GIÁO HỘI HIỆN THẾ
Tháng 4/2004
Ý Chỉ Ðức Thánh Cha
Ý Chung: “Xin cho việc sửa soạn đầy đủ để giúp những ứng viên chịu chức thánh cũng như cho việc huấn luyện thường xuyên để giúp các vị thừa tác viên chức thánh được thực hiện một cách cận thận kỹ lưỡng”.
Ý Truyền Giáo: “Xin cho tinh thần truyền giáo 'cho muôn dân' trở thành vấn đề ưu tư và là vấn đề liên lỉ dấn thân nơi sinh hoạt mục vụ thường xuyên của cộng đồng Kitô giáo”.
___________________________________________
NGÀY 4 CHÚA NHẬT LỄ LÁ MỞ ÐẦU TUẦN THÁNH |
(ÐTC GPII Bài Giáo Lý thứ 9 Năm Thánh 2000, Thứ Tư 3/5/2000)
1- Cuối trình thuật của Phúc Âm về cuộc tử nạn của Chúa Kitô, có tiếng của viên đại đội trưởng người Rôma vang lên, như báo trước việc Giáo Hội tuyên xưng đức tin: “Người này thật là Con Thiên Chúa” (Mk 15:39). Vào những giờ phút cuối cùng của cuộc sống trần gian của Chúa Giêsu, cuộc tỏ hiện cao điểm của Ba Ngôi xẩy ra trong tăm tối. Trình thuật Phúc Âm về cuộc khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô ghi nhận là mối liên hệ thân mật giữa Người với Cha trên trời vẫn tiếp tục cho dù trong vực sâu khổ ải.
Mọi sự được bắt đầu vào buổi tối của Bữa Tiệc Ly, bên trong những bức tường âm thầm kín đáo của Căn Thượng Lầu, nơi mà dầu thế bóng dáng của sự phản bội cũng đã mờ mờ xuất hiện. Thánh Gioan đã giữ cho chúng ta những lời tạ từ tuyệt vời nhấn mạnh đến mối liên hệ sâu xa và thấp nhập nhau giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha: “Nếu các con biết Thày, các con cũng biết Cha Thày nữa... Ai thấy Thày là thấy Cha... Những lời Thày nói với các con không phải Thày lấy quyền mình mà nói, song Cha là Đấng ở trong Thày làm các việc của Ngài. Các con hãy tin rằng Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày” (Jn 14: 7, 9-11).
Nói như thế là Chúa Giêsu đang lập lại những lời Người đã nói trước đó ít lâu khi Người công bố một cách rõ ràng rằng: “Tôi và Cha là một... Cha ở trong Tôi và Tôi ở trong Cha” (Jn 10:30, 38). Rồi trong lời cầu kết thúc bài diễn từ ở Căn Thượng Lầu, trong khi chiêm ngưỡng vinh quang của Cha, Người dâng lên Cha mình lời này: “Lạy Cha Thánh, xin Cha hãy gìn giữ họ vì danh Cha, danh mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một như Chúng Ta là một” (Jn 17:11). Bằng những lời tuyệt hảo tín thác cho Cha ấy, Chúa Giêsu sửa soạn thực hiện tác động yêu thương cao cả (x Jn 13:1).
2- Trong cuộc khổ nạn, mối liên hệ kết hợp Người với Cha được biểu lộ đặc biệt mạnh mẽ song hết sức thảm thương. Người Con Thiên Chúa đã sống trọn nhân tính của mình, ở chỗ đã đi sâu vào bóng tối khổ đau và sự chết là những gì làm nên thân phận của con người. Nơi Vườn Nhiệt, trong khi cầu nguyện, chẳng khác gì như đang sống trong một cuộc đối chọi, một “cuộc sầu thảm”, Chúa Giêsu đã dâng lên Cha bằng một thứ ngôn ngữ Aramaic nói lên mối thân mật con cái của mình: “Abba, Lạy Cha! Cha có thể làm được mọi sự; xin Cha hãy cất chén này đi cho Con; nhưng cũng đừng chiều theo ý Con mà là ý Cha” (Mk 14:36). Sau đó ít lâu, khi lòng thù hằn của nhân loại được xổ lồng tấn công Người, Người đã nhắc cho Phêrô biết rằng giờ phút tối tăm là một phần làm nên dự án thần linh của Cha: “Con cho rằng Thày không thể xin cùng Cha Thày và Ngài lập tức sẽ sai đến cho Thày hơn mười hai đạo binh thiên thần hay sao? Mà nếu vậy thì Sách Thánh phải được xẩy ra để nên trọn như thế nào đây?” (Mt 26:53-54).
