bối, cho đến khi cầm tràng hạt lên.

Về điểm thứ ba, từ năm 1996 cho đến hết Năm Thánh 2000, tức 5 năm là đủ 5 Đoàn, để cùng với Giáo Hội Hoàn Vũ sửa soạn mừng Đại Năm Thánh 2000, tôi đã tổ chức cho các em Thiếu Nhi Fatima thực hiện việc Cử Hành Mầu Nhiệm Mân Côi vào Thứ Bảy Đầu Tháng Mân Côi hằng năm, theo cuốn Cử Hành Mầu Nhiệm Mân Côi của tôi. Vì là cử hành Mầu Nhiệm Mân Côi, chứ không phải chỉ đọc hay cầu Kinh Mân Côi, mà các em phải thực hiện đủ 15 hoạt cảnh Mầu Nhiệm Mân Côi, trước mỗi 5 mầu nhiệm là một bài chia sẻ tổng quan, công bố Lời Chúa trước mỗi mầu nhiệm, lá cờ của từng mầu nhiệm được rước lên trước cộng đoàn, sau mỗi một mầu nhiệm là một bài thánh ca đứng hát, sau 5 mầu nhiệm là một vũ hoa dâng Mẹ, ngồi đọc 10 Kinh Kính Mừng, và đứng đọc Kinh Lạy Cha, Sáng Danh và Lời Cầu Fatima.

Về điểm thứ bốn, vì cảm nhận được điểm thứ hai khó khăn trên đây, tôi chỉ dám tổ chức Các Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng mà thôi, không dám ép các em làm nhiều hơn, trừ việc nhắc nhở các em huynh trưởng cố gắng trung thành giữ lời hứa đọc một chuỗi mỗi ngày. Thế mà, sau các Khóa Tĩnh Huấn hằng năm, từng Đoàn một đã tự động theo nhau thực hiện việc cầu Kinh Mân Côi chung vào mỗi tối Thứ Bảy hằng tuần tại Đoàn của mình. Các em đã mời tôi đến tham dự các buổi cầu Kinh Mân Côi tối Thứ Bảy ấy. Tôi đã tuần tự đến với các em, tuần thì đoàn này, tuần thì đoàn kia. Thường các em tụ họp thực hiện việc này ở nhà của vị phụ trách hay ở tại nhà thờ. Buổi tối Thứ Bảy hằng tuần này, các em tụ họp nhau lại để đọc kinh, chia sẻ lời Chúa và bàn đến việc sinh hoạt Chúa Nhật hằng tuần cho ngày hôm sau. Tâm điểm của tối Thứ Bảy hằng tuần tại Đoàn này là việc cầu Kinh Mân Côi. Nhưng các em quì từ đầu đến cuối trong khi đọc kinh. Kinh nghiệm cho thấy, Đoàn nào trung thành với sinh hoạt đạo đức tối Thứ Bảy hằng tuần này thì tinh thần huynh trưởng rất hăng, còn Đoàn nào bắt đầu lơ là hay sao lãng buổi tối sinh hoạt thiêng liêng này thì tinh thần các trưởng đã bị suy yếu.

Cũng về điểm thứ bốn này, tôi vẫn nói khen tặng và phấn khích tinh thần sống đạo của các em là tối Thứ Bảy là tối của giới trẻ, là thời giờ của phòng trà, của Karaokê v.v., thế mà các em bỏ hết mọi sự để đi làm một việc hoàn toàn phản lại với khuynh hướng tự nhiên của mình, rõ ràng là các em được ơn Chúa. Ngày xưa, ở vào thập niên 1960, bằng tuổi thanh thiếu niên như các em, ở một nước Việt Nam chưa văn minh như Mỹ Quốc ở vào thập niên 1990 hay đầu thiên kỷ thứ ba này, thế mà tôi còn sống khô khan, bê bối. Do đó, tôi hết sức cảm phục các em. Tôi đến chia sẻ với các em những kiến thức của tôi về Thánh Kinh, giáo lý, Thánh mẫu, tu đức v.v., nhưng thật ra tôi đến để nghe các em giảng cho tôi bằng chứng từ giới trẻ sống đạo của các em.

Trái lại, đôi khi, việc các em sốt sắng cầu Kinh Mân Côi như thế lại là những gì chướng tai gai mắt đối với một số người, kể cả người lớn lẫn vài vị lãnh đạo tinh thần cộng đồng Dân Chúa. Trước mắt những người ấy thì các em Thiếu Nhi Fatima “chỉ biết đọc kinh”. Thế nhưng, vào những lúc thuận tiện, tôi đã đặt vấn đề với các vị ấy rằng, nếu đọc kinh, nhất là Kinh Mân Côi, vốn là việc không hợp với giới trẻ, vốn là những gì giới trẻ không thích, không thích bằng sinh hoạt vui chơi theo tự nhiên, thì việc các em Thiếu Nhi Fatima thích đọc kinh hay trung thành đọc kinh như thế không phải là một sự lạ hay sao? Chúng ta phải tạ ơn Chúa và khen ngợi cùng khích lệ các em mới phải. Ơn gọi của Thiếu Nhi Fatima, theo gương 3 em Thiếu Nhi Fatima tiên khởi, không phải là vui chơi như giới trẻ bình thường, mà là từ bỏ cả những gì tự nhiên vô tội của mình để hy sinh cầu nguyện cho các tội nhân và đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Thiếu Nhi Fatima chủ trương đâm rễ vươn cao, “duc in altum”, muốn là một hạt cải nhỏ bé còn hơn là một cây vả xum xuê hoa lá cành mà lại bị Chúa nguyền rủa. Chính vì thế, các em đã không cảm thấy “boring”, không cảm thấy chán, bằng không, các em đã bỏ Đoàn mà đi rồi, chứ đâu còn tình trạng chẳng những tồn tại và hăng say phục vụ Đoàn hằng tuần như những tông đồ giới trẻ, mà còn theo nhau dâng mình cho Chúa trong các dòng tu và chủng viện, điển hình là tại TGP/LA hiện nay (2003) có 3 em (2 thần học năm thứ nhất và 1 mới vào formation house).

Trên đây là những gì người viết đã thực sự cảm nghiệm khi “cầu Kinh Mân Côi với trẻ em” Thiếu Nhi Fatima. Riêng về điểm thứ 3, vị tông đồ giới trẻ nào cũng có thể thực hiện thêm một số điều khác nữa, để làm cho giới trẻ hào hứng và thấm thía hơn nữa trong việc cầu Kinh Mân Côi. Chẳng hạn, trước mỗi ngắm, giới trẻ sẽ trình diễn một màn kịch hợp với ý nghĩa của mầu nhiệm của chục kinh sắp đọc. Như ngắm thứ nhất mùa vui về mầu nhiệm Lời Nhập Thể, giới trẻ trình diễn về việc tìm cách ngừa thai nhân tạo, hay ngắm thứ hai mùa vui về mầu nhiệm Lời Nhập Thể được Mẹ Maria cưu mang đi thăm thai nhi Gioan Tiền Hô, giới trẻ trình diễn một màn tìm cách phá thai v.v. Nếu giới trẻ không trình diễn thì người hướng dẫn có thể kể một câu truyện có thực, một câu truyện sống nào đó liên quan đến vấn đề ngừa thai (cho chục thứ nhất), và phá thai (cho chục thứ hai) chẳng hạn. Để rồi, sau khi đọc 10 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh, tới phần Lời Nguyện Fatima, thay vì đọc lời nguyện này, cộng đồng giới trẻ bấy giờ sẽ dâng lời nguyện tự phát, hay được dọn sẵn, để cầu nguyện cho những cặp vợ chồng ngừa thai nhân tạo (sau chục thứ nhất mùa vui), hay cho những thai mẫu phá thai (sau chục thứ hai mùa vui) v.v. Cứ thế, theo kiểu cách và chiều hướng như được gợi ý ở hai mầu nhiệm Mùa Vui thứ nhất và thứ hai này, chúng ta có thể áp dụng cho cả 20 ngắm.

Ngoài ra, cũng cần phải để ý tới thời điểm cầu Kinh Mân Côi với giới trẻ nữa. Chẳng hạn, cầu Kinh Mân Côi Mùa Vui trong Mùa Vọng và Giáng Sinh, 5 Mầu Nhiệm Ánh Sáng trong Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh (giữa Mùa Giáng Sinh và Mùa Chay), Mùa Thương trong Mùa Chay và Tuần Thánh, và Mùa Mừng trong Mùa Phục Sinh và Thường Niên Hậu Phục Sinh (tức từ Lễ Chúa Phục Sinh cho tới Lễ Chúa Kitô Vua). Tuy nhiên, để tránh tình trạng cứ suy ngắm 5 Mầu Nhiệm Mân Côi giống nhau kéo dài liên tục cả một Mùa Phụng Vụ như thế, nhất là Mùa Phục Sinh (7 tuần) và Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh (trên 20 tuần), căn cứ vào nguyên tắc “phương trợ” được ĐTC Gioan Phaolô II đề cập đến ở điểm thứ ba trên đây, người tông đồ giới trẻ còn có thể cầu Kinh Mân Côi với giới trẻ bằng cách chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô theo bài Phúc Âm của Chúa Nhật hằng tuần. Tất nhiên người tông đồ giới trẻ phải đọc và suy ngắm bài Phúc Âm này trước, để làm sao tìm được đủ 5 ý tưởng cho 5 ngắm, và 5 ý nguyện cho năm ngắm ấy nữa.

Người viết áp dụng việc cử hành Mầu Nhiệm Mân Côi theo Phụng Vụ Lời Chúa hằng tuần với giới trẻ Thiếu Nhi Fatima lần đầu tiên vào Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng Lễ Các Thánh 1/11/2003. Theo mẫu thức này, mỗi Đoàn sẽ phải dọn 5 ngắm theo bài Phúc Âm như vậy khi đến phiên tổ chức Thứ Bảy Đầu Tháng tại Đoàn của mình, vào những lần sau. Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật 31 Thường Niên Năm B ngày 2/11/2003 là bài Phúc Âm về chủ đề “Giới răn trọng nhất”. Bởi thế, Người viết đã chia 5 Mầu Nhiệm Mân Côi theo Phụng Vụ Lời Chúa chủ đề “Giới Răn Trọng Nhất” ra như sau: chục thứ nhất suy ngắm “yêu Chúa hết tâm can”, chục thứ hai suy ngắm “yêu Chúa hết linh hồn”, chục thứ ba suy ngắm “yêu Chúa hết trí khôn”, chục thứ bốn suy ngắm “yêu Chúa hết sức lực”, và chục thứ năm suy ngắm “yêu tha nhân như mình”. Sau đây là những gì người viết cùng với giới trẻ Thiếu Nhi Fatima chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô qua ánh mắt và con tim của Mẹ Maria.

Thứ nhất “yêu Chúa hết tâm can”:

Suy Diễn: Chính vì “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất” mà loài người chúng ta phải kính mến Ngài hết mình và yêu thương tha nhân như mình. Thật vậy, “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, ở chỗ, Ngài đã dựng nên loài người chúng ta theo hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài, nhờ đó, với tâm linh ý thức và tự do, chúng ta có thể nhận biết Ngài là Đấng Hóa Công và yêu mến Ngài là Đấng Cứu Độ, như Ngài biết Ngài và yêu Ngài, hầu được thông phần vào Sự Sống Thần Linh của Ngài và với Ngài.

Ý Nguyện: Lạy “Chúa, Thiên Chúa của chúng con, là Chúa duy nhất”, chính vì loài người tạo vật chúng con đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa và tương tự như Chúa mà chúng con phải yêu mến Chúa hết tâm can của chúng con, bằng không, lòng chúng con sẽ không bao giờ được no thỏa và an bình, đúng như Thánh Âu Quốc Tinh đã “Tự Thú” xác tín: “Chúa đã dựng nên trái tim con cho Chúa nên lòng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa”. Xin Mẹ Maria, đã yêu mến Chúa hết lòng khi thưa tiếng “xin vâng”, giúp chúng con biết “yêu Chúa hết tâm can, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, và “yêu tha nhân như mình”. Amen.

(Biệt chú: Có thể chia một nam đọc câu suy diễn một cách suy tưởng chầm chậm, và một nữ đọc câu ý nguyện một cách thiết tha ước vọng)

Thứ hai “yêu Chúa hết linh hồn”:

Suy Diễn: Chính vì “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất” mà loài người chúng ta phải kính mến Ngài hết mình và yêu thương tha nhân như mình. Thật vậy, “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, ở chỗ, sau khi hai nguyên tổ sa ngã phạm tội, đã nhẹ dạ nghe theo chước cám dỗ của tên sát nhân ngay từ ban đầu là ma quỉ hơn tin tưởng nghe những lời của Thiên Chúa vô cùng chân thiện, những lời ban sự sống, Chúa vẫn không bỏ mặc con người hết sức đáng thương; trái lại, Chúa đã tự hứa cứu độ con người, bằng lời hứa sẽ ban cho họ một Đấng Cứu Độ được sinh ra bởi giòng dõi loài người của họ, bởi một người phụ nữ.

Ý Nguyện: Lạy “Chúa, Thiên Chúa của chúng con, là Chúa duy nhất”, chính vì Chúa đã yêu thương chúng con khi chúng con còn là những tội nhân, tức khi chúng con, sau nguyên tội, đã trở thành những tội nhân ô uế đáng kinh tởm trước thánh nhan chí ái chí tôn của Chúa, trở thành những kẻ thù đáng Chúa muôn đời trừng phạt, mà tội nhân diễm phúc chúng con phải yêu mến Chúa là Đấng vô cùng trọn lành hết linh hồn của chúng con. Xin Mẹ Maria, đã yêu mến Chúa hết linh hồn khi cất tiếng chúc tụng “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, giúp chúng con biết “yêu Chúa hết tâm can, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, và “yêu tha nhân như mình”. Amen.

Thứ ba “yêu Chúa hết trí khôn”:

Suy Diễn: Chính vì “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất” mà loài người chúng ta phải kính mến Ngài hết mình và yêu thương tha nhân như mình. Thật vậy, “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, ở chỗ, qua Lịch Sử Cứu Độ, Ngài đã tỏ mình ra khi chọn cho Ngài một dân tộc trong các dân tộc trên trần gian này là dân Do Thái, đã thiết lập giao ước với các tổ phụ của họ là Abraham, Isaac và Giacóp, sau đó đã trung thành giữ tất cả mọi lời hứa hẹn và hoàn tất hết những điều giao ước của Ngài, bất chấp dân Ngài tuyển chọn có liên lỉ bất trung hay bội ước với Ngài bằng việc họ không tuân giữ giới luật thánh Ngài ban.

Ý Nguyện: Lạy “Chúa, Thiên Chúa của chúng con, là Chúa duy nhất”, chính vì Chúa hằng quan phòng cho cuộc đời của từng người chúng con trên trần gian này, và đã luôn tìm cách để tỏ mình ra cho mỗi một người chúng con, chẳng những qua tiếng lương tâm, mà còn qua những hoàn cảnh thuận lợi, để chúng con có thể thấy được dấu chỉ thời đại của sự hiện diện Thần Linh và lòng từ ái Chúa đối với cuộc đời của mỗi người chúng con, mà loài người thấp hèn chúng con phải yêu mến Chúa hết trí khôn, bằng việc luôn nhận biết Chúa, và nhận biết Chúa mỗi ngày một hơn. Xin Mẹ Maria, đã yêu mến Chúa hết trí khôn khi ấp ủ và suy niệm những gì Chúa tỏ ra cho Mẹ, giúp chúng con biết “yêu Chúa hết tâm can, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, và “yêu tha nhân như mình”Amen.

Thứ bốn “yêu Chúa hết sức lực”:

Suy Diễn: Chính vì “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất” mà loài người chúng ta phải kính mến Ngài hết mình và yêu thương tha nhân như mình. Thật vậy, “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, ở chỗ, Ngài đã yêu thương thế gian đến ban Người Con Duy Nhất của mình, để ai tin Người Con là tất cả Mạc Khải Thần Linh của Ngài thì không bị chết song được sự sống đời đời. Và Con của Chúa cũng đã đến để thực sự tỏ Cha của Người ra, bằng cách hoàn trọn tất cả những gì đã được Cha Người tiên báo về Người trong Lịch Sử Cứu Độ, khi Người làm chứng cho sự thật: Người chính là Đấng Thiên Sai được Chúa là Thiên Chúa chân thật duy nhất tiên báo cho dân Do Thái qua các vị tiên tri, và đồng thời cũng là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại như Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đã hứa với hai nguyên tổ ngay từ ban đầu sau nguyên tội.

Ý Nguyện: Lạy “Chúa, Thiên Chúa của chúng con, là Chúa duy nhất”, chính vì loài người tạo vật tỗi lỗi chúng con đã được Chúa tái sinh bởi trời, với quyền được làm con cái Thiên Chúa nơi Phép Rửa trong Thánh Thần và nhân danh Chúa Kitô, nhờ đó chúng con có thể kêu lên “Abba, Lạy Cha”, mà Kitô hữu chúng con phải yêu mến Chúa hết sức lực của mình, bằng việc sống theo tinh thần Chúa Kitô, cũng như theo tác động của Thánh Thần. Xin Mẹ Maria, đã yêu mến Chúa hết sức lực khi lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, giúp chúng con biết “yêu Chúa hết tâm can, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, và “yêu tha nhân như mình”. Amen.

Thứ năm “yêu tha nhân như mình”:

Suy Diễn: Chính vì “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất” mà loài người chúng ta phải kính mến Ngài hết mình và yêu thương tha nhân như mình. Thật vậy, “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, ở chỗ, chẳng những đã ban Người Con Duy Nhất của Chúa cho loài người qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, mà thậm chí còn không dung tha cho Con Mình, một đã phó nộp Người vì tất cả chúng ta, để thực sự chứng tỏ Ngài không phải chỉ là Đấng Hóa Công, Đấng Cứu Độ mà còn là chính Tình Yêu, một Tình Yêu hiệp thông, một Tình Yêu tha thiết muốn tất cả được hiệp nhất nên một với Ngài và trong Ngài.

Ý Nguyện: Lạy “Chúa, Thiên Chúa của chúng con, là Chúa duy nhất”, chính vì Kitô hữu chúng con, bởi Bí Tích Rửa Tội, đã được trở thành chi thể của Chúa Kitô, để làm nên Nhiệm Thể của Người, một Nhiệm Thể bao gồm tất cả mọi dân nước và mọi văn hóa trên thế giới, mà chúng con phải yêu thương nhau như chính bản thân mình, nhờ đó chúng con có thể làm cho thế gian nhận biết chúng con là môn đệ Chúa Kitô, hầu thế gian cũng được nên một với Giáo Hội trong Cha và Con và Thánh Thần. Xin Mẹ Maria đã yêu mến loài người bằng tất cả tấm lòng từ mẫu của Mẹ khi Mẹ đồng công đứng dưới chân thập giá Chúa Kitô, giúp chúng con biết “yêu Chúa hết tâm can, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, và “yêu tha nhân như mình”. Amen.

Tổng Nguyện:

Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu, xin thực hiện mọi sự Chúa muốn nơi con, để con được trở nên mọi sự cho tất cả mọi người, cho tất cả nên một trong Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

Kết: Tất cả cùng nhau hát bài “Kinh Hòa Bình” của Thánh Phanxicô Khó Khăn.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Những ngày cuối Tháng Mân Côi 10/2003

 

Tòa Thánh với vấn đề quảng cáo

ĐTGM John Foley, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Về Truyền Thông Xã Hội, hôm Thứ Ba 28/10/2003, đã ngỏ lời với Liên Hiệp Chuyên Gia Quảng Cáo Thế Giới ở Brussels, Bỉ quốc, nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập của tổ chức này. Bài diễn văn của vị TGM chủ tịch này mang tựa đề “Tên Tuổi Tốt là Việc Quảng Cáo hay nhất”. Trước hết, ngài công nhận là quảng cáo đã góp phần tích cực vào việc tiến bộ về kinh tế, xã hội, thậm chí ngay cả luân lý. Tuy nhiên, ngài cũng muốn nhấn mạnh đến “một vài nguyên tắc và quan tâm” như sau:

Nguyên tắc và quan tâm thứ nhất đó là vấn đề “cái là hơn cái có”, vì phẩm giá trời ban của chúng ta lệ thuộc vào cái là chứ không phải cái có. Bởi thế, “đừng hạ giá người nghèo, cho dù một cách vô thức. Hãy chú trọng tới phẩm chất, chú trọng đến hiệu năng, chú trọng thậm chí tới việc phục sức và sạch sẽ hơn cũng như tới dáng vẻ tốt đẹp, song đừng cho rằng việc sở hữu sẽ làm cho người này ngon hơn người kia”.