3- Khi bị chất vấn trước Hội Đồng Do Thái, cuộc đối thoại với vị thượng tế cũng được biến thành một cuộc mạc khải vinh quang thiên sai và thần linh liên quan đến Con Thiên Chúa: “Vị thượng tế nói với Người: ‘Nhân danh Thiên Chúa hằng sống Ta truyền cho ngươi phải nói cho chúng ta biết ngươi có phải là Kitô, Con Thiên Chúa hay chăng?’ Chúa Giêsu nói với ông: ‘Ông đã nói như thế. Nhưng Tôi nói cho ông hay, sau này ông sẽ thấy Con người ngự bên hữu Quyền Năng và đến trên mây trời’” (Mt 26:63-64).
Khi Người ở trên cây thập giá, những kẻ tham quan mỉa mai nhắc nhở Người về lời Người tuyên bố là “Hắn tin vào Thiên Chúa; giờ đây hãy để cho Thiên Chúa giải cứu hắn nếu Ngài muốn; vì hắn nói ‘Ta là Con Thiên Chúa’” (Mt 27:43). Thế nhưng, về phần Người, vào lúc ấy Chúa Cha lại im lặng, đến nỗi Người có thể tỏ ra cho thấy Người hoàn toàn liên kết với các tội nhân để cứu chuộc họ. Như Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dạy: “Chúa Giêsu không bị ruồng bỏ như thể vì chính Người đã phạm tội. Thế nhưng, bằng tình yêu cứu chuộc luôn hiệp nhất Người với Chúa Cha, Người đã mặc lấy chúng ta trong tình trạng chúng ta bị bại hoại theo tội lỗi” (số 603).
4- Trên thập giá, Chúa Giêsu thực sự vẫn tiếp tục cuộc đối thoại thân tình với Chúa Cha, sống cuộc đối thoại này bằng cả sức lực của một nhân tính bị tan nát và thương đau, không bao giờ mất đi thái độ tin tưởng của một Người Con, Đấng là “một” với Cha. Thế nhưng, Cha vẫn âm thầm một cách lạ lùng, một thái độ âm thầm còn được vây phủ bởi một màn tối tăm cả trời đất và bị xé ra bởi tiếng kêu: “Eli, Eli, lama sabachthani?’ tức là, ‘Chúa con ơi, Chúa con ơi, tại sao Ngài lại bỏ rơi con?’” (Mt 27:46).
Ngoài ra, Thánh Vịnh 22, được Chúa Giêsu trích lại ở đây, chấm dứt bằng một bản thánh ca chúc tụng Vị Chúa có thượng quyền trên thế giới và lịch sử; chiều kích này được trình thuật Thánh Luca đề cập đến, một trình thuật nói đến những lời cuối cùng của Chúa Giêsu hấp hối rõ ràng trích lại một lời của Thánh Vịnh, lời Thánh Vịnh được Chúa Giêsu thêm vào bằng lời kêu lên cùng Cha: “Lạy Cha, Con phó thần trí con trong tay Cha” (Lk 23:46; x Ps 31:6).
5- Chúa Thánh Thần cũng tham dự vào cuộc đối thoại liên tục giữa Cha và Con này. Chúng ta biết điều ấy nhờ Bức Thư gửi Do Thái, bức thư diễn tả việc hy hiến của Chúa Kitô một cách nào đó theo mô thức Ba Ngôi, ở chỗ “nhờ Thần Linh hằng sống (Người) đã tự hiến mình cho Thiên Chúa” (Heb 9:14). Trong cuộc khổ nạn của mình, Chúa Kitô hoàn toàn hướng cuộc sống nhân loại đau thương của mình theo tác động của Thánh Linh, Đấng đã ban cho Người sức lực cần thiết để làm cho cuộc tử nạn của Người thành một hy hiến trọn hảo dâng lên Chúa Cha.
Về phần mình, Phúc Âm thứ bốn liên kết chặt chẽ tặng ân của Đấng An Ủi với “việc ra đi” của Chúa Giêsu, tức là với cuộc khổ nạn và tử giá của Người, khi lập lại những lời của Đấng Cứu Thế: “Thế nhưng, Thày nói thật với các con: chính vì lợi ích của các con mà Thày ra đi, vì nếu Thày không ra đi thì Đấng Cố Vấn sẽ không đến với các con; song nếu Thày đi, Thày sẽ sai Ngài đến với các con” (Jn 16:7). Sau khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, thứ nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu qua của Người (x Jn 19:34) có thể được coi như là biểu hiệu cho tặng ân Thần Linh (x Jn 7:37-39). Bấy giờ Chúa Cha tôn vinh Con của Ngài, ban cho Người khả năng thông truyền Thần Linh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy chiêm ngắm Ba Ngôi, một Chúa Ba Ngôi cũng được tỏ hiện cả trong ngày đau thương và tăm tối, khi chúng ta đọc lại những lời lẽ “phát biểu” thiêng liêng của Thánh Têrêsa Benêđicta Thánh Giá (Edith Stein): “Không phải chỉ có một mình hoạt động nhân loại có thể hỗ trợ chúng ta mà là cuộc khổ nạn của Chúa Kitô: lòng tôi thực sự ước ao được tham dự vào cuộc khổ nạn này. Từ nay trở đi tôi chấp nhận cái chết Thiên Chúa định cho tôi, hoàn toàn hiệp nhất với thánh ý của Ngài. Ôi Chúa, xin hãy nhận lấy sự sống và sự chết của con để cầu cho Giáo Hội, cho vinh quang của Chúa và để chúc tụng Chúa. Chớ gì Chúa được tiếp nhận nơi dân Chúa và chớ gì nước Chúa trị đến nơi chúng con trong vinh quang” (Quyền Năng của Thập Giá).
(Tuần san L’Osseervatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 10/5/2000)
ĐÁM RƯỚC
Đám rước hôm đó có nhiều người tham dự, và tôi cũng là người có mặt trong đám đông hôm ấy. Tôi đã vui vẻ đi giữa mọi người và hô hoán một cách nồng nhiệt: “Vạn tuế đức vua, đấng nhân danh Chúa mà đến. Bình an và vinh quang trên các tầng trời” (Luc 19:38). Đó là một đám rước biểu dương ảnh hưởng và sự thu hút của quần chúng dành cho một người được coi là ngoại hạng, một đại tiên tri, miêu duệ vua Đavít, Đấng nhân danh Thiên Chúa. Người đó là Giêsu Nazareth, Đấng Cứu Thế của nhân loại.
Đám rước này cũng nhắc lại cho tôi một đám rước tương tự mà tôi đã tham dự sau đó ít ngày. Đám rước lần này không tiến vào Giêrusalem với những cành thiên tuế và lời tung hô, vạn tuế, nhưng khởi đầu từ dinh Philatô dẫn đến đồi Golgotha. Đám rước được trang bị bằng gậy gộc, giáo mác, bằng những tiếng chửi bới, quát tháo xen lẫn tiếng khóc thương và cười nhạo.
Nếu bạn hỏi tôi về cảm tưởng hai đám rước ấy, tôi thật sự thấy lúng túng và rất khó trả lời. Cho đến nay, nhiều khi tôi vẫn chưa phân biệt được cảm tưởng của mình. Dĩ chí, vai trò của tôi khi tham dự những đám rước ấy. Và nếu bạn hỏi tôi cái gì làm cho tôi phải phân vân, do dự, thì câu trả lời chính là con người đó: Giêsu Nazareth. Chính Ngài đã làm tôi phải phân vân, do dự. Lúc thì ngồi trên lưng lừa, oai phong, lẫm liệt. Không những thế, khi vào đền thờ, Ngài còn rút giây lưng ra xua đuổi bọn con buôn, xô đổ bàn ghế chúng mà không ai dám phản đối nửa lời. Nhưng rồi, cũng con ngươi ấy lại ngậm miệng làm thinh đi trong những tiếng chửi rủa, vai vác thập giá, mình đầy vết thương đau đớn. Hơn thế, còn phải chịu đóng đinh trên thập tự giá. Con người ấy thật khó hiểu. Hành động của Ngài làm cho tôi thấy nhiều lúc không hiểu nổi.