“Nguyên tắc thứ hai đó là phải tôn trọng mỗi một con người…. Chúng ta hồi âm nguyên tắc này với tư cách là những nhân viên khi chúng ta bị đối xử như là những nguyên tố sản xuất hơn là ngôi vị con người; chúng ta hồi âm nguyên tắc ấy nơi việc quảng cáo khi những con người được miêu tả hiện lên như những đối tượng hơn là như những ngôi vị con người, và nếu chúng ta, thành phần tiêu thụ, thật sự được đối xử như một con số đông nhiều cần phải đạt tới thay vì như là những ngôi vị con người cần phải được truyền thông sứ điệp quan trọng”.

“Nguyên tắc thứ ba của đạo lý trong vấn đề truyền thông đó là công ích. Nơi các xã hội dân chủ vấn đề đang được quan tâm hơn hiện nay là khía cạnh đạo lý của việc vận động chính trị”. Chẳng hạn như “các thứ tốn phí cho việc quáng bá đã giới hạn việc đấu tranh về chính trị vào các ứng viên hay các phái nhóm giầu tiền lắm bạc”, làm trở ngại cho tiến trình dân chủ”.

ĐTGM chủ tịch đã kết luận là: “Như quí vị đã quá rõ, việc quảng cáo hết sức ảnh hưởng đến các thứ giá trị và các nền luân lý trong xã hội, chứ không phải đến thói quen mua bán của dân chúng. Tôi hy vọng rằng quí vị nhận thức được quyền lực riêng của mình – và quí vị tiếp tục sử dụng quyền lực này một cách hữu trách, như nhiều người trong quí vị đang làm”.
 

30/10 Thứ Năm

ĐTC Nhắc Nhở Hai Ý Hướng Chính của Năm Mân Côi

Buổi triều kiến chung hằng tuần hôm Thứ Tư 22/10/2003 tuần trước bị át bởi Thánh Lễ mừng 25 năm đăng quang Giáo Hoàng, tuy nhiên, sau Thánh Lễ với 30 tân hồng y, ÐTC cũng đã đến Sảnh Ðường Phaolô VI hát Kinh Lạy Nữ Vương với đoàn hành hương tham dự buổi triều kiến chung hằng tuần. Buổi triều kiến chung Thứ Tư 29/10/2003, vì trời mưa tầm tã, đã được dời từ Công Trường Thánh Phêrô vào Đền Thờ Thánh Phêrô, nơi ĐTC chào những người hành hương tham dự buổi triều kiến chung này, rồi Ngài chia sẻ thẩm định của Ngài về Năm Mân Côi trong Sảnh Đường Phaolô VI.

1.     Năm Mân Côi được chấm dứt ở tháng Mười. Tôi hết lòng tạ ơn Thiên Chúa về thời điểm ân phúc này, một thời điểm toàn thể cộng đồng giáo hội đã có thể suy tư về giá trị và tầm quan trọng của Kinh Mân Côi, một kinh nguyện có tính cách Kitô học và chiêm niệm.

“Cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô” (Tông Thư ‘Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria’, đoạn 3). Những lời được luôn lưu trong tông thư ‘Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria’ này thực sự đã trở thành ‘câu tâm niệm’ của Năm Mân Côi. Những lời ấy diễn đạt một cách tổng hợp ý nghĩa thực sự của kinh nguyện vừa giản dị vừa sâu xa này. Những lời này đồng thời cũng nhấn mạnh đến tính cách liên tục giữa việc dự thảo về Kinh Mân Côi với đường lối được Tôi phác ra cho Dân Chúa ở tông thư ‘Mở Màn Tân Thiên Kỷ’ trước đó.

2.     Thật vậy, nếu vào lúc mở màn cho thiên kỷ thứ ba, Kitô hữu được kêu gọi thăng tiến như ‘những nhà chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô’ (Tông Thư ‘Mở Màn Tân Thiên Kỷ’, 16), và các cộng đồng giáo hội được kêu gọi trở thành ‘các học đường cầu nguyện đích thực’ (cùng nguồn, 33), thì Kinh Mân Côi làm nên ‘đường lối Maria’, một con đường đặc ân, trong việc chiếm đạt mục tiêu lưỡng diện này. Tha thiết với việc suy ngắm hơn bao giờ hết ‘mầu nhiệm’ Chúa Kitô, Giáo Hội nhập học đường của Mẹ Maria để suy niệm về ‘các mầu nhiệm’ của Phúc Âm Người. Đó là ‘đường lối Maria’ (x ibid, 24), một con đường Người đã thực hiện cuộc hành trình đức tin mô phạm của Mẹ, như người môn đệ tiên khởi của Lời Nhập Thể. Nó đồng thời còn là đường lối của lòng thành thực sùng kính Thánh Mẫu, một lòng tôn sùng hoàn toàn được căn cứ vào mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Mẹ rất Thánh của Ngài (x. ibid).

3.     Trong Năm Mân Côi ấy, Tôi muốn khuyên dụ Dân Chúa hai ý hướng cầu nguyện chính: đó là ý hướng cầu nguyện cho hòa bình và ý hướng cầu nguyện cho gia đình.

Thế kỷ 21, được bắt đầu bằng dấu hiệu hòa giải của Đại Năm Thánh, bất hạnh thay đã được tiếp nối bởi những căng thẳng dai dẳng về chiến tranh và bạo lực vừa qua. Cuộc khủng bố tấn công gây rối loạn ngày 11/9/2001, cùng với những gì đã xẩy ra trên thế giới từ bấy giờ, đã gây thêm căng thẳng trên bình diện toàn cầu. Trước những tình hình đáng lo ngại này thì việc lần hạt Mân Côi không phải là tác động co mình lại, mà là một tác động ý thức chọn lựa theo đức tin: ở chỗ khi chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô là hòa bình và hòa giải của chúng ta chúng ta muốn thiết tha nài xin Thiên Chúa tặng ân hòa bình, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria Rất Thánh. Chúng ta xin Mẹ sức mạnh cần thiết để trở thành những người xây dựng hòa bình, bắt đầu bằng đời sống hằng ngày trong gia đình.

Gia đình! Thật vậy, hạt nhân gia đình phải là lãnh giới đầu tiên cần lãnh nhận, vun trồng và canh giữ bình an của Chúa Kitô. Tuy nhiên, ở vào thời đại của chúng ta đây, nếu không cầu nguyện, gia đình càng khó hiện thực ơn gọi của mình. Đó là lý do tại saothật sự cần phải phục hồi lại tập tục tốt đẹp của việc lần hạt Mân Côi trong gia đình, như đã thực hiện nơi các thế hệ trước đây. “Gia đình cùng nhau nguyện cầu là gia đình cùng nhau chung sống” (Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, đoạn 41).

4.     Tôi xin dâng lên cho Đức Mẹ hai ý hướng này, để xin Mẹ bảo vệ các gia đình và xin ơn an bình cho cá nhân cũng như cho toàn thế giới.

Cùng với Đức Trinh Nữ, Tôi hy vọng rằng tất cả mọi tín hữu sẽ quyết tâm chấp nhận đi vào con đường thánh đức, gắn chặt mắt vào Chúa Giêsu, và với Kinh Mân Côi suy niệmcác mầu nhiệm cứu độ. Đó là hoa trái quí giá nhất của năm được giành để cầu Kinh Mân Côi này vậy.

Anh Chị Em thân mến,

Trong Năm Mân Côi, toàn thể Giáo Hội đã cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô và đã cố gắng trở thành một học đường cầu nguyện thực sự. Trước tình trạng chiến tranh, bạo lực và căng thẳng thì việc cầu Kinh Mân Côi là một tác động ý thức diễn đạt đức tin: ở chỗ khi suy ngắm Chúa Kitô chúng ta nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria nài xin ơn hòa bình, và chúng ta xin Mẹ sức mạnh để trở thành những người xây dựn g hòa bình, đặc biệt là trong gia đình.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 29/10/2003



MẸ MÂN CÔI - NGUỒN HY VỌNG CỨU ĐỘ CUỐI THỜI


Tại sao Năm Mân Côi được bế mạc vào Ngày Truyền Giáo 19/10/2003, chứ không vào cuối Tháng Mân Côi?

Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 19/10/2003 Giáo Hội cử hành ba biến cố một lúc: Mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng (1978-2003) của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, mừng Mẹ Têrêsa Calcutta được ĐTC tuyên phong lên bậc Chân Phước trong chính Ngày Giáo Hội Truyền Giáo, và bế mạc Năm Mân Côi. Không phải ngẫu nhiên Tòa Thánh, đúng hơn, Đức Thánh Cha đương kim của chúng ta, cố ý muốn cử hành ba biến cố này cùng một lúc trong Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 19/10/2003.

Trước hết, về việc mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào chính ngày Giáo Hội Truyền Giáo này không phải chỉ vì thời điểm trùng hợp, thời điểm Ngài được tuyển bầu lên làm giáo hoàng (16/10/1978) và đăng quang giáo hoàng (22/10/1978) của Ngài xẩy ra trước và sau Ngày Chúa Nhật Giáo Hội Truyền Giáo năm 2003 này. Cho dù thời điểm có trùng hợp đi nữa, thì biến cố Đức Thánh Cha được tuyển bầu làm giáo hoàng 25 năm trước đây vào Tháng Mân Côi cũng như vào gần dịp Chúa Nhật Truyền Giáo bao giờ cũng vào Tháng Mười đã là những dấu chỉ thời đại cho thấy vị giáo hoàng sẽ dẫn đắt Giáo Hội ấy như thế nào, một vị giáo hoàng, 25 năm năm sau, người ta phải công nhận là một Vị Giáo Hoàng “duc in altum” (thả lưới ở chỗ nước sâu), một Vị Giáo Hoàng chẳng những hăng say truyền giáo qua hằng trăm chuyến tông du khắp thế giới, mà còn sâu xa chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô bằng đời sống cầu nguyện, đặc biệt qua Kinh Mân Côi, một kinh nguyện Ngài đã thêm 5 Mầu Nhiệm Ánh Sáng trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria ngày 16/10/2002, ngày bắt đầu năm giáo triều thứ 25 của Ngài.

Sau nữa, về việc tôn phong chân phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta, vị duy nhất trong 6 vị tân Á Thánh được Giáo Hội tuyên phong vào cuối năm 2003 (5 vị khác vào ngày 9/11 cùng năm) được Giáo Hội thực hiện vào chính Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo. Sự kiện này cũng dễ hiểu, vì Mẹ Têrêsa Calcutta chẳng những là vị sáng lập hội dòng Chư Thừa Sai Bác Ái, một hội dòng phát triển nhanh nhất lịch sử các hội dòng của Giáo Hội từ trước đến nay, mới trong vòng 50 năm đã phát triển đến 120 quốc gia với cả 4 ngàn nữ tu trên khắp thế giới, mà còn được ĐTC Gioan Phaolô II, ngay sau ngày phong chân phước cho Mẹ, 20/10/2003, đã khẳng định với phái đoàn hành hương tham dự Lễ Phong Chân Phước cho Mẹ rằng “Vị tân chân phước này chắc chắn là một trong những vị đại thừa sai của thế kỷ 20”.

Thế nhưng, vấn đề lạ ở đây là Năm Mân Côi được kết thúc, được bế mạc vào chính Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, 19/10/2003, chứ không phải vào cuối Tháng Mân Côi. Như thế không phải Giáo Hội nói chung và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói riêng, vị giáo hoàng đã ban hành bức Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, muốn nhấn mạnh đến mối liên hệ mật thiết sâu xa giữa đời sống nội tâm và cầu nguyện với việc tông đồ truyền giáo hay sao!? Nếu hoạt động tông đồ truyền giáo là hoạt động của một nội tâm dồi dào thần linh và là hoạt động cần phải được phát xuất từ một cuộc sống kết hợp nguyện cầu, một tình trạng thật sự và hoàn toàn “duc in altum” (thả lưới ở chỗ nước sâu), thì ĐTC đã chí lý khi xác quyết trong Sứ Điệp cho Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 2003 về thời điểm bế mạc Năm Mân Côi như sau: “Nếu Ngày Chúa Nhật Thế Giới Truyền Giáo, được xẩy ra vào đúng lúc kết thúc Năm Thánh Mẫu đặc biệt này, được sửa soạn kỹ lưỡng, nó sẽ là một động lực mạnh mẽ hơn nữa cho việc dấn thân của cộng đồng giáo hội… Tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, bằng việc hằng ngày đọc kinh Mân Côi và suy niệm các mầu nhiệm đời sống của Chúa Kitô, là chú trọng đến sự kiện sứ mệnh của Giáo Hội phải được bảo dưỡng trước hết bằng việc cầu nguyện” (đoạn 2).


Giáo Hội Truyền Giáo toàn cầu ngày nay phải chăng là dấu chỉ tiên báo thời thế mạt?

Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 19/10/2003 được Giáo Hội cử hành 3 biến cố một lúc, liên quan đến ĐTC Gioan Phaolô II, đến Mẹ Têrêsa Calcutta và đến Kinh Mân Côi như thế, phải chăng là một dấu chỉ thời đại cho thấy những gì đã được nói đến về thời thế mạt, về cuộc chung thẩm cánh chung cũng như về tước hiệu Thánh Mẫu Mân Côi Fatima?

Đúng thế, theo Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 24 câu 12 và 14, thì thời thế mạt hay thời tận thế sẽ được diễn tiến thứ tự như sau: trước hết là tình trạng lòng người trở nên nguội lạnh; sau đó là việc truyền bá phúc âm hóa được thực hiện khắp thế giới; và sau hết mới tới cùng tận. Nguyên văn của hai câu Phúc Âm rất quan trọng này như sau: “Vì sự dữ tăng phát mà lòng mến của hầu hết trở nên nguội lạnh… Tin mừng về nước trời sẽ được loan báo khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước. Chỉ sau khi đó mới tới tận cùng”.

Đem áp dụng hai câu Phúc Âm này vào lịch sử cận đại và hiện đại của thế giới, kể từ thời Cách Mạng Kỹ Nghệ cuối thế kỷ 17, sang thời Cách Mạng Chính Trị với cuộc Cách Mạng Pháp từ cuối thế kỷ 18 năm 1789, tới thời Cách Mạng Xã Hội với việc xuất hiện chủ nghĩa Cộng Sản vào hậu bán thế kỷ 19, và thời Cách Mạng Nhân Bản với Bản Hiến Chương Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc ban hành ngày 10/12/1948, chúng ta thấy ứng nghiệm hơn bao giờ hết từng lời từng chữ sự kiện “vì sự dữ tăng phát mà lòng mến của hầu hết trở nên nguội lạnh”. Hiện tượng thiếu ơn kêu gọi và bao viện tu bỏ trống ở các nước Âu Mỹ không phải là một chứng cớ hay sao? Nạn tu trì lạm dụng tình dục, phá giới, phản chống Giáo Hội v.v. không phải là một chứng cớ mạnh mẽ hơn nữa hay sao?? Trào lưu ly dị và phá thai nơi đời sống hôn nhân gia đình cũng không cho thấy hiển nhiên tính chất ứng nghiệm của lời Chúa Giêsu tiên báo ấy hay sao???

Cũng chính “vì sự dữ tăng phát mà lòng mến của hầu hết trở nên nguội lạnh” như thế, là muối đất men bột (x Mt 5:14, 13:33), Giáo Hội Chúa Kitô, kể từ thập niên 1960, thập niên của Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962-8/12/1965), đã ý thức được sứ mệnh là bí tích cứu độ của mình (x Lumen Gentium, 1), cũng như nhận thức được bản chất của mình là truyền giáo (x Ad Gentes, 2), đã nỗ lực canh tân để thực sự trở thành “Ánh Sáng Muôn Dân” (nhan đề của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội ban hành ngày 21/11/1964), nhờ đó mang lại “Vui Mừng và Hy Vọng” (nhan đề của Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội ban hành ngày 7/12/1965) đến cho một thế giới càng văn minh vật chất và nhân bản càng sặc mùi văn hóa sự chết. Chính vị giáo hoàng bất ngờ xuất hiện trước mắt thế giới từ một nước cộng sản Balan đã được Thiên Chúa sai đến để thực hiện chiều hướng “duc in altum” (thả lưới ở chỗ nước sâu) và “ad gentes” (cho muôn dân) này của Công Đồng Chung Vaticanô II. Chính tên hiệu giáo hoàng kép Gioan Phaolô (Gioan nội tâm; Phaolô truyền giáo) Ngài chọn đã cho thấy rõ chủ hướng dứt khoát ấy của giáo triều Ngài.

Một trong những việc Ngài làm liên quan đến vấn đề củng cố nội tâm của Giáo Hội đó là việc tổ chức Mừng Đại Năm Thánh 2000, để Giáo Hội có thể bắt đầu lại từ Chúa Kitô, bằng việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô, “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” (Redemptor Hominis, Bức Thông Điệp đầu tiên của Ngài ban hành Chúa Nhật thứ nhất 4/3/1979), Đấng “là tâm điểm của vũ trụ và lịch sử”. Một trong những thành đạt về truyền giáo Ngài được lịch sử thế giới ghi công đó là hoạt động ngoại giao mục vụ của Ngài tại Balan trong chuyến tông du thứ hai 6/1979, một chuyến tông du được các chính khách nổi tiếng trên thế giới đương thời công nhận đã ảnh hưởng tới việc sụp đổ bất ngờ cả khối Cộng Sản Đông Âu cuối năm 1989, rồi tới khối Cộng Sản Liên Bang Sô Viết vào ngày 25/12/1991. Việc truyền giáo của Ngài vẫn tiếp tục cho tới dịp mừng ngân khánh giáo hoàng của Ngài là 102 chuyến tông du khắp thế giới không phải là những gì đã ứng nghiệm lời Chúa Giêsu tiên báo: “Tin mừng về nước trời sẽ được loan báo khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước”. Sự kiện giáo triều của Ngài lúc bắt đầu mới có 85 quốc gia liên hệ ngoại giao với Tòa Thánh Vatican hay với Quốc Đô Vatican nay đã lên tới 174 quốc gia, quá gấp đôi một chút, không phải là dấu chứng cho thấy ảnh hưởng truyền giáo của Ngài đã lan “tới tận cùng trái đất” (Acts 1:8) như Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ trước khi về trời hay sao?

Sự kiện “Tin mừng về nước trời sẽ được loan báo khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước” chẳng những được thực hiện bởi chính hàng giáo phẩm, bởi chính đấng thừa kế chính vị trưởng tông đồ đoàn Phêrô, mà còn được thực hiện bởi đặc sủng nữa, bởi một nữ tu nhỏ con, tầm thường, ốm yếu, đơn thân và vô danh tiểu tốt vào hậu bán thập niên 1940. Đó là Mẹ Têrêsa Calcutta. Vị nữ tu sáng lập hội dòng Chư Thừa Sai Bác Ái này đã không thực hiện một đức ái trọn hảo Kitô giáo tại Calcutta, rồi tới khắp Ấn Độ từ đầu thập niên 1960, sau đó tới khắp thế giới, nhất là thế giới Cộng sản trong suốt thập niên 1980 và 1990. Cho tới khi Mẹ qua đời ngày Thứ Sáu 5/9/1997, tức sau 47 năm sau, từ khi hội dòng của Mẹ được Giáo Hội chính thức công nhận ngày 7/10/1950, đã có hơn 4 ngàn Chư Thừa Sai Bác Ái đã có mặt tại 123 quốc gia, kể cả các nước cộng sản. Như thế, tình trạng “vì sự dữ tăng phát mà lòng mến của hầu hết trở nên nguội lạnh”, đối với Chúa cũng như đối với nhau, đã không được đền đắp và cải tiến bằng đức bác ái trọn hảo của riêng bản thân Mẹ Têrêsa cũng như của chung hội dòng của Mẹ, một đức ái thực sự “như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước” hay sao?