Đúng thế, ai còn lại gì Giêsu Nazareth. Và ai còn lạ gì những giáo huấn và lời giảng dậy của Ngài. Ngay những kẻ theo Ngài cũng đã cảm thấy khó chịu: “Lời gì chói tai thế. Ai tin cho được” (Gio 6:60). Và trước sự rút lui của nhiều người, Ngài đã phải lên tiếng với nhóm còn lại: “Phần anh em có định bỏ thầy không?” (Gio 6:67).
Như phần đông những người tham dự hai đám rước hôm đó, tôi cũng để mình bị cuốn hút bởi sức mạnh và ảnh hưởng quần chúng. Những lời hoan hô hay đả đảo, những nụ cười rạng rỡ hay những cánh tay giơ cao biểu lộ sự căm phẫn, những cảm tình nồng nhiệt hay những bực tức khó chịu...Tất cả đều dựa theo quần chúng. Nhiều lúc tôi cũng chẳng biết mình hoan hô và đả đảo ai. Cũng chẳng biết tại sao tôi lại hoan hô hay đả đảo. Hoặc tại sao tôi lại hãnh diện, sung sướng theo Ngài hay bực tức, khó chịu và xấu hổ đi theo Ngài. Có thể nói thái độ của tôi và cảm tình của tôi dành cho Ngài là những thái độ và cảm tình bất nhất dựa theo quần chúng. Quần chúng hoan hô, tôi hoan hô. Quần chúng đả đảo, tôi đả đảo. Quần chúng cười, tôi cười theo. Quần chúng khóc, tôi khóc theo. Quần chúng giận dữ, tôi giận dữ theo. Nói một cách khác, tôi không hiểu Ngài, không thực sự biết Ngài, và không mến Ngài. Chính vì thế, khi Ngài vào Giêrusalem hay vác thập giá lên Golgotha phản ứng của tôi cũng bình thường như phản ứng của đám đông những người tham dự.
Nhưng hôm nay, tôi dứt khoát phải có một thái độ khác khi suy về biến cố Chúa Giêsu vào Giêrusalem cũng như ít ngày sau Ngài tiến lên đồi Golgotha. Tôi muốn tự hỏi mình rằng Chúa Giêsu có thực ở trong tâm trí tôi, trong lòng tôi, và trong hành động của tôi không? Ngài vào thành thánh, Ngài lên núi Sọ, và Ngài phục sinh cho tôi hay cho ai? Và tôi đã đón nhận những biến cố này như thế nào trong đời sống Kitô hữu của mình.
Trong đám rước vào Giêrusalem phần đông người ta cầm ngành thiên tuế, nhưng chỉ có ít người trải áo mình trên lưng lừa cho Chúa cỡi hoặc trải trên đường cho Chúa đi qua. Đó cũng là lý do tại sao nhiều người thích theo Ngài trong những lúc vinh quang, thành công, dễ dàng và được may mắn, nhưng lại xa Ngài khi gặp chống đối, bắt bớ, đau thương và thử thách. Vì hành động cởi áo mình và sẵn sàng để mất đi chiếc áo vì Chúa ám chỉ thái độ thực tình, hy sinh và biết rõ Ngài là ai. Còn hành động cằm một cành lá rồi sau đó vất bỏ chính là một thái độ hời hợt và thờ ơ bên ngoài.
Cũng trong đám rước hôm đó, Chúa Giêsu chọn ngồi trên lưng một con lừa con mà không chọn ngồi trên một con ngựa. Đấy cũng là thái độ của Ngài muốn nói với tôi về ý nghĩa của cuộc đời theo Ngài. Con ngựa, người ngồi trên lưng ngựa trong bối cảnh ấy hiển nhiên mang hình ảnh một kẻ chiến thắng, một người thống trị, hay một kẻ có quyền. Chúa Giêsu, Con Vua Đavít, Đấng nhân danh Thiên Chúa dĩ nhiên có đủ quyền hành và tư cách ngồi trên lưng một con chiến mã để tiến vào Giêrusalem. Nhưng Ngài đã không hành động như thế. Ngài đã chọn ngồi trên lưng một con lừa con. Điều này đã nói lên tấm lòng của Ngài hết sức nhân từ, hiền lành, và khiêm nhượng. Ngài không muốn tôi có cảm tưởng rằng mình đang theo phò một lãnh Chúa, một đại đế đầy quyền uy. Nhưng Ngài chỉ muốn tôi biết rằng theo Ngài là phải khiêm tốn, hiền lành, đơn sơ và trong sạch.
Đám rước hôm nay và đám rước sau đó ít hôm không phải là đám rước mà tôi tham dự để hoan hô hay đả đảo một người. Nhưng đó phải là đám rước của suốt hành trình đức tin của tôi. Chúa Giêsu phải là Đấng ngự trị trong tâm trí, trong trái tim, và trong cuộc sống của tôi dù Ngài là một Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào thành thánh hay một Chúa Giêsu nhục nhã, vai vác thập giá đi lên núi Sọ.
Trần Mỹ Duyệt
Kẻ nào có thể giết được Con Thiên Chúa?
Ai Là Thủ Phạm?
Biến Cố Khổ Nạn và Phụng Vụ
Theo Phụng Niên, nếu kể từ Thứ Tư Lễ Tro, ngày mở màn cho Mùa Chay, thì hôm nay là đúng 40 ngày của Mùa Chay, ngày kết thúc Mùa Chay, cũng là Ngày mở đầu Tuần Thánh, một thời điểm quan trọng nhất của cả một Năm Phụng Vụ, vì là thời điểm Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, tức cử hành Biến Cố Tử Nạn và Phục Sinh của Người.
Nếu Dân Do Thái cử hành biến cố Vượt Qua của họ hằng năm long trọng thế nào thì Kitô hữu chúng ta cũng tưởng niệm Biến Cố Vượt Qua của Chúa Kitô vào mỗi Ngày Chúa Nhật trọng thể như vậy và hơn vậy, đến nỗi, Chúa Nhật là Ngày Lễ Buộc liên quan đến phần rỗi đời đời của Kitô hữu. Vì Biến Cố Vượt Qua trong Cựu Ước liên quan đến cuộc giải phóng Dân Do Thái khỏi cảnh nô lệ của họ thế nào, thì Biến Cố Vượt Qua của Chúa Kitô cũng liên quan đến cuộc giải phóng linh hồn của loài người nói chung và của thành phần Kitô hữu nói riêng khỏi tội lỗi và sự chết như vậy. Đó là lý do, theo thứ tự thời gian, tuy chưa tới thời điểm kỷ niệm Biến Cố Tử Nạn là biến cố được Giáo Hội cử hành vào Thứ Sáu trong Tuần Thánh, nhưng vì Biến Cố Tử Nạn là một biến cố vô cùng trọng đại, một biến cố chính thức mở màn cho Cuộc Vượt Qua và là một Cuộc Vượt Qua được kết thúc ở việc Chúa Kitô Phục Sinh vào Ngày Thứ Nhất trong tuần, nên Giáo Hội luôn cử hành Biến Cố Tử Nạn vào Ngày Chúa Nhật, bởi thế, Chúa Nhật Lễ Lá cũng chính là và còn được gọi là Chúa Nhật Thương Khó.
Nói về Biến Cố Tử Nạn của Chúa Kitô, chúng ta có rất nhiều điều phải suy tư, chẳng hạn, tại sao dân Do Thái vừa hoan hô nghênh đón Chúa Kitô Con Vua Đavít vào đền thánh Giêrusalem, một biến cố chúng ta cũng cử hành trong Ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, ở phần đầu lễ, sau đó lại quay ra đả đảo Người và gào thét đòi đóng đanh Người cho bằng được, một biến cố chúng ta cũng đồng thời nghe thuật lại trong Thánh Lễ Chúa Nhật Thương Khó hôm nay, cũng như vào chính Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh? Dân Do Thái rất tỉnh táo và cố tình giết Đấng đã tự nhận mình là Con Thiên Chúa trước Hội Đồng Do Thái như thế nhưng tại sao Con Thiên Chúa làm người lại cho rằng họ lầm không biết việc họ làm? Đây là một thảm kịch lịch sử, một vụ án cứu độ liên quan đến cả dân Do Thái lẫn Dân Ngoại nói chung và liên quan đặc biệt đến vấn đề ai thực sự là chính đao thủ phủ giết chết Con Thiên Chúa!