Tuy nhiên, nơi sự kiện “Tin mừng về nước trời sẽ được loan báo khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước” bởi Mẹ Têrêsa Calcutta và hội dòng Chư Thừa Sai Bác Ái của Mẹ còn có một tín hiệu chung thẩm nữa. Ở chỗ, vị sáng lập hội dòng này, qua những lần được Chúa Giêsu thầm thĩ thúc giục trong lòng, Mẹ đã chủ trương phục vụ hết mọi thành phần nghèo khổ nhất trong các người nghèo, và Mẹ nhìn thấy nơi thành phần nghèo khổ nhất này hình ảnh của Chúa Kitô, đúng như những gì Vị Thẩm Phán Cánh Chung phán với cả thành phần chiên lẫn dê: “Khi các người làm (không làm những điều ấy) cho một trong những người anh em hèn mọn nhất của Ta là làm (không làm) cho chính ta” (x Mt 25:40,45). Phải chăng những việc Mẹ Têrêsa đã làm và Chư Thừa Sai Bác Ái của Mẹ đang tiếp tục làm trên khắp thế giới cho thành phần hẹn mọn nhất được đồng hóa với Chúa Kitô đây, chẳng những “như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước” thấy, mà còn là những gì đang sửa soạn cho Chúa Kitô đến trong vinh quang đức ái, có các thần trời sống bác ái hầu cận để phán xét thế gian về lòng mến của họ (x Mt 25:31)?

Chúng ta không biết sự kiện “Tin mừng về nước trời sẽ được loan báo khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước. Chỉ sau khi đó mới tới tận cùng” sẽ xẩy ra như thế nào. Nói cách khác, chúng ta không biết được chính xác việc loan báo tin mừng khắp thế giới của Giáo Hội đây sẽ kéo dài tới bao lâu thì ngày cùng tháng tận mới tới. Chúng ta, cũng qua Mạc Khải, chỉ biết rằng “cho tới khi đủ số Dân Ngoại”, tức cho tới khi “toàn dân Do Thái” trở lại nhận biết Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai (x Rm 11:25-26), như Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, ở số 674, xác nhận, mới tới ngày cùng tháng tận. Như vậy, dù chúng ta cũng không biết “đủ số Dân Ngoại” là bao nhiêu, và cho tới bao giờ mới đủ, nhưng hễ bao giờ thấy “toàn dân Do Thái” nhận biết Chúa Kitô của Kitô giáo là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế của họ, thì bấy giờ chúng ta biết rằng thời hạn của Dân Ngoại đã mãn. Hoạt động truyền giáo ngay trước thời cùng tận như lời Chúa Giêsu tiên báo trong Phúc Âm Thánh Mathêu trên đây, theo nghĩa này, là để tăng lên cho “đủ số Dân Ngoại”. Tuy nhiên, nếu vì dân Do Thái cứng lòng mà Dân Ngoại được hưởng phúc thế nào, thì dân Do Thái cũng được Thiên Chúa của họ xót thương khi Dân Ngoại bắt đầu quay ra phản bội Ngài, hay nói cách khác, khi con cái Giáo Hội bắt đầu chạy theo văn minh vật chất và duy nhân bản trở thành vô thần, bỏ Chúa.

Hiện tượng hay tình trạng Dân Ngoại hay các phần tử của Giáo Hội Chúa Kitô càng ngày càng trở thành vô thần cũng đã được Chúa Kitô tỏ cho biết khi Người nói về dụ ngôn 10 cô phù dâu, thành phần Kitô hữu môn đệ chờ mong Người tái giáng, một biến cố xẩy ra vào ngay nửa đêm, tức vào lúc mọi người đang mê ngủ, kể cả những cô phù dâu khôn ngoan mang dầu theo với đèn (x Mt 25:5-6). Đúng thế, như Chúa Kitô được chôn táng trong mồ trước khi vinh hiển phục sinh thế nào, Giáo Hội cũng sẽ phải trải qua những ngày tăm tối khủng khiếp cuối cùng về đức tin như vậy, trước khi được phục sinh trong vinh quang của Chúa Kitô tái giáng. Sách Giáo Lý Công Giáo ở số 675 đã khẳng định tình trạng này như sau:

“Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy ‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nĩ cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng hạng là cái lừa bịp Phản Kitơ, một chủ trương ngụy kitơ làm cho con người tơn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”.

Tuy nhiên, dù các cô phù dâu khôn ngoan có ngủ, nhưng lòng của họ vẫn thức, vì dầu đức cậy của họ vẫn còn đó, không cạn kiệt, không tuyệt vọng chán chường trước bóng dáng biệt tăm của “Đấng đang đến, đã đến và sẽ đến” (Rev 1:8), tức họ vẫn có thể đốt lên cây đèn đức tin cho nó lại bừng sáng ngọn lửa đức mến để rạng rỡ tiến ra nghênh đón chàng rể Giêsu bất chợt đến với cô dâu Giáo Hội (x Rev 21:2).


Việc cầu Kinh Mân Côi ngày nay là tác động ngưỡng vọng Chúa Kitô tái giáng!

Nếu đức mến là ngọn lửa bừng sáng ở phần bên trên ngọn đèn đức tin, một đức mến là tiêu biểu cho việc tông đồ truyền giáo và là một đức mến sáng ngời nơi việc tông đồ truyền giáo, thì đức cậy là một chất lỏng ở dưới lòng của cây đèn đức tin, một đức cậy tiêu biểu cho đời sống nội tâm, và là sinh lực của đời sống cầu nguyện, thì phải chăng Kinh Mân Côi có liên hệ với thời thế mạt, vì Kinh Mân Côi là một kinh nguyện thông dụng nhất của Kitô hữu và cho Kitô hữu, một kinh nguyện, với nội dung khi được đọc lên, chứng tỏ con người dù tội lỗi đến đâu cũng vẫn còn lòng trông cậy, vẫn còn khao khát muốn được cứu rỗi, vẫn còn nhận biết Đấng Tối Cao nơi Kỳ Công Tuyệt Tác Maria của Ngài.

Đúng thế, thực tế cho thấy, dù linh hồn đã hoàn toàn bị tắt lửa đức mến, ở chỗ, bỏ cả Chúa, không còn xưng tội rước lễ, tức không còn dám đến với Chúa qua các Bí Tích Thánh, nhất là trường hợp ở trong những hoàn cảnh (như chung sống ngoại hôn) không thể hay không được xưng tội rước lễ, nhưng nếu còn dầu đức cậy, còn biết cầm lấy tràng hạt, còn nắm chặt lấy Kinh Mân Côi, tức còn nhận biết chẳng những Vị đã được “Thiên Chúa là Đấng toàn năng đã làm cho những sự trọng đại” (Lk 1:49), qua lời chúc tụng “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà…”, mà còn nhận biết chính bản thân vô cùng hèn yếu và khốn nạn đáng thương của mình nữa, qua lời tuyên xưng van nài “cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”, chắc chắn họ vẫn còn kịp thời để ra đón Chúa Kitô bất cứ lúc nào Người đến. Phải chăng đó là lý do tại sao trong Biến Cố Thánh Mẫu Fatima 1917, Mẹ Maria không xưng mình với một tước hiệu nào khác, như Mẹ đã xưng mình ở Lộ Đức năm 1858 với tước hiệu “Ta Hoài Thai Vô Nhiễm Tội”, mà lại là tước hiệu: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi” vào lần hiện ra cuối cùng ngày 13/10/1917, một tước hiệu được kèm theo hiện tượng mặt trời biến động trên không trung làm cho 10 ngàn người chứng kiến bấy giờ tưởng tận thế xẩy ra?

Trước hết, tước hiệu “Ta là Mẹ Mân Côi” liên quan đến chính Đức Mẹ. Theo lịch sử Giáo Hội, nếu tước hiệu Đức Mẹ Mân Côi được gắn liền với Vị Nữ Vương Thắng Trận, ở cả việc chinh phục lạc giáo, như chinh phục bè rối Albigense thời Thánh Phụ Đaminh vào thế kỷ 12, lẫn việc chiến thắng ngoại thù của Giáo Hội, như ở trận hải chiến gần Vịnh Côrintô với Hồi giáo năm 1571, những sự kiện lịch sử đã được Đức Thánh Cha Lêô nhắc đến trong Thông Điệp về Kinh Mân Côi của Ngài, Thông Điệp Supremi Apostolatus ban hành ngày 1/9/1883, thì không còn thời nào như thời đại văn minh của con người ở thế kỷ 20 tới nay, một thời đại văn minh đầy lạc thuyết, với biết bao tiên tri giả xuất hiện (x Mt 24:5,11,24), được tiêu biểu và gồm tóm nơi Tân Tiến Thuyết là lạc thuyết đã bị Thánh Giáo Hoàng Piô X lên án qua Thông Điệp Pascendi Dominici Gregis ban hành ngày 8/9/1907, vì theo Ngài nó là “tổng hợp tất cả các lạc thuyết” (Thông Điệp, số 39), cũng như qua Bản Lên Án Những Sai Lầm của Tân Tiến Thuyết ban hành ngày 3/7/1907, cũng là thời đại Giáo Hội bị cả ngoại thù là các lực lượng cực đoan tôn giáo (nhất là Hồi giáo, kể cả Ấn giáo) bách hại và sát hại.

Hiện tượng mặt trời biến động ngày 13/10/1917 là một dấu chỉ thời đại cho thấy Mẹ Mân Côi là Nữ Vương Trời Đất, cho thấy quyền năng vô địch của Mẹ trên vũ trụ cũng như trong lịch sử loài người diễn tiến trong vũ trụ này. Nếu mặt trời là tiêu biểu cho mặt trời công chính là Chúa Kitô thì Mẹ Mân Côi Maria đang sửa soạn cho Vị Thẩm Phán Chung Thẩm này đến trong vinh quang vào ngày thế mạt. Ngoài ra, nếu mặt trời là trung tâm của vũ trụ, liên quan đến vận mệnh của vũ trụ nói chung và của loài người nói riêng, thì Mẹ Mân Côi Maria, một khi làm cho mặt trời biến động như thế, Mẹ sẽ là vị nắm trong tay mình vận mệnh của cả vũ trụ lẫn thế giới loài người.

Chính Thiên Chúa, Đấng “muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, một bí mật đã được Mẹ Maria tiết lộ cho 3 Thiếu Nhi Fatima biết ngày 13/7/1917, thực sự đã làm cho uy quyền Mẹ Maria được loài người nhận biết vào cuối thế kỷ 20, qua hiện tượng Ngài đã làm cho Nước Nga trở lại vào chính Lễ Giáng Sinh 25/12/1991, khi vị lãnh đạo cuối cùng của Khối Liên Bang Sô Viết là Gorbachev chính thức từ chức. Tuy nhiên, hiện tượng Nước Nga tự động trở lại quyết liệt này, chỉ xẩy ra sau khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hoàn toàn đáp ứng ý Thiên Chúa muốn, như được Mẹ tỏ cho chị Lucia ngày 13/6/1929, là việc Ngài muốn ĐTC phải cùng với hàng giáo phẩm thế giới hiệp dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Tuy nhiên, tác động hiến dâng cần thiết đã được Đức Piô XII thực hiện từ ngày 31/10/1942 và 7/7/1952, rồi Đức Phaolô VI vào ngày 21/11/1964 trong Công Đồng Chung Vaticanô II, nhưng cuối cùng chỉ hoàn trọn vào ngày 25/3/1984, đúng như cách thức Thiên Chúa muốn, sau biến cố Đức Gioan Phaolô II bị ám sát vào chính ngày 13/5/1981, ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima lần đầu tiên.

Sự kiện Mẹ Maria xuất hiện liên tiếp từ đầu thế kỷ 19, và sự kiện Thiên Chúa làm cho Mẹ được nhận biết vào cuối thế kỷ 20, đã xẩy ra đúng như lời tiên báo của Thánh Long Mộng Phố trong cuốn Thành Thật Sùng Kính Mẹ Maria, ở số 49 và 54 (dưới đây), được viết từ đầu thế kỷ 18 về “những thời buổi sau này” liên quan đến việc tỏ hiện của Mẹ Maria, Đấng đã bắt đầu Thời Điểm Maria của mình với Biến Cố Thánh Mẫu Paris năm 1830 với chị Thánh Catarina Labuarê, qua Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức năm 1858 với Thánh Nữ Bênađetta, đến Biến Cố Thánh Mẫu tuyệt đỉnh ở Fatima năm 1917 với 3 Thiếu Nhi Fatima, 2 em nhỏ trong 3 em bấy giờ đã được phong chân phước ngày 13/5 trong Đại Năm Thánh 2000.

“Qua Mẹ Maria ơn cứu độ thế giới đã được mở màn thế nào thì cũng qua Mẹ Maria nó phải được chấm dứt như thế… Vào lần đến thứ hai của Chúa Kitô, Chúa Thánh Linh sẽ làm cho Mẹ được nhận biết và hiện lộ, để qua Mẹ, Chúa Giêsu Kitô được nhận biết, yêu mến và phụng sự” (đoạn 49);

• “Quyền năng của Mẹ Maria trên tất cả mọi quỉ thần đặc biệt sẽ được sáng tỏ vào những thời buổi sau này, khi mà Satan sẽ giăng bẫy tấn công gót chân của Mẹ, tức là tấn công những tôi tớ khiêm hạ của Mẹ cũng như tấn công các con cái nghèo hèn của Mẹ, thành phần Mẹ sẽ dấy lên để chống lại hắn” (số 54).


Nếu tước hiệu “Ta là Mẹ Mân Côi” liên quan đến người cầu Kinh Mân Côi, đến chính Mẹ Maria, thì tước hiệu này còn liên quan cả đến chính Kinh Mân Côi nữa. Thật thế, tước hiệu “Ta là Mẹ Mân Côi” liên quan đến chính bản chất của việc cầu nguyện nói chung, nhất là của việc cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi nói riêng. Theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ở đoạn 3 của Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, Ngài đã định nghĩa “việc cầu kinh Mân Côi không là gì khác ngoài việc cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô”.

Vậy khi trung thành cầu Kinh Mân Côi, linh hồn chẳng những tỏ ra nhận biết Thiên Chúa nơi Kỳ Công Tuyệt Tác Maria của Ngài, và nhận biết thân phận tội lỗi đáng thương của mình, mà còn tỏ ra ngong ngóng trông đợi Chúa Kitô nữa. Thật thế, khi chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô qua các Mầu Nhiệm Mân Côi, linh hồn không phải chỉ suy tưởng nguyên về những gì Người đã làm cho loài người khi Người còn sống trên trần gian, mà thực sự họ tỏ ra khao khát được hoàn toàn hiệp nhất nên một với Người, được trọn vẹn nên giống hệt như Người, nhất là được đời đời hợp hoan với Người trên nơi trường sinh vinh phúc, nghĩa là họ khao khát cho những gì Người làm được “nên trọn” (Jn 19:30), nơi bản thân họ, trên thế gian, trong lịch sử loài người, nhất là vào ngày cùng tháng tận. Có thể nói việc cầu Kinh Mân Côi chính là việc ngưỡng vọng Chúa Kitô tái giáng trong vinh quang, là việc ngưỡng vọng cho Vương Quốc của Người trị đến.

Nếu Mẹ Maria thực sự xuất hiện là để dọn đường cho Con Mẹ tái giáng, như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả xưa kia dọn đường cho Người đến với dân Do Thái lần đầu, thì lời Mẹ kêu gọi vào ngày 13/10/1917 để hoàn toàn kết thúc Biến Cố Thánh Mẫu Fatima: “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm nhiều lắm rồi”, cũng là lời âm vang của sứ điệp Phúc Âm: “Thời gian đã trọn. Nước Thiên Chúa đã gần. Hãy ăn năn hối cải và tin vào Phúc Âm” (Mk 1:15). Mẹ Maria đã và đang dọn đường cho Con Mẹ tái giáng ở chỗ Mẹ hiện ra đây đó để thức tỉnh con người, nhờ đó họ có thể tỉnh thức khi Người đến, tức để họ có thể ra nghênh đón Người. Mẹ Maria dọn đường cho Con Mẹ đến là ở chỗ đó, ở chỗ sửa soạn cho thành phần Kitô hữu, như những kẻ giúp việc ở tiệc cưới Cana (x Jn 2:5), sẵn sàng cho việc Người tỏ vinh hiển của Người ra vào giờ của Người. Như thế, nếu việc cầu Kinh Mân Côi là tác động “cùng Mẹ Maria chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô” thì việc cầu Kinh Mân Côi này cũng là tác động tỏ ra muốn nghe theo lời Mẹ căn dặn “hãy làm theo những gì Người bảo” để Chúa Kitô có thể tỏ vinh quang của Người ra nơi chính bản thân con người cầu Kinh Mân Côi, và qua họ trên thế gian, tức để thế gian là nơi đã được “Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14) sửa soạn sẵn sàng nghênh đón “Con Người đến trong vinh quang” (Mt 25:31).

 

Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, những ngày cuối Tháng Mân Côi 2003
 

29/10 Thứ Tư


Phụng Vụ Giờ Kinh Tối: Ý nghĩa và cấu trúc

(Bài giáo lý 89 về việc cầu nguyện bằng Thánh Vịnh, Thứ Tư 15/10/2003)

Căn cứ vào nhiều bằng chứng chúng ta biết được rằng, từ thế kỷ thứ 4 trở đi, phụng vụ giờ kinh sáng và giờ kinh tối đã có cơ sở vững chắc nơi cả Giáo Hội Đông Phương lẫn Tây Phương. Thánh Ambrôsiô chẳng hạn, đã nói: “Giống như mỗi ngày, dù đi đến nhà thờ hay cầu nguyện tại gia, chúng ta đều bắt đầu với Thiên Chúa và kết thúc nơi Ngài, thì chớ gì mỗi ngày chúng ta sống trên thế gian này cũng như trong sinh hoạt của từng ngày sống của chúng ta được bắt đầu với Ngài và kết thúc trong Ngài” ("De Abraham," II, 5,22).

Như giờ kinh ban mai được thực hiện vào sáng sớm thế nào thì giờ kinh tối cũng được thực hiện khi chiều xuống như thế, vào giờ khắc của lễ toàn thiêu được tiến hương trong đền thờ Giêrusalem. Vào giờ khắc ấy, Chúa Giêsu, sau khi chết trên cây thập giá, được an táng trong mồ đá, để hiến dâng mình cho Cha vì phần rỗi thế gian.

Trong việc giữ các truyền thống tương xứng của mình, các Giáo Hội khác nhau đã sắp xếp Phụng Vụ Giờ Kinh theo nghi thức riêng của mình. Ở đây chúng ta chỉ nói đến lễ nghi Rôma mà thôi.

2.     Buổi cầu nguyện được bắt đầu với lời kêu cầu “Chúa ơi, xin đến giúp con” Deus in adiutorium, câu thứ hai của bài Thánh Vịnh 69 là bài Thánh Vịnh được Thánh Bênêđictô ấn định cho hằng giờ. Câu này nhắc nhở chúng ta rằng chỉ có nhờ Thiên Chúa chúng ta mới có ơn để xứng đáng chúc tụng Ngài. Câu ấy được tiếp theo bằng lời Vinh Danh, vì vinh quang của Chúa Ba Ngôi nói lên chiều hướng thiết yếu của kinh nguyện Kitô giáo. Sau hết, trừ trong Mùa Chay, còn có Alleluia nữa, một diễn tả của người Do Thái mang ý nghĩa “chúc tụng Chúa”, và là lời đối với Kitô hữu trở thành một biểu lộ hân hoan tin tưởng vào việc bảo vệ Thiên Chúa tỏ ra đối với dân của Ngài.

Việc hát bài Thánh Ca làm cho lý do của việc Giáo Hội chúc tụng âm vang trong việc cầu nguyện, gợi lên theo nguồn cảm hứng thi ca những mầu nhiệm được thể hiện vì phần rỗi của con người đặc biệt vào lúc hoàng hôn, lúc Chúa Kitô hy tế trên cây thập giá.

3.     Việc sắp xếp các bài thánh vịnh cho phụng vụ giờ kinh tối gồm có hai bài Thánh Vịnh hợp với giờ khắc ấy và 1 bài ca vịnh được trích từ Tân Ước. Các bài Thánh Vịnh được chọn cho giờ kinh tối có các cung giọng khác nhau. Có những bài Thánh Vịnh sáng ngời đề cập đến một cách rõ ràng buổi tối, đèn đốt và ánh sáng; những bài Thánh Vịnh bộc lộ lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa, nơi ẩn náu vững chắc tạm thời của đời sống con người; những bài Thánh Vịnh tạ ơn và chúc tụng; những bài Thánh Vịnh truyền đạt cảm thức cánh chung vào lúc kết thúc ngày sống, và những bài khác có một tính chất khôn ngoan hay có giọng điệu thống hối. Ngoài ra, chúng ta thấy những bài Thánh Vịnh “Hallel” liên quan đến Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người. Trong Giáo Hội Latinh, các yếu tố đã được truyền lại là những gì bồi dưỡng kiến thức về các bài Thánh Vịnh cũng như về việc giải thích Kitô giáo, như những nhan đề, những bài cầu nguyệncủa sách Thánh Vịnh, nhất là các bài đối ca (see Principles and Norms for the Liturgy of the Hours, 110-120).

Bài đọc ngắn giữ một vị thế đặc biệt, là bài trong các giờ kinh tối được trích từ Tân Ước. Mục đích của các bài đọc này là đưa ra một câu thánh kinh mãnh liệt và hiệu nghiệm cũng như để in ấn câu thánh kinh này vào tâm trí để câu ấy được dịch thành đời sống (see Ibid., 45, 156, 172). Để làm cho việc nội tại hóa những gì đã được nghe thấy, bài đọc được theo sau bằng việc thinh lặng thích hợp, và bằng lời đối đáp cũng là lời đáp thưa, với việc hát xướng một số câu, cho sứ điệp của bài đọc, nhờ đó phát triển sự thành tâm chấp nhận của tham dự viên cầu nguyện.

4. Mào đầu bằng việc làm dấu thánh giá, bài ca vịnh phúc âm của Đức Trinh Nữ Maria (x Lk 1:46-55) được cất lên trang trọng. Như đã được Luật Thánh Bênêđictô (chương 12 và 17) chứng thực, việc thực hành hát bài ca vịnh Chúc Tụng cho kinh sáng và bài ca vịnh Ngợi Khen cho kinh tối “được xác nhận bởi truyền thống bình dân và phổ thông của Giáo Hội Rôma” (Principles and Norms for the Liturgy of the Hours, 50). Thật vậy, những bài ca vịnh như thế thật là xứng hợp để diễn tả cảm thức chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa về tặng ân cứu chuộc.

Trong việc cử hành cộng đồng Phụng Vụ Giờ Kinh, tác động xông hương bàn thờ, linh mục và dân chúng, khi những bài ca vịnh phúc âm được cất lên, có thể cho thấy, theo chiều hướng truyền thống Do Thái của việc xông hương ban sáng và ban tối trên bàn thờ hương thơm, tính chất của lễ toàn thiêu của “hy tế chúc tụng” được thể hiện nơi Phụng Vụ Các Giờ Kinh. Hiệp nhất với Chúa Kitô trong lời nguyện cầu, chúng ta có thể sống bản thân của mình tất cả những gì được Thư gửi giáo đoàn Do Thái nói:”Vậy nhờ Ngài chúng ta hãy tiếp tục dâng lên Thiên Chúa một hiến tế chúc tụng, tức là, hoa trái của miệng lưỡi tuyên xưng danh Người” (13:15; see Psalm 49:14,23; Hosea 14:3).
5. Sau bài ca vịnh này là lời chuyển cầu ngỏ cùng Chúa Cha hay đôi khi cùng Chúa Kitô, bày tỏ tiếng nói nài xin của Giáo Hội, nhớ lại mối quan tâm của Thiên Chúa đối với nhân loại là công cuộc của tay Ngài. Tính chất của những lời chuyển cầu ban tối này thực sự bao gồm việc cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ cho tất cả mọi hạng người, cho cộng đồng Kitô hữu, cũng như cho xã hội dân sự.

Sau hết, tín hữu quá cố cũng được tưởng nhớ đến. Phụng vụ kinh tối đạt đến tuyệt đỉnh nơi kinh nguyện của Chúa Giêsu là Kinh Lạy Cha, một tổng hợp của hết mọi lời chúc tụng cũng như hết mọi lời nài xin của con cái Chúa được tái sinh bởi nước và Thần Linh. Vào lúc cuối ngày, truyền thống Kitô giáo nhắc nhở đến việc hứ tha như đã xin Thiên Chúa trong Kinh Lạy Cha, cũng như đến việc hòa giải huynh đệ của loài người với nhau: Mặt trời không được lặn xuống khi con người còn giận dữ (see Ephesians 4:26).

Kinh tối được kết thúc bằng một lời cầu nguyện, hợp với Chúa Kitô tử giá, bày tỏ sự phó thác đời sống của chúng ta trong tay Chúa Cha, biết rằng Ngài không bao giờ từ chối ban phép lành tòa thánh cho những ai xin Người.

Anh Chị Em thân mến,

Phụng vụ hằng ngày của Giáo Hội chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi được tập trung vào việc cử hành giờ kinh sáng và giờ kinh tối. Giờ kinh tối, hay kinh tối, gợi lên cho thấy hy tế ban chiều được tiến hương trong đền thờ Giêrusalem, cũng như cho thấy giờ khắc Chúa Giêsu được đặt trong mồ đá để hiến mình cho Chúa Cha vì phần rỗi thế gian. Thứ tự diễn tiến của các bài Thánh Vịnh, các bài ca vịnh thánh kinh, các bài đọc và những lời chuyển cầu được kết thúc bằng Kinh Chúa Dạy, lời diễn tả hoàn hảo nhất của việc Giáo Hội chúc tụng Thiên Chúa, và là lời cầu nguyện cuối cùng gợi lên cho thấy những hoa trái của hy tế cứu độ Chúa Kitô ban cho tất cả thế gian.

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tài liệu từ Vatican Press Office được Zenit phổ biến ngày 15/10/2003)
 

Cuộc Khủng Bố Tấn Công 911: vẫn còn mập mờ nơi Tòa Bạch Ốc

Hôm Thứ Năm 23/10/2003, CNN loan tin rằng Thượng Nghị Sĩ Cộng Hòa Chuck Hagel ở Nebraska, một phần tử thuộc Tiểu Ban Tình Báo Thượng Viện, lên tiếng là “nhân dân Hoa Kỳ xứng đáng biết được những câu giải đáp” về vụ khủng bố tấn công 911, làm sao biến cố này có thể xẩy ra được.

Thượng Nghị Sĩ Dân Chủ Joseph Lieberman ở Connecticut, đồng bảo trợ ban hành đạo luật thiết lập Ủy Ban Quốc Gia về Cuộc Khủng Bố Tấn Công Hoa Kỳ, xin ủy ban này, nếu cần, ban trát hầu tòa cho Tòa Bạch Ốc. Ứng viên tổng thống thuộc đảng Dân Chủ Lieberman nói: “Sự kiện chính phủ Bush không cộng tác với ủy ban điều tra về việc làm sao xẩy ra vụ 911 là một việc quái quẩn. Họ đang giấu diếm những gì đây? Điều cần phải làm ở đây là tìm kiếm những gì chúng ta có thể về cách thức làm sao đã xẩy ra ngày 11/9 để chúng ta bảo đảm là sự việc này không còn tái diễn nữa”.

Vị phát ngôn viên Al Felzenberg của ủy ban được nguyên thống đốc New Jersey Thomas Kean lãnh đạo này nói rằng các phần tử của ủy ban ấy đang bàn đến vấn đề cần phải sự dụng tới những trát tòa nếu Tòa Bạch Ốc không chịu nộp những văn kiện được liệt kê. Trong những tháng vừa qua, ủy ban này đã than phiền là có một số cơ quan liên bang chậm trễ trong việc trình báo các văn kiện họ đòi hỏi. Vị phát ngôn viên trên cho biết rằng ủy ban này hơi bực bội về việc tìm kiếm cho đầy đủ tất cả các hồ sơ cần thiết, vì họ “coi nặng việc này”, một việc đã hết hạn từ Tháng 5 vừa rồi.

Việc điều tra của quốc hội này đã khám phá ra những chi tiết phản lại việc chống khủng bố, như việc Cơ Quan Tình Báo Trung Ương CIA và Văn Phòng Liên Bang Điều Tra FBI không chịu chia sẻ tín liệu hay trả lời những điểm mập mờ về tình báo liên quan đến việc thanh tra đảng khủng bố al Qaeda. Vị phát ngôn viên của ủy ban 10 nhân viên này còn cho biết vấn đề cần phải dùng đến các thứ trát hầu tòa chưa được quyết định hẳn: “Chúng tôi hy vọng là chúng tôi sẽ có những chất liệu chúng tôi cần theo thời hạn”.

Theo vị phát ngôn viên, ông chủ tịch của ủy ban này là Kean muốn đi vào các vấn đề chính yếu chứ không phải những vấn đề phương thức. Ủy ban được thành lập từ mùa thu năm trước ấy cần phải điều tra về 9 lãnh vực, trong đó có vấn đề tài trợ khủng bố và vấn đề an ninh không phận.
 

28/10 Thứ Ba

Thánh Gioan ĐẠT, Linh mục (1765 - 1798)

Hiến Mạng vì Đoàn Chiên

“Người mục tử nhân lành hiến mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10:11b). Đó là lời Đức Giêsu đã được Thánh Gioan Đạt đem ra thực hiện một cách tuyệt hảo. Đang khi quân lính truy bắt, cha có thừa cơ hội trốn thoát, nhưng vì thương các tín hữu đang bị tra khảo, thấy quân lính tàn nhẫn đánh đập họ vì mình, cha đã tự nguyện ra trình diện.

Gioan Đạt mở mắt chào đời năm 1765 tại làng Khê Câu, huyện Bình Lục, Thanh Hóa, địa phận Tây Đàng Ngoài. Mồ côi cha từ nhỏ, cậu Đạt xin phép mẹ để hoàn toàn hiến thân cho Chúa dưới sự chăm sóc đầy tình thương của cha Loan xứ Đồng Chuối. Năm 18 tuổi, cậu xin vào chủng viện, sau đó đi xứ một thời gian. Đến năm 1798 thầy mới thụ phong linh mục.

Cha Gioan Đạt được phái đến xứ Hảo Nho, Thân Phú. Vị tân linh mục hết sức lo lắng cho các tín hữu nên được mọi người yêu quý. Cha chính địa phận Tây Đàng Ngoài nhận xét: “Cha Đạt có nhiều nhân đức, nhất là đức tuân phục và khó nghèo. Cha luôn chu toàn mọi bổn phận, nên Đức cha và các vị thừa sai đều quý mến. Lời cha giảng có sức mạnh đặc biệt, có sức thuyết phục lòng người”.

Mới thi hành tác vụ linh mục được sáu tháng, vua Cảnh Thịnh ra sắc chỉ bắt đạo gắt gao hơn trước. Quan trấn ra lệnh cho quân lính tầm nã các tín hữu, nhất là các đạo trưởng. Cha Đạt phải trốn lên rừng một thời gian. Khi thấy tình hình có vẻ lắng dịu, cha thường lẻn về giáo xứ ban các bí tích.

Một hôm cha vừa hoàn tất thánh lễ an táng tại tư gia, thì quân lính ập đến. Giáo hữu đưa cha ra sau nhà, và chỉ lối cho cha thoát thân. Thế nhưng cha không đành lòng bỏ rơi họ ra đi. Vì khi đó, lính đã tìm thấy chén thánh và áo lễ, nên đang tra tấn chủ nhà, ông trùm Mới và một số tín hữu khác. Như Đức Giêsu xưa yêu cầu quân Do Thái để các tông đồ được an toàn, cha cũng tự nguyện ra trình diện. Ngài nói: “Vẫn biết tôi có thể trốn thoát, nhưng như thế anh chị em sẽ khổ nhiều”.

Quân lính trói cha lại, rồi đánh đập tàn nhẫn cùng với thầy Tâm và ba vị trong ban chức giáo xứ. Các giáo hữu ở đó định cậy đông người dùng sức mạnh giải vây cứu cha, nhưng cha biết ý, cản họ lại: “Cứ để tôi vâng theo Thánh ý Chúa, anh chị em ở lại bình yên, kiên trung giữ đạo, và nhớ cầu nguyện cho tôi được vững vàng đến cùng”. Trên đường áp giải cha về Thanh Hóa, khi ngang qua làng Kẻ Dừa, có người cầm nón đưa cha đội, nhưng quân lính không cho.

Chứng Tá Trong Tù

Hai tháng tù tại Đình Đang, cha Đạt làm mọi người bỡ ngỡ, vì thấy cha trong hoàn cảnh đó mà vẫn bình tĩnh vui vẻ. Khi các tín hữu đến thăm và khóc thương, cha nói chuyện vui cho họ bớt ưu sầu và an ủi khích lệ họ. Cha nói: “Tử đạo là phúc cao trọng, An Nam ta chưa được mấy người. Nếu được tử đạo, tôi mừng lắm”.

Lương dân sống gần trại giam cũng cảm mến thương cha. Một thiếu phụ lòng ngay đưa cha một chai độc dược để kết liễu cuộc đời khổ đau trong tù ngục. Cha từ chối và giải thích cho bà biết: “Người Công giáo chân chính, dù trong hoàn cảnh nào cũng không chấp nhận việc tự tử”. Đặc biệt cha còn cảm hóa được cả đám lính canh ngục. Mới đầu họ hay làm khó dễ, cứ mỗi lần đổi ca gác, họ lại bắt các tín hữu đút lót tiền, nếu không họ sẽ hành hạ tù nhân. Sau thấy được lòng bác ái yêu thương của cha Đạt, đám lính canh đã có thiện cảm và dễ dàng hơn với các tín hữu. Một lần cha bênh vực cho một người lính ăn cắp nải chuối giáo dân gởi vào cho cha. Lần khác, cha nói với họ rằng: “Khi nào tôi được phúc trên trời, tôi sẽ chẳng quên anh em dưới thế”.

Ông Thiềng cai ngục, tỏ lòng quý mến cha cách đặc biệt. Khi gặp riêng, ông nói với cha rằng: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị kết án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ”.

Nhiều lần, cha Đạt và các tín hữu bị lôi ra quỳ trước tòa, tay chân mang xiềng xích, cổ đeo gông. Ông Hoàng Đệ là em vua Cảnh Thịnh, đích thân chủ tọa phiên tòa. Ông bắt các anh hùng đức tin chối đạo hoặc đạp lên thánh giá, và dù đã áp dụng nhiều hình thức tra tấn dã man, nhưng ông vẫn hoàn toàn thất bại. Có hôm ông yêu cầu cha Đạt cắt nghĩa tấm ảnh phán xét chung, rồi nói cha đạp lên tấm ảnh đó, thì sẽ được tha. Nhưng cha cúi xuống, cầm lấy ảnh và hôn kính cách sốt sắng.

Hiến Lễ Dâng Thiên Chúa

Trung tuần tháng Mười, ông Hoàng Đệ gọi cha Đạt ra công đường tuyên án xử tử. Ông tưởng nghe bản án, cha sẽ kinh sợ và đổi ý, không ngờ cha lại tỏ ra hân hoan khác thường. Về trại giam, cha thuật cho các bạn tù nghe án xử như một tin mừng đến với cha. Cha Huấn xứ Bạch Bát giả làm cụ đồ bạn cũ đến thăm, giải tội và đem cho cha Mình Thánh Chúa.

Đúng ngày hành xử, trời bỗng đổ cơn mưa như trút. Cha Đạt, cổ đeo gông nặng trĩu, phải lẽo đẽo chạy theo lính dưới cơn mưa tầm tã tiến ra pháp trường Trinh Hà. Tại đây, giáo dân đã trải chiếu hoa, cha bình tĩnh quỳ xuống cầu nguyện. Khi các quan cho phép, tín hữu ùa đến bên cha lãnh phép lành cuối cùng. Cha khuyên họ:

“Là Kitô hữu, chúng ta phải vâng lệnh vua quan trong những điều hợp lý, nhưng trước hết, phải tôn trọng lề luật Chúa”.

Một hồi chiêng nổi lên, mọi người phải lui ra xa. Lý hình vung gươm kết liễu cuộc đời vị linh mục trẻ đầy nhiệt huyết và can đảm. Giáo hữu và lương dân đều xúm lại thấm máu vị chứng nhân đức tin. Đó là ngày 28.10.1798, khi cha Đạt mới 33 tuổi, với chưa đầy một năm phục vụ trong chức linh mục.

Đời sống cha Gioan Đạt là mẫu gương sáng ngời về tình yêu. Yêu lý tưởng, cha hiến thân tu hành, yêu anh em, cha tự nguyện nộp mình, và yêu Thiên Chúa, cha hiến tế chính mạng sống vô giá không thương tiếc. Thi hài vị tử đạo được đưa về an táng tại nhà thờ Phúc Nhạc (Phát Diệm).

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Gioan Đạt lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900.

Hiếu Trung, OP

ĐTC Gioan Phaolô II: một vị Giáo Hoàng nội tâm hoạt động

Màn điện toán Zenit hôm 23/10/2003 loan tin từ Rôma cho hay ĐHY TGM Vienna Áo Quốc là Christoph Schưnborn, vị đã ở trong ban soạn thảo Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo trước đây, cho rằng không thể nào hiểu được hoạt động của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nếu không xét đến đời sống cầu nguyện tha thiết của Ngài.

Vào lúc kết thúc Thánh Lễ tại Trung Tâm Giới Trẻ Lawrence của Tòa Thánh ở Rôma, vị HY TGM này cho biết giờ đây khi mà thể xác của Ngài hiển nhiên trở nên suy yếu thì “mầu nhiệm về con người ĐTC, nguồn mạch tạo nên tất cả hoạt động của Ngài, đã được tỏ lộ”. Trong vòng 25 năm qua, “Giáo Hội đã phát triển biên giới của mình”, làm cho hết mọi ngõ ngách thế giới thấy được sự hiện diện của Giáo Hội. “Bằng gương sáng của mình, ĐTC đã cho chúng ta thấy rằng, không có một đời sống nội tâm sâu xa, không thể nào hoàn tất bất cứ việc nào hay bất cứ một nỗ lực về xã hội nào cần phải thực hiện trong xã hội của chúng ta. Hiện nay chúng ta thấy có một cuộc tái sinh về đời sống thiêng liêng được ĐTC phấn khích đã lâu bằng chứng từ cuộc sống của Ngài. Ngài là một con người cầu nguyện, một con người sống một cuộc sống thiêng liêng sâu xa, một cuộc sống được tỏ hiện chỉ cần qua việc hiện diện của Ngài, và là một đời sống cũng làm cho dân chúng thuộc các tôn giáo khác khâm phục”.

Về vấn đề đối thoại liên tôn, Vị HY/TGM tiếp tục nhận định là ĐTC đã góp phần vào việc hiểu biết liên tôn, như “được thể hiện nơi những cuộc hội ngộ ở Assisi. Trong một thế giới toàn cầu hóa của chúng ta đây thì việc đối thoại giữa các tôn giáo khác nhau là con đường duy nhất dẫn tới hòa bình mà thôi”.

Về vấn đề đại kết, vị HY người Áo này cho biết ĐTC “không ngừng dồn lực để tìm một đường lối nhanh chóng dẫn đến mối hiệp nhất Kitô giáo. Vô số những chuyến tông du đến các xứ sở như Romania, Bulgaria, Hy Lạp, Georgia và Armenia đã đạt được nhiều thắng lợi, mở ra một giai đoạn quan trọng trong những mối liên hệ với Giáo Hội Chính Thống”.

Về vấn đề liên hệ với giới truyền thông, ĐTGM thủ đô Áo quốc nhận định là không phải bao giờ cũng dễ dàng: “Thật là lạ lùng khi thấy rằng trong giáo triều 25 năm của mình, Ngài vẫn giữ được cái chú trọng của tất cả mọi giới truyền thông. Tôi nghĩ rằng đó là một hiện tượng thật là bất thường ở thời đại chúng ta khi mối liên hệ với giới truyền thông vẫn giữ được ở mức độ chú trọng như thế. Tại sao lại có quá nhiều giới truyền thông khắp thế giới đến tham dự cuộc mừng kỷ niệm ngân khánh giáo hoàng này của Ngài nhỉ?”