Vẫn biết trong Vụ Án Giêsu, Con Thiên Chúa làm người bị quyền bính loài người, cả giáo quyền là Hội Đồng Do Thái lẫn chính quyền là Nhà Cầm Quyền Đế Quốc Rôma lên án và xử tử Người một cách hết sức oan ức và bất công. Thế nhưng, dù có quyền minh án cho mình và có khả năng thoát thân như những lần khác, Chúa Kitô vẫn không làm, vẫn không tự mình xuống khỏi thập giá như lời thách thức của thành phần đầu não và dân chúng Do Thái, vì đã đến giờ của Người, giờ Cha Người làm cho Người được vinh hiển, cũng là giờ nhờ đó Người làm cho Cha được hiển vinh, như Người đã minh định điều này trong Lời Nguyện cuối Bữa Tiệc Ly ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 17 câu 1.
Biến Cố Khổ Nạn và Nạn Nhân
Đúng thế, nếu Chúa Kitô là tất cả mạc khải của Thiên Chúa, thì cuộc khổ nạn và tử giá của Người là tột đỉnh của mạc khải này, vì tất cả những gì Người tỏ ra cho dân Do Thái cũng như môn đệ của Người biết khi Người còn sống giữa họ và ở với họ, được kết thúc nơi Vụ Án Giêsu, một vụ án Người đã tỏ hết thân phận của Người ra, một thân phận dân Do Thái rất muốn biết và là một thân phận liên quan đến phần rỗi của cả dân ngoại, tức đến chung loài người nữa. Thân phận đó là gì, nếu không phải, theo tôi, đó là tất cả sự thật về Người, một sự thật như Người đã tuyên bố với tổng trấn Philatô trong Phúc Âm Thánh Gioan là Người sinh ra và đến thế gian để làm chứng, làm chứng ở chỗ Người tỏ hết thân phận đích thực của Người ra: Người thực sự là ai hay Người từ đâu đến? Thân phận của nhân vật Giêsu Nazarét thực sự là một mầu nhiệm chẳng những đối với dân Do Thái nói chung mà cả với thành phần môn đệ thân cận với Người nữa, chưa hết, thân phận của Người chẳng những mầu nhiệm đối với thành phần đương thời của Người bấy giờ 2001 năm trước đây, mà còn với tất cả con người thời nay nói chung và Kitô hữu nói riêng nữa, như trong Tuyên Ngôn “Chúa Giêsu” của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin ban hành ngày 5/9/2000 đã chứng thực điều này.
Có một lần dân Do Thái cũng hết sức sốt ruột trách cứ Chúa Giêsu trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 10 câu 24 và 25: “’Ông còn để chúng tôi mập mờ tới bao giờ? Nếu ông thực sự là Đức Kitô thì hãy nói thẳng ra đi?’. Chúa Giêsu trả lời: ‘Tôi đã nói với quí vị rồi mà quí vị không tin. Những việc Tôi nhân danh Cha Tôi mà làm đều chứng tỏ về Tôi, song quí vị không chịu tin…’”. Thậm chí Chúa Giêsu còn cảnh giác họ, cũng trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 8 câu 21 thế này: “Tôi sẽ ra đi. Quí vị sẽ tìm Tôi song quí vị sẽ chết trong tội của mình. Nơi Tôi đi quí vị không thể nào đến được”.
Lời cảnh giác và tiên báo này quả thực đã hoàn toàn ứng nghiệm khi Chúa Giêsu ra đi ở chỗ để cho Hội Đồng Do Thái bắt và tra vấn thân phận của Người, như Phúc Âm Thánh Luca hôm nay thuật lại: “Ngươi hãy nói cho chúng tôi biết ngươi có phải là Đấng Thiên Sai không?” Và họ đã thực sự chết trong tội của họ chính ngay lúc họ tìm kiếm Người, đúng hơn ngay lúc họ được thấy sự thật, vì sau khi nghe Người xác nhận thân phận thật sự về Người, thì, cũng theo Phúc Âm Luca thuật lại, “bấy giờ toàn thể công hội vùng lên dẫn Người đến với Philatô”.