Dự Luật Cấm Phá Thai sinh bán phần ở Hoa Kỳ

Ngày 21/10/2003, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu cấm việc thực hành được các phê bình gia gọi là phá thai sinh bán phần, và đã gửi đến Tổng Thống Bush để được phê chuẩn, một việc mà cả phe thuận lẫn phe chống đều cho rằng có thể làm thay đổi tương lai của các thứ quyền lợi về phá thai. Dự luật này áp đặt những giới hạn hết cỡ về việc phá thai từ khi Tối Cao Pháp Viện năm 1973 xác nhận phụ nữ có quyền phá thai. Ba tuần trước Hạ Viện đã bỏ phiếu thuận với số phiếu 281-142, nay Thượng Viện cũng thông qua dự luật này với số phiếu 64-34. Tổng Thống Bush xin Quốc Hội thông qua việc cấm đoán này và hứa sẽ ký chuẩn thành luật. Thế nhưng, thành phần chống đối cho rằng quyết định đầu tiên này của liên bang đi ngược lại với phán quyết của Tối Cao Pháp Viện năm 1973 là một quyết định phản hiến, nên, cũng giống như các khoản luật của tiểu bang, sẽ bị hủy bỏ.

Theo dự luật này thì bác sĩ nào vi phạm sẽ bị tù 2 năm. Hai bên phò và chống dự luật vẫn chưa hoàn toàn đồng ý với nhau về vấn đề “sinh bán phần”. Bản dự luật định nghĩa phá thai sinh bán phần là việc hạ sinh một thai nhi “cho đến khi, trong trường hợp đầu ra trước, tất cả đầu của thai nhi lọt ra ngoài thân thể của thai mẫu, hay, trong trường hợp sinh ngược, thì bất cứ phần thể nào của thân mình thai nhi lọt qua cái nhau ra ngoài thân thể của người mẹ với mục đích làm một việc công khai mà người ấy biết được là sẽ sát hại cái thai nhi sống động được sinh ra bán phần ấy”.

Thượng Nghị Sĩ Rick Santorum, Pennsylvania, bảo trợ viên chính của dự luật này, nói rằng phương pháp này vừa phi nhân bản lẫn không cần thiết: “Chúng ta không thể để cho cái thứ dã man tàn bạo làm băng hoại chúng ta ấy”.

Một số nhóm, trong đó có cả Liên Hiệp Phá Thai Toàn Quốc và Trung Tâm Quyền Sinh Sản,có dự tính thách đố biện pháp ấy ở toà ngay khi nó được ký thành luật. “Chúng tôi sẽ chiến đấu từ Tòa Quốc Hội đến pháp đình để bảo đảm sự sống và sức khỏe của giới phụ nữ”, Vicki Saporta, chủ tịch Liên Bang Phá Thai đã cương quyết như thế. Bà chủ tịch Gloria Feldt của Liên Hiệp Kế Hoạch Phụ Huynh của Hoa Kỳ nói rằng nhóm của bà sẽ tìm cách ngăn chặn bản dự luật này thành luật. Tổng thống Clinton đã hai lần phủ quyết các dự luật sinh bán phần vì những bản dự luật này không bao gồm những luật trừ về sức khỏe.

Hội đồng giám mục Hoa Kỳ đã ca ngợi việc bỏ phiếu cấm phá thai sinh bán phần. “Chúng tôi mong Tổng Thống Bush ký chuẩn bản dự luật quan trọng này thành luật như ông đã hứa làm”, vị giám đốc điều hành Gail Quinn của Văn Phòng Hoạt Đồng Phò Sự Sống của HĐGM phát biểu như thế. Bà phát ngôn viên này còn nói rằng “Chúng tôi rất hài lòng thấy Thượng Viện và Hạ Viện đi đến chỗ đồng ý về dự luật cấm phương pháp phá thai sinh bán phần vô nhân bản này. Bất chấp những thoái lui, nhân dân Hoa Kỳ không bao giờ bỏ lòng cương quyết ngăn chặn việc thực hành dã man và bất chính này”.  

 

27/10 Thứ Hai

Mẹ Têrêsa hình ảnh của một người Samaritanô Nhân Lành.

Bài Giảng của ÐTC Gioan Phaolô II trong Lễ Phong Chân Phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta

1.-     Ai muốn làm đầu trong các con phải làm đầy tớ của mọi người” (Mk 10:44). Những lời này của Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người lại vang vọng nơi công trường này mới cách đây ít lâu cho thấy con đường dẫn đến “mức độ cao cả” phúc âm. Đó là con đường chính Chúa Kitô đã theo cho tới cây thập giá; một cuộc hành trình yêu thương và phục vụ là nhũng gì đi ngược lại với tất cả mọi lý lẽ của con người. Trở thành nô lệ cho tất cả mọi người!

Mẹ Têrêsa Calcutta, vị sáng lập dòng Chư Thừa Sai Bác Ái, vị mà hôm nay đây Tôi hân hoan ghi danh vào sổ bộ chân phước, vị đã đi theo lý lẽ tôi tớ phục vụ này. Bản thân Tôi lấy làm biết ơn người phụ nữ can trường này, người phụ nữ Tôi cảm thấy lúc nào cũng kề cận bên Tôi. Là hình ảnh của một người Samaritanô Nhân Lành, Mẹ đã đi khắp nơi để phục vụ Chúa Kitô nơi thành phần nghèo khổ nhất trong những người nghèo. Chẳng có một thứ xung đột nào và một thứ chiến tranh nào có thể cản ngăn bước tiến của Mẹ.

Từ đó đến nay, Mẹ vẫn hằng nói với Tôi về các cảm nghiệm của Mẹ trong việc phục vụ các giá trị của phúc âm. Chẳng hạn Tôi nhớ đến những gì Mẹ nói khi Mẹ lãnh Giải Thưởng Hòa Bình Nobel: “Nếu quí vị nghe thấy có người đàn bà nào không muốn sinh con và muốn phá thai, xin hãy cố thuyết phục chị ta mang đến cho tôi đứa bé ấy. Tôi sẽ yêu thương bé, vì thấy nơi bé dấu hiệu hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa” (Oslo, Dec. 10, 1979).

2.     Không phải ý nghĩa hay sao việc tuyên phong chân phước cho Mẹ đang được thực hiện vào chính ngày Giáo Hội cử hành Ngày Thế Giới Truyền Giáo? Bằng chứng từ phúc âm của cuộc sống mình, Mẹ Têrêsa nhắc nhở cho tất cả mọi người sứ vụ truyền bá phúc âm của Giáo Hội được thể hiện qua đức bác ái, một đức bác ái được bồi dưỡng bằng nguyện cầu và lắng nghe Lời Chúa. Biểu hiệu cho đường lối truyền giáo này là bức ảnh họa vị tân chân phước, một tay nắm tay của một thơ nhi và một tay cầm cỗ tràng hạt.

Chiêm niệm và hoạt động, truyền bá phúc âm hóa và cổ võ nhân bản: Mẹ Têrêsa loan báo Phúc Âm bằng đời sống Mẹ hoàn toàn dấn thân cho người nghèo, nhưng đồng thời cũng sâu xa cầu nguyện.

3.     “Ai muốn làm lớn trong các con thì phải làm tôi tớ của các con” (Mk 10:43). Chúng ta hôm nay nhớ đến Mẹ Têrêsa với một cảm xúc đặc biệt, nhớ đến một người đại tôi tớ của người nghèo, của Giáo Hội và của toàn thể thế giới. Đời sống của Mẹ là một chứng từ cho phẩm giá và đặc ân của việc khiêm hạ phục vụ. Mẹ đã muốn chẳng những là người hèn mọn nhất mà còn là người tôi tớ của thành phần hèn mọn nhất nữa. Là người mẹ thực sự của người nghèo, Mẹ đã cuí mình xuống trên những ai chịu đựng các thứ hình thức nghèo khổ. Cái cao cả của Mẹ là ở khả năng Mẹ cho đi mà không tính đến cái giá phải trả, ban phát “cho đến độ đau đớn”. Đời sống của Mẹ là một cuộc sống Phúc Âm hết mình và là cuộc hiên ngang loan báo Phúc Âm.

Tiếng kêu của Chúa Giêsu trên cây thập giá “Ta khát” (Jn 19:28), một lời kêu than bộc lộ cho thấy Thiên Chúa hết sức khát mong con người, đã thấm nhập vào tâm hồn Mẹ Têrêsa và gặp được một mảnh đất phì nhiêu nơi lòng trí của Mẹ. Việc làm giãn cơn khát yêu thương và các linh hồn của Chúa Giêsu trong sự liên hợp với Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, đã trở thành mục đích duy nhất của cuộc sống Mẹ Têrêsa và là động lực nội tâm thúc đẩy Mẹ bung mình ra, khiến Mẹ “vội vã” bôn ba khắp thế giới hoạt động cho phần rỗi và sự thánh hóa của thành phần nghèo khổ nhất trong các người nghèo.

4.     “Khi các ngươi làm cho một trong thành phần hèn mọn nhất trong anh em Ta là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25:40). Sứ điệp Phúc Âm này, một sứ điệp rất quan trọng để hiểu được việc Mẹ Têrêsa phục vụ người nghèo, là nền tảng cho niềm xác tín đầy tin tưởng của Mẹ đến nỗi khi đụng chạm đến những thân xác tan nát của người nghèo là Mẹ sờ chạm tới thân mình của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu, ẩn mình dưới bộ mặt buồn thảm của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo là mục tiêu cho việc phục vụ của Mẹ nhắm đến. Mẹ Têrêsa đã làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa nhất của việc phục vụ, một tác động yêu thương, một hành động làm cho người đói, kẻ khát, người lạ, kẻ trần trụi, người bệnh, kẻ tù phạm (x Mt 25:34-36) là làm cho chính Chúa Giêsu.

Vì nhìn nhận thấy Người như thế, Mẹ đã thi hành bằng cả tấm lòng mộ mến của Mẹ đối với Người, bộc lộ cho thấy tính cách âu yếm nơi tình yêu phu thê của Mẹ. Như thế, bằng việc hoàn toàn hy hiến bản thân mình cho Thiên Chúa cũng như cho tha nhân, Mẹ Têrêsa đạt được mức độ thành toàn cao cả nhất và đã sống những tính chất quí giá nhất về nữ tính của Mẹ. Mẹ muốn là dấu chứng cho “tình yêu của Thiên Chúa, sự hiện diện của Thiên Chúa, lòng cảm thương của Thiên Chúa”, nhờ đó nhắc nhở tất cả mọi người giá trị và phẩm vị của mỗi một người con Chúa “được dựng nên để yêu thương và được yêu thương”. Bởi vậy Mẹ Têrêsa đã “mang các linh hồn về cho Thiên Chúa và đưa Thiên Chúa đến cho các linh hồn”, cũng như đã làm giãn cơn khát của Chúa Kitô, nhất là con khát đối với những người khẩn thiết nhất, những người có nhãn quan về Thiên Chúa đã bị lu mờ bởi khổ đau và đớn đau.

5.     “Con Người đến để hiến mạng sống mìng làm giá chuộc cho nhiều người” (Mk 10:45). Mẹ Têrêsa đã thông phần cuộc khổ nạn của Đấng Chịu Đóng Đanh, một cách đặc biệt trong những năm dài sống trong “tăm tối nội tâm”. Cuộc thử thách này có những lúc rất gắt gao mà Mẹ đã chấp nhận như ‘tặng ân và đặc ân” chuyên biệt.

Trong những giờ phút tối tăm nhất, Mẹ đã thiết tha nguyện cầu hơn nữa trước Thánh Thể. Cuộc thử thách dữ dội này đã khiến Mẹ nhận thấy mình hơn bao giờ hết giống hệt như thành phần Mẹ phục vụ hằng ngày, bằng cảm nghiệm đớn đau và có những lúc bị loại trừ. Mẹ thích lập đi lập lại rằng tình trạng bần cùng nhất là tình trạng bị bỏ rơi, tình trạng không được ai chú ý chăm sóc cho anh chị em.

6.     “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ân sủng của Chúa, chúng con hy vọng nơi Chúa!”. Như tác giả Thánh Vịnh, biết bao nhiều lần, trong những giây phút lẻ loi cô quạnh nội tâm, Mẹ Têrêsa cũng đã lập lại cùng Chúa của Mẹ rằng: “Lạy Chúa Trời con, con trông cậy nơi Chúa, con cậy trông nơi Ngài!”.

Chúng ta hãy ca ngợi người phụ nữ nhỏ bé phải lòng Thiên Chúa này, vị sứ giả khiêm hạ của Phúc Âm đây, và là một vị ân nhân không ngừng của nhân loại. Chúng ta tôn kính nơi Mẹ một con người nổi bật nhất trong thời đại của chúng ta. Chúng ta hãy chấp nhận sứ điệp của con người này và hãy noi theo gương của con người ấy.

Hỡi Trinh Nữ Maria, Nữ Vương các Thánh, xin giúp chúng con biết hiền lành và khiêm nhượng trong lòng như vị sứ giả can đảm của Tình Yêu này. Xin Mẹ giúp chúng con biết phục vụ một cách vui tương và tươi cười hết mọi người chúng con gặp gỡ. Xin Mẹ giúp chúng con được trở thành những nhà thừa sai của Chúa Kitô, của hòa bình và của niềm hy vọng của chúng con. Amen!

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 19/10/2003

 

Tác Dụng của Việc Phong Chân Phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta nơi bản quốc của Mẹ

Nước Albania, trước khi Mẹ Têrêsa được phong chân phước, đã quyết định lập một Năm Mẹ Têrêsa cho toàn quốc. Trong cuộc phong chân phước này, các vị lãnh đạo tôn giáo của nước này, bao gồm Công giáo, Chính Thống và Hồi giáo, đã tham dự cuộc phong chân phước theo sự sắp xếp bởi Hội Đồng Đối Thoại Liên Tôn.

Vị lãnh đạo của Huynh Đoàn Hồi Giáo Bektashi ở Thổ Nhĩ Kỳ và Albania đã nói với cơ quan truyền giáo Fides rằng: “Chúng tôi rất vui mừng được tham dự vào việc cử hành long trọng ấy. Mẹ Têrêsa là một nữ tử nước Albania, nhưng nay Mẹ thuộc về toàn thế giới. Mẹ đáng được tước hiệu Mẹ đã có công và chúng tôi rất hãnh diện đã tặng tước hiệu ấy cho Mẹ. Tôi hết lòng biết ơn Đức Giáo Hoàng Wojtyla”.

Vị lãnh đạo Giáo Hội Chính Thống Albania cho biết: “Việc phong chân phước này là một biến cố lớn lao đối với nước Albania. Chúng tôi hy vọng là nó sẽ không chỉ gói ghém nơi nghi lễ, mà còn là một phản tỉnh sâu xa mang ac1c cộng đồng tôn giáo lại với nhau và dạy cho chúng ta yêu thương nhau hơn. Từ người tu sĩ Albania nhỏ bé là vinh dự của chúng tôi ấy, chúng tôi muốn học biết cách hoạt động cho việc đối thoại, khoan nhượng và tôn trọng để phục vụ nhân loại”.

Mẹ Têrêsa: Một trong những vị đại thừa sai của thế kỷ 20

Sáng Thứ Hai, 20/10, sau ngày phong chân phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta, ĐTC đã tiếp phái đoàn hành hương tham dự biến cố hôm qua, như sau. “Vị tân chân phước này chắc chắn là một trong những vị đại thừa sai của thế kỷ 20. Chúa đã thực hiện một dụng cụ chọn lọc là con người phụ nữ đơn hèn này, vị đã xuất thân từ một trong những miền nghèo nhất Âu Châu, để loan báo Phúc Âm cho toàn thế giới, không phải bằng việc rao giảng mà là bằng những cử chỉ thường ngày yêu thương đối với người nghèo. Truyền giáo bằng một thứ ngôn ngữ phổ thông nhất: đó là đức bác ái vô giới hạn và bất loại trừ, không chọn lựa dù là thành phần bị bỏ rơi nhất”.

Theo ĐTC, Mẹ Têrêsa còn là “một vị thừa sai bác ái, một vị thừa sai hòa bình và một vị thừa sai sự sống… Mẹ luôn luôn lên tiếng bênh vực sự sống con người, cho dù sứ điệp của Mẹ không được đón nhận. Tất cả đời sống của Mẹ Têrêsa là một bài thánh thi ca sự sống… Chính nụ cười của Mẹ là tác động ‘chấp nhận’ sự sống, một ‘chấp nhận’ hân hoan, một chấp nhận phát xuất từ một đức tin và đức mến sâu xa, một ‘chấp nhận’ tinh tuyền nhờ khổ đau tẩy luyện. Mẹ đã lập lại việc ‘chấp nhận’ này mỗi buổi sáng, liên kết với Mẹ Maria, dưới chân cây Thập Giá của Chúa Kitô. Têrêsa Calcutta quả thực là một người mẹ. Mẹ của người nghèo, mẹ của trẻ em. Mẹ của nhiều người con gái con trai nhận Mẹ làm linh hướng và chia sẻ sứ vụ của Mẹ. Từ một hạt giống nhỏ bé, Chúa đã làm cho nó trở thành một cây phát triển, đầy những hoa trái”.

Nhắn nhủ con cái thiêng liêng của vị tân chân phước, ĐTC nói: “Anh chị em là những dấu chứng hùng hồn nhất về tính cách phong phú ngôn sứ này. Hãy bảo trì đặc sủng của Mẹ và hãy theo gương Mẹ, để rồi Mẹ từ trời sẽ luôn bảo trì anh chị em trên bước đường hằng ngày của anh chị em. Sứ điệp của Mẹ Têrêsa hơn bao giờ hết là lời mời gọi hãy hướng về hết mọi người. Tất cả đời sống của Mẹ nhắc nhở chúng ta rằng là Kitô hữu nghĩa là chứng nhân bác ái. Đó là những huấn dụ của vị tân chân phước. Âm vang lời của Mẹ, Tôi xin mỗi người trong anh chị em hãy quảng đại và can đảm theo bước chân của người môn đệ đích thực này của Chúa Kitô. Mẹ Têrêsa cùng đồng hành với anh chị em trên con đường bác ái”.

”Như Mẹ, chúng ta cũng có thể là những vị thánh”

Sau đây là tâm tình của vị nữ tu thừa nhiệm của vị tân chân phước Têrêsa Calcutta trong dịp Giáo Hội tuyên phong vị sáng lập của nữ bề trên này. Theo nữ bề trên tổng quyền đây thì việc phong chân phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta là “dấu chứng tỏ là chúng ta tất cả đều có thể làm thánh”.

Nữ Bề Trên Tổng Quyền Dòng Chư Thừa Sai Bác Ái Nirmala Joshi này được sinh ra ở Ranchi năm 1934 từ một gia đình thuộc giai cấp Brahmin (tư tế) di dân từ Nepal. Người nữ tu thừa nhiệm này đã bỏ Ấn Giáo theo Kitô Giáo vào năm 24 tuổi, và đã theo chân người nữ đã giúp cho chị khám phá ra được Chúa Kitô. Chị là một trong những người đầu tiên của dòng Chư Thừa Sai Bác Ái thành lập những nhà cho hội dòng này ở hải ngoại, ngoài Ấn Độ, đó là ở Panama. Sau đó, chị đã hướng việc truyền giáo đến Âu Châu và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Khi Mẹ Têrêsa thành lập ngành chiêm niệm cho hội dòng năm 1976, chị đã được Mẹ ủy thác cho việc trông coi ngành này. Vào tháng 3/1997, tức 6 tháng trước khi vị sáng lập qua đời, chị nữ tu Nirmala đã được tuyển bầu kế nhiệm lãnh đạo toàn hội dòng Chư Thừa Sai Bác Ái.

Vấn     Mẹ bề trên đã gặp Mẹ Têrêsa như thế nào?

Đáp     Vào tháng 3/1958. Tôi đến gõ cửa và một chị đã ra nhìn tôi. Tôi nói với chị rằng tôi muốn nói chuyện với Mẹ Têrêsa. Nhìn Mẹ, điều đầu tiên in vào lòng tôi là đôi mắt của Mẹ. Tôi nghĩ “con người này không thuộc về trái đất này; bà thuộc về trời cao”.

Vấn         Việc Mẹ Têrêsa được phong chân phước mang lại cho Mẹ Bề Trên một ý nghĩa ra sao?

Đáp     Nó là một xác quyết rằng cuộc đời Mẹ đã sống được Thiên Chúa hài lòng và Mẹ đáng được nâng lên bàn thờ của thành phần chân phước. Ngoài ra, nó còn là một động lực phấn khởi cho tất cả chúng ta: Như Mẹ, chúng ta cũng có thể là những vị thánh; tất cả chúng ta đều có thể làm thánh. Chúng ta có một vị ở trên cao chúng ta có thể nhìn ngắm, vị có những nhân đức đáng bắt chước.

Vấn     Mẹ Têrêsa đã gọi Mẹ Bề Trên là “người biện hộ cho người nghèo”, vì Mẹ Bề Trên có bằng cấp về luật.

Đáp     Chính Mẹ Têrêsa bảo tôi học luật. Khi tôi đến Calcutta, tôi đã xong việc học đại học của mình. Tôi cần đi về ngành chuyên môn. Sau khi khấn lần đầu, Mẹ Têrêsa bảo tôi học về luật khoa. Mặc dù có bằng cấp những tôi chua7 thực tập. Ngay kia tôi hỏi Mẹ: ‘Tại sao Mẹ muốn con học luật?’ Mẹ đáp: ‘Con muốn học luật, nhưng con đến đây gặp Mẹ và con đã bỏ việc học vấn của con. Mẹ muốn phục hồi lại cho con những gì con đã từ bỏ’. Mẹ còn nói với tôi rằng: ‘Con đang thực tập luật con theo học, nhưng không phải nơi tòa án trần gian mà là ở Tối Cao Pháp Viện của Thiên Chúa, ở trên trời, bằng việc áp dụng lề luật tối cao là đức bác ái. Nhờ đó, khi bênh vực quyền lợi của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo trước nhan Chúa là con đang áp dụng luật bác ái này vậy’.

Vấn     Mẹ Bề Trên đã từng lãnh đạo ngành chiêm niệm của hội dòng. Theo Mẹ Bề Trên thì giữa chiêm niệm và hoạt động khác nhau như thế nào?

Đáp     Hoạt động là hoa trái của chiêm niệm. Khi chúng ta kết hợp với Thiên Chúa trong chiêm niệm là chúng ta lãnh nhận một thứ ánh sáng và tình yêu chúng ta cần và là những gì chúng ta có thể sử dụng để phục vụ những người khác.

Vấn     Những giây phút cuối cùng của cuộc đời Mẹ Têrêsa còn in ấn gì nơi Mẹ Bề Trên hay chăng?

Đáp     Khi Mẹ Têrêsa đang chiến đấu với tử thần thì tôi đến gặp Mẹ ở phòng của Mẹ, và Mẹ đã nói với tôi rằng: ‘Mẹ không thở được!’ Bấy giờ tôi kêu các chị khác đến giúp: ‘Mẹ không thở được rồi!’ Họ tới và tôi rời căn phòng ấy. Thế rồi tôi trở lại, Mẹ đã nhìn tôi bằng một cái nhìn van nài, như thể muốn nói với tôi rằng ‘Hãy cứu Mẹ!’ Nó giống như một lời năn nỉ. Con có hiểu chăng? Tôi nghĩ: ‘Cái đầu tiên in ấn vào tâm khảm tôi là đôi mắt của Mẹ, là cái nhìn của Mẹ’. Chính vào lần cuối cùng này mà chúng tôi nhìn nhau khi Mẹ còn sống.

Vấn     Mẹ Bề Trên có nhớ một đoạn đặc biệt nào trong ngày an táng Mẹ hay chăng?

Đáp     Không phải là một đoạn mà cả biến cố này. Cách thức cuộc an táng này đã thu hút hết mọi dân nước, văn hóa và tầng lớp xã hội. Mẹ đã chết, nhưng Mẹ còn sống hơn bao giờ hết. Mẹ đã mang tất cả những dân tộc này lại với nhau! Thật là tuyệt vời. Tôi cũng hết sức ngạc nhiên trước dân chúng ở Calcutta. Đám đông dân chúng đi qua đi lại … cuối cùng, khi chúng tôi trở về nhà mẹ, dân chúng theo đám tang kêu lên: ‘Mẹ Têrêsa, Mẹ muôn năm! Chúng con sẽ không bao giờ quên Mẹ đâu!” Thật là cảm động.

Vấn     Mẹ Têrêsa có trăn trối gì cho Mẹ Bề Trên khi Bà ủy thác việc lãnh đạo hội dòng này cho Mẹ?

Đáp     Không, không có gì đặc biệt cả. Lời khuyên nhủ liên lỉ của Mẹ là: ‘Hãy vun trồng tình thân mật với Thiên Chúa; hãy vun trồng sự thánh thiện của các con, và hãy yêu thương nhau’.

Vấn     Cái khác nhau của việc làm bề trên của hội dòng này khi Mẹ Têrêsa còn sống và hiện nay như thế nào?

Đáp     Hiển nhiên là khi Mẹ Têrêsa còn sống về thân xác với chúng tôi thì dễ dàng hơn, tôi lúc nào cũng có thể dựa vào Mẹ. Tuy nhiên, mặc dù Mẹ không còn ở với chúng tôi nữa về thể lý, tất cả chúng tôi đều tin tưởng về sự hiện diện của Mẹ giữa chúng tôi. Đây không còn là vấn đề hiện diện thể lý mà là thiêng liêng; chúng tôi lại có thể chạy đến với Mẹ, xin Mẹ giúp chúng tôi giải quyết các thứ vấn đề. Ở một nghĩa nào đó, Mẹ giờ đây còn có thể giúp chúng tôi hơn trước nữa.
 

 

26/10 Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B

ĐỨC TIN CON ĐÃ CHỮA CON

Con người thường tỏ dấu kinh ngạc, ngỡ ngàng, và bái phục khi đứng trước những kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Đó là lý đương nhiên. Nhưng Thiên Chúa đôi khi cũng xem như kinh ngạc và thích thú trước những kỳ công do Ngài sáng tạo, đó là những lần Ngài nhìn thấy đức tin được tỏ hiện nơi những tâm hồn tin nhận Ngài. Và đây là những gì khác tự nhiên. Thí dụ điển hình là anh chàng Bartimaeus con ông Timaeus mà Thánh Ký Máccô đã ghi lại. Ở anh chàng này, Chúa đã thích thú nhìn thấy nơi anh lý do làm Ngài thán phục: “Đức Tin”.

Thật vậy, Thánh Máccô đã ghi nhận rằng, trước khi Chúa Giêsu chữa lành cho Bartimaeus, Ngài đã nói với anh: “Đức Tin con đã chữa con” (Mc 10:52). Tại sao không phải là Chúa Giêsu chữa mà là đức tin của anh đã chữa anh? Trong trường hợp của anh cũng như trong những trường hợp khác mà Thánh Kinh đã ghi khi cho người què đi được, mù thấy được, điếc nghe được, câm nói được, phong cùi được lành sạch, Chúa Giêsu cũng thường nói: “Đức Tin con đã chữa con”. Vậy đức tin là gì mà có thể làm nên phép lạ, và có khả năng khiến cả Thiên Chúa đến phải ngỡ ngàng.

Khi một người sắp sửa lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, vị linh mục hoặc người ban bí tích sẽ hỏi họ: “Con hay bạn muốn xin gì với Giáo Hội?”, và người đó trả lời: “Đức tin”. Tiếp theo, người ấy sẽ bị hỏi lại: “Thế Đức Tin làm gì cho con/bạn?” Và câu trả lời là: “Đức Tin ban cho con sự sống đời đời”. Trong Kinh Tin Kính, Giáo Hội cũng dậy ta phải tin một Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Tin Đức Kitô, Đấng được Cha sai xuống cứu chuộc trần gian. Tin sự hoạt động và thánh hóa nhiệm mầu của Chúa Thánh Thần trong sinh hoạt nội tâm của mỗi Kitô hữu và của Giáo Hội. Tin xác loài người sống lại ngày sau hết. Và tin sự sống đời sau. Đại cương đó là những gì phải tin và làm nên đức tin của người Kitô hữu. Đó là những chặng đường đưa con người tìm và chiếm hữu được nước trời, được sự sống đời đời.

Trong trình thuật của Máccô hôm nay và trong một số các trình thuật khác đã ghi nhận, đức tin không những chỉ đem lại cho con người sự sống đời đời mà nó cũng được dùng để cứu chữa, giải thoát con người khỏi những bệnh tật và khuyết tật thể xác. Chúa Giêsu đã xác nhận khi nói về sức mạnh của niềm tin như sau: ”Nếu các con có đức tin bằng hạt cải, các con có thể nói với cây dâu này “hãy nhổ rễ và trồng dưới biển”, nó cũng nghe các con” (Lc 17:6). Đem ứng dụng lời ấy vào trường hợp của người mù hôm nay, thì ít nhất đức tin anh cũng lớn bằng hoặc hơn hạt cải, vì chính đức tin anh đã chữa lành mắt anh.

Anh Bartimaeus tuy mù nhưng lại có đức tin mạnh, vì thoạt nghe biết Chúa Giêsu đi qua đó, anh lập tức kêu lớn tiếng: “Lậy Đức Giêsu Con Vua Đavít xin thương xót tôi” (Mc 10:47). Không chỉ kêu lên một lần, anh tiếp tục gào thét cho đến khi Chúa nghe được mới thôi, mặc dù anh bị những người chung quanh phản đối và tỏ ý khó chịu. Điều này cho thấy anh thật sự tin tưởng và bất chấp mọi ngãng trở đang làm cản bước tiến nơi niềm tin của anh. Chắc Chúa Giêsu cảm động lắm khi biết anh thật sự tin vào Ngài. Vì khi Ngài vừa lên tiếng gọi anh, anh liền tung áo ngoài và chạy lại với Ngài.

Phản ứng tung áo ngoài, hay áo khoác của anh cho thấy anh vui mừng, sung sướng và hân hoan trước tiếng gọi của Chúa Giêsu. Nhưng điều này vẫn không loại trừ thực tế là anh chỉ là một người mù. Mù thì làm sao dám lao mình chạy tới với Chúa, trừ khi anh tin tưởng một cách mạnh mẽ và chắc chắn rằng Đấng đã gọi anh sẽ không để anh phải vấp ngã, hoặc Đấng ấy đang đứng đâu đó sẵn sàng giơ tay ra đón tiếp anh và sẽ không làm anh thất vọng, hoảng sợ với những bước chân chập choạng trong mù lòa của anh. Máccô ghi nhận là anh chạy lại với Chúa chứ không sờ soạng, hoặc rụt rè, mò mẫu bước tới. Trước thái độ tin tưởng mãnh liệt ấy, Chúa Giêsu không thể nào từ chối thực hiện cho anh một phép lạ, và Ngài đã hỏi anh: “Anh muốn ta làm gì cho anh?” (Mc 10:51). Kết quả, anh đã được thấy. Đức tin không những đem lại cho anh sự sáng của đôi mắt, mà còn làm cho anh mở đôi mắt tâm hồn để nhìn nhận và theo Chúa.

Tiến trình đi đến đức tin của anh Bartimaeus cũng chính là tiến trình mà mọi người chúng ta cần phải suy nghĩ và bắt chước. Trước hết, anh phải có lòng tìm kiếm, ao ước, và thiết tha với Chúa Giêsu lắm. Hẳn là anh đã nghe người ta bàn tán về Chúa Giêsu và những phép lạ Ngài làm, nên anh đã ao ước được gặp Ngài. Sự tìm kiếm đây là bước đầu để anh tin nhận vào Chúa Giêsu, và cũng là bước đầu cho niềm tin vào Ngài. “Vô tri bất mộ”. – Không biết làm sao mộ mến.

Tiếp tới là anh can đảm kêu to. Kêu lên trong hoàn cảnh bị người khác cấm đoán. Anh vẫn không sợ hãi, ngã lòng, và vẫn tiếp tục kêu to. Đây là một hình thức đáp trả trước những thử thách cho niềm tin của con người. Thật vậy, trong cuộc sống thường ngày, nhiều khi lời cầu xin của chúng ta bị lấn át bởi những tiếng cười nhạo, chê bai, và coi thường của người khác. Đó là chưa kể đến những thử thách mà một trong những thử thách ấy là yếu tố thời gian. Thiên Chúa không đến với con người theo thời giờ và cách thức sắp đặt của họ. Sự chậm trễ đó, theo quan niệm con người chính là một thách đố cho sự trưởng thành và son sắt của niềm tin.

Nhưng khi Chúa Giêsu lên tiếng gọi, anh mù đã tung áo chạy đến với Ngài. Câu hỏi ở đây là nếu hôm nay Chúa gọi tôi, gọi bạn thì chúng ta có nhận ra tiếng Ngài không? Khi nhận ra rồi, ta có dám bỏ lại áo choàng của mình là những ràng buộc của con người xác thịt để đến với Ngài không? Nhất là chúng ta có hăm hở, tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa để đến với Chúa không? Thánh Kinh đã ghi nhận là có những trường hợp con người kêu xin Chúa được Chúa lắng nghe, nhưng khi Chúa lên tiếng gọi, thì lại quay mặt bỏ đi. Trường hợp người thanh niên giầu có mà chính Máccô đã ghi lại trước đây là một thí dụ. Máccô đã tường thật người thanh niên này lên tiếng xưng tụng Chúa và hỏi Ngài: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời” (Mc 10:17), nhưng khi nghe Chúa nói với anh về điều kiện để chiếm hữu nước trời thì Thánh Ký đã viết: “Anh buồn rầu bỏ đi” (Mc 10:22).

Anh Bartimaeus vì mù lòa và sống bằng nghề ăn xin, nên chắc chắc là không có nhiều tiền, vì thế đối với anh chiếc áo ngoài cũng là một cơ nghiệp. Anh không sáng suốt nhìn rõ khuôn mặt Chúa Giêsu có âu yếm, hiền từ nhìn anh như thanh niên giầu có không, nhưng chỉ cần nghe được tiếng Ngài, và biết được Ngài đã đáp lại lời cầu xin của mình, anh đã mạnh dạn tin tưởng, bỏ lại tất cả để đến với Ngài. Đây là điều làm nên sự khác biệt giữa hai thanh niên mà Thánh Máccô đã ghi lại.

“Đức tin con đã chữa con”. Không phải chỉ là việc chữa lành theo thể lý mà chính đức tin của bạn sẽ đưa bạn đến gần Chúa là nguồn hạnh phúc, là nguồn bình an, và là nguồn ơn cứu độ. Sự giải thoát ở đây là sự giải thoát tâm hồn. Giải thoát cho một niềm tin vẫn còn non nớt, và giải tỏa sự cách biệt giữa con người với Thiên Chúa để đem ta lại gần hơn với Ngài. Vậy bạn có dám dấn thân, tung mình và mạnh bạo chạy đến với Ngài không? Bạn có dám quyết liệt tin tưởng nơi Ngài và tạo cho Ngài một thích thú bất ngờ khi nhìn vào đức tin của bạn không?!

 

Trần Mỹ Duyệt

 

Không Thấy Mà Tin – Mù lòa sáng suốt

Bài Phúc Âm Chúa Nhật Thường Niên XXX tuần này cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa đã được tỏ ra qua một con người và cho một con người. Quyền năng Thiên Chúa tỏ ra qua con người đây là con người mang danh Giêsu Nazarét, và con người được quyền năng này tỏ ra cho đây chính là một con người mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường tên Bartimaeus. Vấn đề đặc biệt ở đây là làm sao hai con người này có thể gặp nhau, một con người vương giả (Con Vua Đavít) là quyền năng và là khôn ngoan của Thiên Chúa (x 1Cor 1:24) và một con người mù lòa là tiêu biểu cho khốn cùng và bất hạnh của phàm nhân. Phải, chính đức tin đã hiện thực việc gặp gỡ này, một đức tin phát xuất từ Thiên Chúa và được chấp nhận bởi con người, nhất là những con người cùng khốn chỉ biết trông cậy vào quyền lực tối cao cứu vớt họ. Trình thuật của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này là một thí dụ điển hình.

Trước hết, chắc chắn một điều là người mù ăn xin bên vệ đường này chưa bao giờ được chứng kiến thấy các phép lạ nhân vật mang danh Giêsu Nazarét làm, thậm chí chưa bao giờ được hân hạnh đi theo nghe lời giảng dạy đầy thần lực của nhân vật đại tôn sư tuyệt thế ấy. Thế mà con người ăn xin này lại tin vào nhân vật ấy, không phải bằng một đức tin tầm thường, mà là một đức tin mãnh liệt. Đức tin “không thấy mà tin” (Jn 20:29) của con người mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường này mãnh liệt ở chỗ, thứ nhất, anh ta chỉ nghe đồn về nhân vật Giêsu Nazarét mà đã hết lòng tin tưởng vào Người rồi. Do đó, Thánh Ký Marcô đã ghi lại rằng: “Khi nghe thấy Đức Giêsu Nazarét (rời Giêricô đi ngang qua hay gần chỗ của mình), anh ta bắt đầu kêu lên: ‘Hỡi Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót đến tôi’”.

Chưa hết, con người mù lòa ăn xin bên vệ đường ấy còn mãnh tin đến nỗi không ai có thể đàn áp được anh ta, nhất quyết tìm cách bộc lộ niềm tin của mình ra cho bằng được. Thánh Ký Marcô tiếp tục cho thấy khí khái đức tin của con người này như sau: “Nhiều người nạt nộ anh ta im đi, nhưng anh ta (chẳng những không sợ, không yên, trái lại, như bị khích thích) lại càng kêu to lên rằng: ‘Hỡi Con Vua Đavít, xin Ngài thương xót tôi với!’”. Đến đây chúng ta thấy nhân vật Giêsu Nazarét thấy vậy đã động lòng. Chắc bấy giờ Ngài mới nghe thấy tiếng kêu cứu của con người chẳng những bị khốn khổ về thân xác mà còn bị xãhội khinh thường về danh giá nữa. Tuy nhiên, về thần tính, Ngài đã biết con người này từ đời đời, đã biết anh ta muốn gì trước khi anh ta mở miệng kêu xin Ngài nữa. Nếu Ngài đến để tìm kiếm những gì đã hư trầm (x Lk 19:10) thì không phải tình cờ Ngài muốn đi qua chỗ con người khốn khổ bất hạnh này ngồi đâu. Như Ngài đã tự động tìm đến với người phụ nữ Samaritanô bê bối về đời sống hôn nhân, vào chính giờ (trưa) ngoại thường chị ra kín nước ở giếng Giacóp (x Jn 4:4-30), để tỏ mình ra cho riêng chị, để đem con chiên lạc này về đàn thế nào, thì Ngài cũng cố ý đến tìm con người mù ăn xin này. Dù đám đông đi theo Ngài có ồn ào đến mấy đi nữa, Ngài vẫn có thể nghe thấy anh ta kêu xin Ngài lần thứ nhất, như Ngài đã cảm được cái đụng chạm vào gấu áo của Ngài từ người đàn bà loạn huyết giữa đám đông chen lấn đụng vào Ngài (x Mk 5:27-34). Thế nhưng Ngài vẫn không phản ứng gì cho đến khi anh ta hô lên lần thứ hai, vì Ngài có ý để mọi người thấy được lòng tin mạnh mẽ của con người nghèo về vật chất nhưng giầu về đức tin này là chừng nào.

Sau hết, đức tin của con người mù ăn xin bên vệ đường này còn tỏ ra mạnh mẽ ở chỗ, sau khi nghe biết nhân vật Giêsu Nazarét, hay “Giêsu, Con Vua Đavít”, đối tượng của lòng tin của anh lên tiếng gọi anh, như người ta cho anh biết, anh đã tin chắc rằng mình đã trúng tủ, và sắp đến giờ được cứu chữa rồi. Đó là lý do, Thánh Ký Marcô đã ghi lại cử chỉ tin tưởng chắc ăn như bắp này của anh như sau: “Anh ta quẳng ngay chiếc áo quàng đi, nhẩy bổ lên mà đến cùng Chúa Giêsu”. Thái độ vui mừng hớn hở này của con người mù lòa nghèo khổ ăn xin bị xã hội khinh thường cho ra rìa đến ngồi bên vệ đường này không hẳn là vì anh ta tin mình sẽ được hay sắp được chữa lành, mà cũng có thể là vì anh ta cảm thấy mình đã được chú ý tới, nhất là lại được một vị tiên tri trong dân, vị là giòng dõi vua chúa để ý tới. Lấy được tự tin và phẩm giá làm người trước lời hỏi thăm trúng ngay tim đen của mình: “Anh muốn Tôi làm gì cho anh?”, một lời cảm thông mở đường dẫn lối anh mong đợi suốt cả cuộc đời, một cử chỉ ân cần săn sóc không biết anh có nhận được từ bất cứ ai trong xã hội của anh bấy giờ hay chăng, kể cả từ những người thân thương nhất của anh. Cảm nhận được tình thương của Đấng mình tin tưởng, anh đã không ngần ngại và hết sức cởi mở thưa ngay rằng: “Thưa Thày, tôi muốn được thấy”.