Vậy thân phận của nhân vật Giêsu Nazarét đây là ai, nếu không phải, Người là Con Thiên Chúa và là một Vị Quân Vương. Người đã tỏ mình là Con Thiên Chúa cho giáo quyền Do Thái và là một Vị Quân Vương cho chính quyền Rôma. Chúng ta nên để ý là, không bao giờ Chúa Kitô trực tiếp tự xưng mình là Con Thiên Chúa hay là Vua, mà Người chỉ công nhận lời người khác nói về Người như thế mà thôi, như Người đã công nhận lời của Hội Đồng Do Thái hỏi Người có phải là Con Thiên Chúa không, hay thừa nhận lời của Philatô hỏi Người có phải là vua không! Bởi vì, nếu Người tự động tuyên bố mình như thế, như xưng mình Ta là Con Thiên Chúa, sẽ đụng đến niềm tin Độc Thần của dân Do Thái, hay xưng mình Ta là Vua sẽ đụng đến Vua Cêsa của chính quyền đế quốc Rôma.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà Người không biết mình là ai và từ đâu đến. Theo các Phúc Âm thuật lại, thì Người chẳng những biết mình là ai, từ đâu đến, mà còn dám làm chứng minh Người là Con Thiên Chúa, là Vua nữa, chẳng những bằng lời nói khôn ngoan xuất chúng, bằng quyền năng chữa trị và trừ quỉ của mình trong ba năm xuất thân độ thế, mà còn bằng việc làm, như Thánh Phaolô tuyên nhận trong thư gửi giáo đoàn Philiphê đoạn 2 câu 8 và 9: “Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá, bởi thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu… Giêsu Kitô là Chúa!”. Nghĩa là, chính việc Người tỏ ra hoàn toàn và tuyệt đối vâng lời Đấng đã sai Người mà Người đã chứng tỏ Người thực sự là Con Thiên Chúa, mà một khi Người đã thực sự là Con Thiên Chúa thì Người cũng chính là Vua muôn dân, muôn nước, muôn loài vậy.
Thật thế, là một vương đế, Người đã hiển ngự trên ngai tòa Thập Giá của Người, như tấm bảng Philatô viết gắn trên đầu thập giá của Người được Phúc Âm hôm nay ghi nhận: “Người này là Vua Dân Do Thái”. Và chính lúc ở trên ngai tòa này, Người đã được thần dân nhận biết, đám thần dân thuộc cả thành phần Do Thái, tiêu biểu là người trộm bị đóng đanh bên phải của Người, lẫn thành phần dân ngoại, điển hình là viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma. Đó là lý do, sau khi sống lại từ trong kẻ chết, Chúa Giêsu Phục Sinh đã tuyên bố với các tông đồ trong Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 28 câu 18: “Thày được toàn quyền trên trời dưới đất”: quyền trên trời là quyền của một Người Con Thiên Chúa và quyền dưới đất là quyền một Quân Vương.
Qua bài Phúc Âm Thương Khó cho Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh, chúng ta ý thức được những gì cần phải sống đạo như sau: Thứ nhất, Thiên Chúa có thể lợi dụng tất cả mọi sự, kể cả sự dữ và nhất là sự dữ, như Vụ Án Giêsu vô cùng oan nghiệt, để tỏ mình ra; thứ hai, có những lúc được Thiên Chúa tỏ mình ra cho, mà bởi tư kiến (như trường hợp của Hội Đồng Do Thái) và tư lợi (như trường hợp của Philatô), chúng ta đã không nhận ra Ngài; thứ ba, có những việc chúng ta nhân danh Chúa mà làm, điển hình là Hội Đồng Do Thái nhân danh Thiên Chúa chất vấn Chúa Kitô, mà lại đi giết Con Thiên Chúa, như lúc chúng ta không tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý, mà chỉ theo thiên kiến của mình; thứ bốn, có những lúc chúng ta đi tìm chân lý, điển hình là cả Hội Đồng Do Thái lẫn quan tổng trấn Philatô đều muốn biết chân lý là gì, song lại ra tay sát hại chân lý là Chúa Kitô, như trường hợp chúng ta biết rõ điều tốt mà không làm hay biết rõ điều xấu mà cứ làm; thứ năm, dấu hiệu chúng ta để có thể nhận ra ai thực sự từ Thiên Chúa mà đến, nhất là vào những thời buổi (có thể là lúc này đây) được cảnh giác có nhiều tiên tri giả và kitô giả xuất hiện, không phải ở việc họ nói tiếng lạ hay chữa lành, mà là ở việc họ có biết hoàn toàn tuân phục và chịu nhục cho đến cùng như một Giêsu khổ nạn và tử giá chăng?