Nhưng vấn đề ở đây là làm sao người mù này có thể biết chỗ Chúa Giêsu đứng ở đâu trong đám đông để nhẩy đến ngay chỗ Người đứng, vì bấy giờ anh ta chưa được Người chữa cho. Có thể là anh ta khao khát mong đợi Đấng cứu độ anh ta xuất hiện từ lâu, nay gần đến thời điểm có một không ai này trong cuộc đời mình, anh ta đã trở thành thính tai đến nỗi đã nghe thấy được cả tiếng Người nói giữa một đám đông ồn ào chăng?

Quả nhiên, khi con người mù lòa về phần xác nhưng rất sáng suốt về phần hồn đây đã được Chúa Giêsu chữa cho anh ta sáng mắt liền, sáng mắt ngay lập tức, chứ không cần phải dài dòng cử chỉ như đã xẩy ra nơi người câm điếc trước đây ở bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm B, bao gồm những cử chỉ như dẫn người câm điếc ra khỏi đám đông, đặt các ngón tay vào lỗ tai của người này, bôi nước miếng vào lưỡi của anh ta, rồi ngửa mặt lên trời mà phán ‘hãy mở ra’. Tại sao có sự khác biệt như thế, nếu không phải là do đức tin của người mù ăn xin này. Trường hợp của người câm và điếc trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIII là trường hợp của đám đông xin cho anh ta, chứ anh ta không tự động xin và hăng hái xin như người mù bên vệ đường trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Bởi thế, để làm cho người câm điếc tin tưởng, Chúa Giêsu đã thực hiện những cử chỉ cần thiết và đầy ý nghĩa để nạn nhân có thể nhờ được chữa lành mà tin tưởng vào Người. Để làm cho một con người (vốn câm điếc về tâm linh) tin tưởng khó khăn là chừng nào; trái lại, để chữa lành cho người mù về thể xác nhưng sáng suốt về tâm linh, thì dễ dàng biết mấy.

Thật ra đức tin người mù ăn xin bên vệ đường trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXX tuần này cũng không phải tự anh ta mà có, song do chính Thiên Chúa đã gieo vào lòng anh ta từ trước, để khi Ngài đến qua Con của Ngài, Ngài có thể tỏ mình ra qua những hoạn nạn về phần xác của anh ta, một việc tỏ mình chẳng những cho cá nhân anh ta mà còn cho cả đám đông dân chúng bấy giờ nữa. Như Ngài đã tỏ mình ra ở những nơi khác, cho những người khác, song đã ảnh hưởng tới anh, đã làm cho anh dù không bao giờ được thấy Ngài, hay thậm chí được nghe Ngài, chỉ nghe đồn về Ngài thôi, đã tin tưởng Ngài rồi, đã mong chờ Ngài rồi. Chắc chắn anh mù ăn xin bên vệ đường trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này luôn ôm ấp trong lòng một ước vọng là được dịp gặp gỡ nhân vật “Giêsu Con Vua Đavít” lừng danh nổi tiếng. Và anh nghĩ rằng, tin tưởng rằng, một khi gặp được Ngài thì thế nào cũng được như ý. Ai có lòng khao khát nhân đức trọn lành sẽ được no thỏa thế nào (x Mt 5:6) thì kẻ khao khát gặp được Đấng đền để tỏ mình ra lại không gặp được Ngài hay sao?

Tuy nhiên, hạt giống đức tin làm nên lòng khao khát chân thiện này được gieo vào lòng người mù ăn xin bên vệ đường ấy không thể nào mọc lên mạnh mẽ như thế, nếu tấm lòng của anh ta không phải là một mảnh đất tốt. Vẫn biết hoạn nạn trên đời này là cơ hội để con người nghĩ đến những gì toàn hảo, để mong chờ cứu độ, để hướng về một quyền năng tối cao, nhưng cũng có thể là cớ vấp phạm cho một số người cho “trời không có mặt”, luôn cảm thấy uất hận và lên tiếng chửi trời rủa đất. Tuy nhiên, Thiên Chúa tỏ mình qua thập giá của Con Ngài thế nào (x Jn 8:28), Ngài cũng có thể dùng chẳng những tình trạng bất hạnh về phần xác của con người, mà thậm chí cả những sự dữ về tâm linh là tội lỗi của họ nữa để tỏ mình ra cho họ, để làm cho họ tin tưởng, cậy trông Ngài, như kinh nghiệm sống đạo của Kitô hữu vốn cho thấy!

Thế nhưng, con người, theo tâm lý, trong cảnh bất hạnh khổ cực, họ tìm mọi cách để được thoát nạn, để được cứu vớt, nên dễ tin tưởng vào bất cứ một quyền lực nào, miễn là có thể cứu độ họ. Phải chăng đau khổ và khốn khó dễ làm cho con người, tự bản chất và xu hướng tự nhiên vốn chiều theo xác thịt và thế gian, dễ hướng về chân thiện, hướng về Chúa, về Ðấng Tối Cao, về trường sinh vinh phúc, mà Ngài hay dùng và thường dùng chúng để nhắc nhở và thánh hóa con người!? Thế nhưng, trái lại, trong cơn cùng cực của mình, con người vẫn có thể tìm mình hơn tìm Chúa, Ðấng họ chỉ coi như là phương tiện cứu độ hơn là cùng đích, nên được ơn rồi, được giải thoát rồi là họ cho Ngài ra rìa, ra khỏi cuộc đời của họ. Phần người mù ăn xin bên vệ đường, vì thực tình tin vào Chúa, nên sau khi được sáng mắt đã không quay lưng bỏ Người mà đi, như trường hợp 9 người phong cùi vô ơn (x Lk 17:17-18), song đi theo Chúa như cuối bài Phúc Âm cho thấy. Vấn đề ở đây không phải là sáng mắt xác thịt mà là sáng mắt đức tin. Không sáng mắt đức tin thì có được mở mắt xác thịt chăng nữa, một lúc nào đó, khi con mắt xác thịt này trở thành dịp tội, con người cũng cần phải móc nó đi, như bài Phúc Âm Chúa Nhật 26 Thường Niên Năm B trước đây cho thấy, mới được vào Nước Trời mà thôi.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Trò Chơi Phúc Âm Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B


Phúc Âm

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nagiarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Được, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.

Hướng Dẫn

Trước hết, chắc chắn một điều là người mù ăn xin bên vệ đường này chưa bao giờ được chứng kiến thấy các phép lạ nhân vật mang danh Giêsu Nazarét làm, thậm chí chưa bao giờ được hân hạnh đi theo nghe lời giảng dạy đầy thần lực của nhân vật đại tôn sư tuyệt thế ấy.

Thế mà con người ăn xin này lại tin vào nhân vật ấy, không phải bằng một đức tin tầm thường, mà là một đức tin mãnh liệt. Đức tin “không thấy mà tin” (Jn 20:29) của con người mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường này mãnh liệt ở chỗ, trước hết, anh ta chỉ nghe đồn về nhân vật Giêsu Nazarét mà đã hết lòng tin tưởng vào Người rồi. Do đó, Thánh Ký Marcô đã ghi lại rằng: “Khi nghe thấy Đức Giêsu Nazarét (rời Giêricô đi ngang qua hay gần chỗ của mình), anh ta bắt đầu kêu lên: ‘Hỡi Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót đến tôi’”.

Sau nữa, đức tin của con người mù ăn xin bên vệ đường này còn tỏ ra mạnh mẽ ở chỗ, sau khi nghe biết nhân vật Giêsu Nazarét, hay “Giêsu, Con Vua Đavít”, đối tượng của lòng tin của anh lên tiếng gọi anh, như người ta cho anh biết, anh đã tin chắc rằng mình đã trúng tủ, và sắp đến giờ được cứu chữa rồi. Đó là lý do, Thánh Ký Marcô đã ghi lại cử chỉ tin tưởng chắc ăn như bắp này của anh như sau: “Anh ta quẳng ngay chiếc áo quàng đi, nhẩy bổ lên mà đến cùng Chúa Giêsu”.

Nhưng vấn đề ở đây là làm sao người mù này có thể biết chỗ Chúa Giêsu đứng ở đâu trong đám đông để nhẩy đến ngay chỗ Người đứng, vì bấy giờ anh ta chưa được Người chữa cho. Có thể là anh ta khao khát mong đợi Đấng cứu độ anh ta xuất hiện từ lâu, nay gần đến thời điểm có một không ai này trong cuộc đời mình, anh ta đã trở thành thính tai đến nỗi đã nghe thấy được cả tiếng Người nói giữa một đám đông ồn ào chăng? Đó là lý do hôm nay chúng ta cùng nhau sinh hoạt trò chơi Phúc Âm Mù Lòa Sáng Suốt.

Sinh Hoạt

1. Mỗi nhóm chọn ra 1 người đóng vai người mù (bị bịt mắt) ngồi bên vệ đường, khoác một chiếc áo choàng.

2. Người quản trò sẽ sắp xếp chỗ ngồi thành vòng tròn cho những người mù này sau khi đã bịt mắt họ lại để họ không nhìn thấy vị trí chỗ của họ.

3. Sau đó người quản trò dẫn một người nào đó đóng vai Chúa Giêsu đi một vòng trước mắt hay sau lưng các người mù. Người đi đến chỗ của người mù nào thì người mù chỗ ấy kêu lên: “Hỡi Đức Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót tôi”.

4. Thế rồi đột nhiên, người đóng vai Chúa Giêsu chỉ vào ai, thì người quản trò lấy tay đập vào vai người ấy loan báo: “Người gọi đến kìa”.

5. Nghe thấy lời đó xong thì người đóng vai người mù liền quăng chiếc áo choàng của mình đi rồi nhẩy bổ đến trước mặt Chúa Giêsu.

6. Trò chơi được tính điểm ở chỗ người mù của nhóm nào nhẩy đến gần chỗ Chúa Giêsu nhất, nhưng phải làm sao càng ở trước mặt người nữa càng hay, và ném chiếc áo choàng vào đúng một người nào đó hơn là bị rơi xuống đất.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, gợi ý

 

Con mắt ám chỉ đức khôn ngoan nơi con người. Nhân bài Phúc Âm Chúa Nhật Thường Niên 30 về việc Chúa Giêsu chữa lành mắt cho người mù ăn xin bên vệ đường, chúng ta hãy cùng nhau suy tư về nhân đức khôn ngoan, một trong bốn nhân đức trụ, nhân đức luân lý cần thiết cho đời sống này.

 

KHÔN  NGOAN Đức tính cần thiết để sống

“Khôn ngoan dẫn đầu mọi nhân đức”. – Khôn ngoan, công bằng, đại đảm, tiết độ. Bốn đức tính của bậc thánh nhân, quân tử.

Con người trưởng thành là con người biết dùng lý trí và hiểu biết để tiết độ và kìm hãm những bản năng và dục vọng bất chính. Thí dụ, tham, sân, si hoặc hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, và dục. Biết lúc nào cần phải nhường, và biết chừng mực. Không tiết độ, con người sẽ trở thành buông túng, tháo thứ và vô trật tự. Hễ đói thì ăn, hễ khát thì uống, và hễ buồn ngủ thì lăn ra ngủ… không cần biết mình ăn gì, uống gì, ngủ ở đâu. Và cũng không cần biết mình ăn như thế nào, uống như thế nào, và lấy của ăn, thức uống ấy từ đâu và bởi ai. Aên, uống, ngủ, nghỉ như thế là một hành động bản năng. Đây mới chỉ là giai đoạn đầu của tiến trình phát triển tâm sinh lý. Do đó, người hành xử như vậy, gọi được là người thiếu trưởng thành về mặt tâm lý.

Tiết độ, chừng mực, nhưng nhát đảm, sợ sệt thì vẫn không thể thành công, và không đủ tự tin để quyết định những việc làm cần thiết. Nhát đảm, do đó, cũng là một triệu chứng của tâm lý bệnh hoạn, một hội chứng có tên là low self-esteem – thiếu tự tín. Tuy nhiên, bạc nhược, thiếu tự tin khác với liều lĩnh, bất cần. Nó cũng không phải là một hành động đi ngược lại với khiêm tốn và dịu dàng. Người khiêm tốn và dịu dàng vẫn có phong thái riêng của mình. Khi cần vẫn phải nói tiếng “có” cũng như tiếng “không” và không buông xuôi, sợ hãi, hoặc hống hách, kiêu căng, phách lối.

Tiếp đến là công bằng, một đức tính liên quan không những đến lương tâm, mà còn ảnh hưởng nhiều đến đạo đức xã hội. Không tham lam, chộp giật. Không bần tiệt, keo kiết. Biết trả lại của người những cái thuộc về người. Người cao thượng và chính nhân khi ở trong tư thế của người thủ lãnh, không dành phần hơn, và không chấp nhận hối lộ, xua nịnh. Ngược lại, không hách dịch, chuyên quyền, và cưỡng bức người dưới. Không để tỳ tích cá nhân ảnh hưởng việc chung, nhưng biết khuyến khích, cổ võ, và nâng đỡ người dưới. Trong tâm lý điều hành, người ta cũng đề cập đến một khía cạnh tích cực của hành động cổ võ, nâng đỡ và khích lệ những nhân viên dưới quyền như một nghệ thuật điều hành có tâm lý.

Đề cập đến khôn ngoan, người Việt Nam có câu: “Khôn cũng chết, dại cũng chết, hễ biết thì sống”. Tuy câu nói này có cái nghĩa chua chát và tiêu cực để bào chữa cho những hành động nhất thời, xua nịnh của những kẻ bán rẻ lương tâm và thiếu tự trọng. Nhưng nếu hiểu theo một nghĩa tích cực nào đó, tức là sự hiểu biết và suy luận với tâm trí khôn ngoan, cũng có thể giúp tránh né được những bất trắc và nguy hiểm. Như vậy, đối với những kẻ khôn lỏi, khôn ranh và khôn vặt. Hoặc những kẻ xua nịnh, luồn cúi không được xếp vào hàng những người hành xử khôn ngoan. Vì khôn ngoan là một nhân đức, một đức tính của những thánh nhân, quân tử.

Khôn ngoan, do đó, không chỉ là việc xử dụng lý trí, và đầu óc để mong chiếm đoạt, hoặc toan tính một việc gì có lợi cho mình, nhưng còn là một nhân đức. Chỉ số thông minh của một người vì thế không định vị mức độ khôn ngoan theo chiều hướng nhân đức. Thực tế cho thấy nhiều người rất thông minh, nhưng không dùng sự thông minh ấy theo sự hướng dẫn của lương tâm. Không dùng thông minh của mình để giúp đời, và làm đẹp cho đời. Ngược lại, đã dùng trí thông minh của mình để hưởng thụ, để thỏa mãn tính kiêu căng, hoặc để tự phụ, tự mãn.

Như vậy không hẳn hành động được thừa nhận bằng chủ quan tính của mỗi người là một hành động khôn ngoan. Có những người cho mình là khôn ngoan bằng cách thu tròn, tránh né, và không dám làm mất lòng ai. Những người này nghĩ rằng làm như vậy là khôn ngoan, và sẽ được mọi người kính nể. Nhưng càng cố gắng vo tròn và tránh né, họ càng gặp nhiều chống đối và càng dễ bị sứt mẻ. Một hòn đá, tuy có góc cạnh nhưng chính nhờ góc cạnh của nó mà nó nằm im, vững vàng một chỗ, và không gây phiền phức. Hoặc nó chỉ trở thành đối tượng của phiền phức khi có người hoặc vật nào vô tình hay hữu ý đụng phải nó. Ngược lại, một trái banh vì tròn trĩnh, nên dễ lăn, dễ dụng chạm, và do đó, dễ gây phiền phức và khó chịu. Tóm lại, cái mà người này cho là khôn, thì không hẳn là cái mà ta phải bắt chước, hoặc ngược lại. Điều này cho phép ta nghĩ rằng dù mình là ai, là thế nào đi nữa, rồi cũng gặp phải một số chống đối, khó chịu của người này, người khác. Và đó là lý do khôn ngoan cần thiết để hướng dẫn sự công bằng, khả năng chịu đựng, và hành động tiết độ của mình để ta biết sống bình an với mình và với những người chung quanh. Hành động khôn chưa hẳn là ngoan, hay ngược lại.

Đi vào thực hành, tuy khôn ngoan dẫn đầu các đức tính như vừa kể, nhưng khởi đầu của khôn ngoan lại là “lòng kính sợ Thiên Chúa”. Đúng vậy, nếu không tin tưởng và không kính sợ Thượng Đế, thì không có gì có thể kìm hãm tính tham lam, vô độ, tính ghen tương, tính cao ngạo, và những thèm khát dụng vọng nơi con người. Chính những thứ này sẽ dẫn đến những bất công xã hội, những đổ vỡ gia đình, và những buông túng cá nhân. Vì thế mà kính sợ Thiên Chúa không những là một nhân đức có căn rễ nơi tôn giáo, mà còn là một hành vi tâm lý giúp ổn định và tăng trưởng cuộc sống. Trong hôn nhân gia đình chẳng hạn, nếu người chồng, người vợ không còn tin tưởng, và kính sợ Thiên Chúa, không còn theo tiếng lương tâm chỉ bảo, thì sẽ không một luật lệ nào, không một lời thề hứa nào có thể gắn bó và ràng buộc hai người mỗi khi có những xung khắc về tính tình, về tâm lý và về những ý kiến khác biệt. Đó là chưa kể đến những thu hút, cám dỗ đến từ những nguyên nhân bên ngoài gia đình.

Tóm lại, không phải là chỉ số thông minh; cũng không phải là luật lệ nghiêm khắc, mà chính là do sự kính sợ Thiên Chúa. Sợ Đấng ngự trên cao. Sợ Thượng Đế mới có khả năng giúp con người sống khôn ngoan. Nhiều triết gia, nhiều nhà khoa học, hoặc nhiều kẻ vô thần đang cố công khai trừ Thượng Đế ra khỏi cuộc sống họ và cuộc sống nhân loại. Nhưng một điều xem ra tương phản là người ta càng hô hào, đả phá Thượng Đế. Càng cố tình quên Ngài trong cuộc sống, thì sự hiện diện của Ngài lại càng như gắn liền với số mệnh cuộc đời của mỗi người và của toàn thể nhân loại. Mới đây, tuần trước một số khoa học gia tại Hoa Kỳ đã tuyên bố về kết quả một phát minh trong ngành sản sinh vô tính nơi loài người. Một bé gái tên Evà đã được sinh ra bằng phương pháp sản sinh vô tính dục. Người khen, kẻ phê bình. Nhưng chắc chắn một điều là ngay cả những nhà khoa học ấy thì cũng không từ lỗ nẻ ở đất chui lên, hoặc từ trên trời rơi xuống. Họ cũng đã được sinh ra bởi cha mẹ, và được nuôi dưỡng để rồi khi lớn lên lại một hình thức nào đó phủ nhận sự có mặt của cha mẹ mình ngay chính trong cuộc đời mình. Đó không phải là khôn ngoan. Như vậy, càng kính sợ Thiên Chúa, con người càng khôn ngoan, và càng khôn ngoan thì con người càng nhận ra rằng không thể tự mình mà có, mà là do Thiên Chúa tạo dựng nên. Và trong sứ mạng kiếm tìm Ngài, cũng như trên hành trình cuộc sống, con người phải dùng sự hiểu biết của mình, trí thông minh của mình và tài năng của mình để khám phá ra sự hiện diện của Ngài, cũng như để giúp làm đẹp cuộc đời.
 

Trần Mỹ Duyệt

Khôn Ngoan
 

Cốt Lõi Khôn Ngoan

Theo thường tình, nói đến khôn ngoan, trước hết, là nói đến kiến thức, nói đến một trình độ thông hiểu của con người. Một con người hiểu biết, hầu như cái gì cũng biết, thường được gọi là con người khôn ngoan. Đó là lý do khôn ngoan chẳng những cho thấy mức độ tăng trưởng của con người, về cả thể lý lẫn tâm lý, thường được gọi là khôn lớn, mà còn cho thấy cả mức độ lão thành của con người nữa, thường được gọi là lão luyện, sành đời. Như thế, khôn ngoan, về thực tế, còn liên quan đến cả cách cư xử ở phương diện xã hội cũng như cách giải quyết ổn thỏa cho những trục trặc trong đời sống. Bởi thế, một con người thông minh trí thức, bằng cấp đầy mình, danh cao chức cả, ăn mặc sang trọng, mặt mũi sáng sủa v.v., nếu không biết xử thế, không biết cách đương đầu với những đụng độ với đời, vẫn không được kể là một con người khôn ngoan, trái lại, vẫn có thể bị người đời che cười, khinh khi, nguyền rủa, và gặp thảm bại. Đó là lý do, nếu công bằng liên quan đến nguyên tắc làm người thế nào thì khôn ngoan liên quan đến đường lối làm người như vậy.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, giữa công bằng và khôn ngoan còn có một khoảng cách. Ở chỗ, có những trường hợp theo công bằng, tức theo nguyên tắc hay theo lý thì đúng, nhưng theo khôn ngoan, tức về phương diện hành sử hay theo tình thì không hợp, nếu không muốn nói là thất sách, nên dù lý đúng nhưng việc lại không thành. Bởi vậy, con người thành toàn chẳng những là một con người chính trực, một con người sống đức công bằng, mà còn phải là một con người thiện hảo, một con người sống đức khôn ngoan nữa. Dầu sao, căn bản mà nói, cũng phải công nhận là bất cứ những gì con người làm có tính cách bất công đều là những hành động bất khôn, vì những hành động bất khôn ấy phạm đến sự thật làm người, phạm đến nguyên tắc phổ quát làm người. Nói cách khác, tất cả những gì con người làm bất xứng với phẩm giá của mình đều là những hành động bất khôn. Như thế, khôn ngoan chẳng qua chỉ là cách thức làm người đúng với phẩm giá phổ quát đại đồng của con người. Do đó mới có câu tri kỷ tri bỉ: Khôn ngoan nhất là ở chỗ biết mình và biết người.

Ngoài ra, khôn ngoan chẳng những liên quan cả đến cách thức lẫn phương tiện hành động mà còn, bởi đó và từ đó, liên quan cả đến thành quả của việc họ làm. Có thể nói, căn cứ vào thành quả người ta đi đến chỗ xác định được việc nào là việc làm khôn ngoan, và việc nào là việc bất khôn. Và chính vì khôn ngoan liên quan mật thiết đến thành quả của việc làm như thế mà, đến đây, khôn ngoan lại liên quan cả đến lợi lộc của con người. “Khôn sống mống chết” là thế. Đó là lý do, theo tâm lý bình thường, ai làm điều gì bất lợi cho họ đều được coi là những người ngu ngốc, những người khờ dại v.v.

Vậy nếu khôn ngoan là cách thức làm người đúng với phẩm giá phổ quát đại đồng của con người, và khôn ngoan liên hệ mật thiết đến lợi lộc của con người, thì khôn ngoan quả thực được hiện thân sống động nơi văn hóa của con người. Con vật dù tinh khôn mấy đi nữa, như loài chó săn được con người sử dụng để truy lùng thủ phạm, hoặc loài khỉ được con người huấn luyện để làm xiệc v.v., thì những tác động tinh khôn ngoại thường của loài vật này cũng không thể nào được gọi là văn hóa hay đáng gọi là văn hóa cả. Về phần con người, tại sao con người ngày nay không còn ăn lông ở lỗ, không còn sống theo những tục lệ man di mọi rợ, không còn sống theo tục lệ đa thê nơi hôn nhân gia đình, hay không còn tiếp tục chế độ quân chủ chuyên chế ở lãnh vực chính trị xã hội, nếu không phải là vì con người đã càng ngày càng trở nên khôn ngoan hơn.

Thế nhưng, ba vấn đề thực tế cần được đặt ra ở đây là: Thứ nhất, phải chăng văn hóa nói chung, và văn hóa của con người văn minh ngày nay nói riêng, là tất cả kho tàng khôn ngoan ngàn đời của nhân loại? – Vậy thì tại sao lịch sử con người văn minh hiện đại lại có một thứ văn hóa được Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi là “văn hóa sự chết”! Thứ hai, phải chăng tất cả những gì con người giải quyết mang lại lợi ích thiết thực cấp thời ngay trước mắt đều là những gì khôn ngoan?? – Vậy thì tại sao lại xẩy ra tình trạng xung khắc kịch liệt giữa khuynh hướng pro choice phò quyền tự quyết và trào lưu pro life phò sự sống như ở Hoa Kỳ từ trước đến nay! Và thứ ba, phải chăng thảm bại, nhục nhã, thua kém v.v. đều là hậu quả của những gì vốn bị người đời cho là do ngu dại, là bởi bất khôn mà ra??? – Vậy thì tại sao trong xã hội lại có những người bỏ đi tu, những người được thế gian vừa trố mắt tiếc vừa lắc đầu chê là “đẹp trai hay xinh gái như thế mà lại bỏ đi tu, thật là uổng”, thế mà, thực tế cho thấy, trong số những con người sống kiếp đời uổng phí đó lại không phải vì chán đời cho bằng yêu đời; họ yêu đời đến nỗi họ chẳng những dấn thân phục vụ xã hội loài người nói chung và thành phần bất hạnh nói riêng ở mọi lãnh vực, nhất là lãnh vực giáo dục và chăm sóc sức khỏe, mà còn dám hy sinh cả mạng sống mình để bênh vực quyền lợi của anh chị em bị đàn áp và bóc lột của mình nữa, kết quả là, những vụ ám sát thành phần này đã và đang không ngừng và không ít xẩy ra ở Phi Châu và Nam Mỹ Châu!

Bởi vậy, với một lương tâm chân chính, con người thành tâm thiện chí có thể giải quyết dứt khoát ba vấn đề được đặt ra trên đây một cách hết sức rõ ràng minh bạch như thế này. Nếu thực sự khôn ngoan là cách thức làm người đúng với phẩm giá phổ quát đại đồng của con người, thì tất cả những thứ văn hóa nào, những phản ứng, những giải quyết, những tác hành nào phạm đến phẩm giá của con người, tức phản lại sự thật làm người, đều là bất khôn. Trái lại, bất cứ thứ văn hóa nào, bất cứ phản ứng, tác hành, giải quyết nào, hợp với phẩm giá của con người, hợp với sự thật làm người, thì dù có bị thiệt hại, có vẻ ngu xuẩn trước mắt thế gian, có vẻ thất sách bất lợi cho cá nhân con người, cũng thực sự là và phải được kể là những gì khôn ngoan.

Như thế, nếu xác tín trên đây không sai thì khôn ngoan bao gồm cả ba lãnh vực, kiến thức của trí khôn, chọn lựa của lòng muốn và đường lối của việc làm. Nếu thiếu một trong ba yếu tố này, con người không thể sống khôn ngoan và trở nên một con người khôn ngoan. Thật vậy, khôn ngoan không phải chỉ ở mức độ con người thông hiểu, biết phân biệt phải trái, đúng sai về sự vật hay sự việc, cũng như ở tác động con người nhờ đó biết chọn lành bỏ dữ, chọn tốt bỏ xấu, chọn lợi bỏ hại, mà còn ở tại cả việc con người theo đó biết tìm được những cách thế hoặc phương tiện hay nhất, khéo nhất, hợp nhất để đạt được mục tiêu hành động, đạt được mục đích làm người, nhất là để đạt được cùng đích của cuộc đời. Như những gì vừa nhận định và phân tích, khôn ngoan tự bản chất chính là tác động biết, nơi cả ba lãnh vực trí khôn, lòng muốn và việc làm. Áp dụng nguyên tắc khôn ngoan hay tiêu chuẩn thẩm định thế nào mới thực sự là khôn ngoan trên đây vào thực tế, chúng ta liền thấy đâu là khôn ngoan, là chân thực, và đâu là bất khôn, là dại dột. Chẳng hạn những trường hợp điển hình thực tế sau đây, liên quan đến chính trị xã hội, đến kỹ thuật khoa học, và đến giáo dục học đường.


Chân Dung Khôn Ngoan

Trước hết là trường hợp khôn ngoan về phương diện chính trị xã hội. Như lịch sử hiện đại cho thấy, về lãnh vực kinh tế, thế giới này đang được chia ra làm ba giai cấp rõ ràng: Giai cấp thứ nhất bao gồm các quốc gia thuộc loại tân tiến, tiêu biểu nhất là Hoa Kỳ; giai cấp thứ hai bao gồm các quốc gia thuộc loại đang tiến, tiêu biểu nhất là Đại Hàn; và giai cấp thứ ba là các quốc gia thuộc loại chậm tiến, còn được gọi là các quốc gia thuộc đệ tam thế giới (third world countries), bao gồm các quốc gia thuộc Nam Bán Cầu, nhất là ở Phi Châu và Nam Mỹ Châu, Việt Nam hiện nay cũng được kể là một quốc gia chậm tiến tiêu biểu nhất. Các quốc gia tân tiến giầu thịnh thường thực hiện những chương trình được gọi là “viện trợ nhân đạo” cho các nước chậm tiến nghèo khổ. Tự bản chất và về hình thức thì các chương trình “viện trợ nhân đạo” này là những hành động khôn ngoan tuyệt hảo, xứng đáng nói lên văn minh nhân bản của con người, và do đó thực sự thuộc về kho tàng văn hóa cao quí của con người. Tuy nhiên, nếu chương trình “viện trợ nhân đạo” này lại bị các quốc gia tân tiến lạm dụng để áp đặt chính sách tân thực dân đế quốc một cách khéo léo trên các quốc gia chậm tiến, bằng việc các nước tân tiến có ý đồ muốn dùng kinh tế điều khiển guồng máy chính trị của các nước được viện trợ, muốn khai thác tài nguyên của các nước nợ nần ân nghĩa viện trợ của mình, nhất là muốn biến các tiểu nhược quốc mồi ngon thành một thị trường tiêu thụ cho những thứ sản xuất thặng dư của họ, những thứ thay vì đổ đi thì đem viện trợ.

Đó là lý do, vấn đề viện trợ nhân đạo được ban thí nhiều ít còn tùy ở lợi lộc đủ thứ thu được của các quốc gia tân tiến. Những quốc gia chậm tiến nào không có tài nguyên để khai thác, những tài nguyên hấp dẫn như các mỏ dầu hỏa ở các quốc gia thuộc thế giới Ả Rập chẳng hạn, hay ít là không chịu trở thành thị trường tiêu thụ cho họ, không chịu để họ chi phối về chính trị, như trường hợp Việt Nam thời Đệ Nhất Cộng Hòa chẳng hạn, liền bị cúp hay giảm viện trợ nhân đạo, hay còn bị cấm vận bởi những lý do chính trị nữa, như trường hợp Iraq trong hơn một thập niên từ sau Cuộc Chiến Vùng Vịnh 1990-1991. Cái chết của một Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 1963, trước mắt những kẻ tham quyền cố vị, cho dù có là một cái chết uổng phí, một cái chết ngu xuẩn, nhưng chí khí bất khuất của vị nguyên thủ quốc gia này không chịu ngoại bang hùng mạnh chi phối nội bộ quốc gia của mình, đối với thành phần ái quốc chân chính, lại là một quyết định khôn ngoan của một lãnh tụ thần tượng. Quyết định tấn công xâm lược Kuwait của Tổng Thống Saddam Hussein, từ đó, đã khiến cho nhân dân của ông bị Liên Hiệp Quốc cấm vận khốn khổ về kinh tế, thật sự là một quyết định sai lầm và bất khôn, thế nhưng, vì lỗi lầm của một cá nhân mà cả một dân tộc Iraq phải chịu trừng phạt bởi cấm vận như thế, thì việc cấm vận này có công bằng, hợp tình hợp lý hay chăng, hay cũng bất khôn chẳng hơn gì quyết định tấn công Kuwait của Tổng Thống Saddam Hussein? Hiện tượng Hoa Kỳ là một siêu cường quốc viện trợ khắp thế giới lại bị khủng bố tấn công nhất thế giới đã cho thấy những chính sách ngoại giao của họ đối với các tiểu nhược quốc được họ vung tay giúp đỡ từ trước tới nay là khôn ngoan hay bất khôn?

Sang đến lãnh vực kỹ thuật khoa học, không ai có thể chối cãi con người đang ở trong một thời đại tối văn minh tân tiến về vật chất. Ngoài những phát minh kỹ thuật tân kỳ về lãnh vực truyền thông xã hội, truyền thanh, truyền hình và truyền liệu (intenet), một lãnh vực đã biến thế giới loài người ở khắp Năm Châu Bốn Bể, ở hang cùng ngõ hẻm trên trái đất, hết sức xa xôi cách trở trước đây vào thời thám hiểm tân thế giới, trở thành một ngôi làng hoàn vũ (global village), còn phải kể đến những khám phá của khoa học về lãnh vực truyền sinh di giống (genetics), trong đó có các thứ kỹ thuật tạo sinh ngoại nhiên vô tiền khoáng hậu, như bằng phương pháp cấy thai trong ống nghiệm, hoặc theo kiểu cloning phi tính dục. Vấn đề được đặt ra là khi thực hiện những kỹ thuật tạo sinh ngoại nhiên này, con người có khôn ngoan hay chăng? Đối với thành phần khoa học gia theo chủ nghĩa duy thực dụng (utilitarialism) thì đây là những việc làm khôn ngoan, bởi vì những kỹ thuật này, như kỹ thuật cấy thai trong ống nghiệm hay vào tử cung của một phụ nữ, là để giúp giải quyết vấn đề bất lực truyền sinh của các đôi vợ chồng, hay như kỹ thuật tạo sinh phi tính dục, là để giúp vào việc tạo sinh cải giống (eugenics).

Thế nhưng, theo giới hạn tự nhiên của mình, không phải bất cứ những gì con người làm được về khả năng tự nhiên đều là những gì con người được làm theo quyền hạn luân lý. Chẳng hạn, con người có thể sinh con đẻ cái theo phái tính và khả năng sinh dục của mình, nhưng không phải vì thế mà con người được quyền hay được phép giao hợp với bất cứ một ai ngoài vợ hay chồng chính thức của mình để có con. Nếu quả thực sau này con người có thể sử dụng kỹ thuật phi tính dục tạo sinh ra con người thì con người quả thực đã tiến đến chỗ không còn cần đến đời sống hôn nhân và cơ cấu gia đình nữa, những yếu tố thiết yếu làm nên xã hội loài người. Một khi nền tảng xã hội là hôn nhân và gia đình bị hủy hoại, khiến cả xã hội loài người hoàn toàn bị sụp đổ hay hỗn loạn, thì việc thực hiện những kỹ thuật tạo sinh ngoại nhiên là việc làm có lợi hay có hại, là việc khôn ngoan hay bất khôn. Nếu thực sự là việc khôn ngoan, thì việc tạo sinh con người chẳng những phải hợp với luật tự nhiên, tức bằng việc giao hợp giữa hai con người nam và nữ, mà còn phải hợp với nhân bản xã hội nữa, tức phải được thực hiện trong giới hạn hôn nhân, nghĩa là phải bởi tình yêu thương nhau và tự hiến mình cho nhau của hai con người nam nữ vợ chồng.

Về lãnh vực giáo dục học đường tại Hoa Kỳ hiện nay, người Việt Nam chúng ta thấy không còn vấn đề “tiên học lễ hậu học văn” như ở Việt Nam ngày xưa nữa. Tại học đường Mỹ Quốc không còn vấn đề công dân giáo dục hay còn khoa đức dục nữa, mà chỉ hoàn toàn thuần túy chuyên chú vào việc truyền thụ về kiến thức khoa học mà thôi. Phải chăng, vì việc giáo dục đạo đức đã bị coi thường ngay tại học đường như thế, mà giới trẻ lại là tương lai của xã hội, xã hội Hoa Kỳ càng ngày càng có những hiện tượng lạ, nếu không muốn nói là quái gở. Chẳng hạn sự kiện dân chúng được phép đốt cờ quốc gia, (tôi đã thấy những chiếc quần cộc với hình cờ quốc gia làm nổi nang cả bộ mông người mặc); hay hiện tượng con cái bị mồ côi bất đắc dĩ, tức là cha mẹ còn sống đó nhưng con cái không được quyền sống chung với cả hai, vì cha mẹ ly dị; hoặc sự kiện con người đồng phái tính được quyền lập gia đình với nhau; kể cả hiện tượng con người lúc nào cũng bất an, chẳng những liên quan đến các thứ bảo hiểm nhà cửa, xe cộ, sức khỏe, tuổi thọ, bảo vật, mà còn liên quan cả đến các thứ tự bảo hiểm phòng thân khác như thuốc ngừa thai, bọc cao xu vì sợ có thai, sợ bị chứng liệt kháng AIDS.

Vì chứng liệt kháng đang lan tràn và vô cùng nguy hại đến cá nhân cũng như xã hội, ngoài ra còn hiện tượng giới trẻ hoang thai quá nhiều, học đường Hoa Kỳ đã có những chương trình dạy về tính dục sex education, để cả nam lẫn nữ đề phòng khỏi bị chứng liệt kháng, và để riêng nữ có thể đề phòng khỏi bị mang bầu. Qua chương trình dạy về tính dục tại học đường này, người lớn đã chỉ cho lứa tuổi học sinh dậy thì đang rạo rực tình dục và dồi dào sinh lý, lại đầy tò mò và muốn thử nghiệm này, những kỹ thuật ngừa thai và phương cách làm tình an toàn (safe sex). Vần đề ở đây là việc dạy cho giới trẻ học sinh về những kỹ thuật làm tình an toàn này có phải là việc làm khôn ngoan hay chăng, hay là một việc bất khôn. Căn cứ vào hậu quả của việc làm, vấn đề dạy cách làm tình an toàn cho giới trẻ học sinh chẳng những không làm giảm bớt hoang thai mà còn tăng hơn nữa, như thống kê cho thấy, thì việc này là một việc bất khôn, việc có hại hơn có lợi, việc phá hoại hơn là xây dựng. Tại sao có một cách an toàn nhất và xứng với phẩm giá con người nhất, một phương pháp tuyệt đối hiệu nghiệm, tức một phương pháp khôn ngoan nhất, tốt đẹp nhất, giúp cho con người có thể giữ mình khỏi cả hoang thai lẫn chứng liệt kháng, đó là giới trẻ giữ mình trinh khiết, tránh những thứ yêu cuồng sống vội, và người lớn giữ mình trong sạch, vợ nào chồng ấy, con người lại không làm: không chịu làm hay không dám làm? Phải chăng vì con người văn minh ngày nay, làm được hầu như mọi sự về kỹ thuật, đang quay cuồng với chủ nghĩa hưởng thụ (consumerism), nên không thể chống trả cám dỗ, không thể làm chủ được bản thân mình, một tình trạng liên quan đề vấn đề tiết độ sẽ được bàn đến trong bài chia sẻ lần tới…

Tóm lại, một hành động khôn ngoan chính là một hành động hợp với nguyên tắc luân lý phổ quát, một nguyên tắc về thực tế được bao gồm 3 yếu tố: việc tốt, ý lành và cách hợp. Thiếu một trong ba yếu tố này không hành động nào của con người hội đủ điều kiện trở thành một hành động tốt, một hành động khôn ngoan, vì không hợp với sự thật làm người, không phản ảnh nhân phẩm làm người và bất xứng với nhân cách làm người. Việc tốt ở đây phải là việc tự bản chất tốt, như việc trợ nhân đạo của các quốc gia tân tiến đối với các quốc gia chậm tiến; còn việc tự bản chất xấu, như việc tạo sinh hoang thai hay việc tạo sinh ngoại nhiên phi tính dục, dù có ý lành, vẫn là việc xấu. Ý lành, như mục đích của hành động là để giúp cho giới trẻ khỏi hoang thai và cho người lớn khỏi chứng liệt kháng; nhưng mục đích này phải được thực hiện bằng những phương thức hay phương tiện thích hợp nữa mới được. Cách hợp, như dạy cho giới trẻ học sinh biết giữ mình trinh khiết hay cho người lớn biết giữ mình trong sạch; chứ không phải dạy cho con người làm tình an toàn theo phương pháp kỹ thuật có tính cách dung túng tình dục, đưa đến những tác động ân ái thuần nhục dục và vô trách nhiệm, hoàn toàn phản lại bản chất của tính dục hướng về hôn nhân thủy chung và sự sống lành thánh.


Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh, BVL
(Bài chia sẻ cho buổi phát thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 52, 12/1/2003)

 

(Giáo Hội Hiện Thế các tuần trước)