Biến Cố Khổ Nạn và Thủ Phạm
Bắt đầu vào Mùa Chay 2004, tức vào Ngày Thứ Tư Lễ Tro 25/2/2004, ở Hoa Kỳ, người ta đã đông đảo rủ nhau đi xem cuốn phim Cuộc Khổ Nạn Của Chúa Kitô (Passion) do nhà biên soạn kiêm đạo diễn Mel Gibson dốc hết tiền bạc và tâm hồn để thực hiện, một cuốn phim ăn khách nhất và hốt bạc nhất trong Mùa Chay này, với số vốn là 25 triệu đã thu vào 125 triệu trong 5 ngày đầu tiên, nhất là đã làm cho nhiều người (nhất là nữ giới) không cầm được nước mắt. Hầu như phản ứng chung chung sau khi xem phim này đều cho rằng “violent” quá! Dữ tợn quá! Tàn ác quá! Thậm chí làm cho người Do Thái cảm thấy guilty, có tội, và đã lên tiếng phản đối cuốn phim mang tích cách tuyên truyền nạn bài Do Thái vốn đã có từ trước đến nay. Tuy nhiên, có người lại đặt vấn đề ai là người phải chịu trách nhiệm về cái chết của Con Thiên Chúa làm người này?
Trước hết, về vấn đề “violent” quá. Tôi thấy rằng đó mới chỉ là một phần trăm của những gì khủng khiếp nhất, rùng rợn nhất, của những gì thật sự đã xẩy ra cho Chúa Kitô, những gì mà chỉ có một Vị Thiên Chúa làm người vô cùng toàn năng và toàn hảo mới có thể chịu đựng và trải qua mà thôi. Bởi vì, đối với Vị Thiên Chúa Làm Người này, về bản tính nhân loại, cái kinh hoàng nhất và khủng khiếp nhất của Người trong cuộc khổ nạn này, cái mà cuốn phim Passion không thể nào lột tả nổi, không một ai cảm thấu đủ, kể cả Đức Maria Mẹ Người, đó là cái buồn sầu đến nỗi chết được, đến đổ mồ hôi máu trong Vườn Cầu Nguyện đêm hôm Thứ Năm Tuần Thánh, một nỗi buồn đã lên đến tột độ qua tiếng than vô cùng não nuột trên thập tự giá: “Sao Cha lại nỡ bỏ rơi Con”. Sở dĩ Người buồn đến nỗi chết được, đến nỗi cảm thấy mình bị bỏ rơi, là vì Người phải chịu khổ nạn vô cùng đớn đau và nhục nhã như thế song vẫn không cứu được tất cả mọi linh hồn, trái lại, cuộc khổ nạn của Người còn trở nên hình phạt cho một số linh hồn bất hạnh nữa.
Vả lại, việc Người chịu khổ nạn cả hồn lẫn xác một cách phi thường như thế không phải là bị bắt buộc mà là hoàn toàn tình nguyện, như Người đã tuyên bố trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 10 câu 17-18: “Không ai lấy được mạng sống của Tôi. Tôi tự mình bỏ nó đi và có quyền lấy nó lại”. Bởi thế, nếu Người không cho phép, không tự nộp mình, như Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy khi Người xưng mình “Ta đây” (18:5-12), một chi tiết hết sức quan trọng đã bị cuốn phim Passion bỏ qua, thì chẳng có quyền lực trần gian nào, dù là Hội Đồng Do Thái hay đế quyền Rôma có thể làm gì được Người. Vậy, có thể kết luận rằng, không có đao thủ phủ nào trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu ngoài chính Con Thiên Chúa đã “tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý” (Jn 17:19), tức để môn đệ của Người nói riêng, cũng như để dân Do Thái cũng như Dân Ngoại (được tiêu biểu qua viên đại đội trưởng Rôma) nói chung, nhận biết Người là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái, và là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần của nhân loại.
Trên thực tế quả thực đế quyền Rôma sở dĩ hạ lệnh giết Người là vì bị áp lực của dân Do Thái. Và dân Do Thái sở dĩ muốn giết Người là vì họ cho rằng Người chỉ là một con người thuần túy như họ, một nhân vật vô danh tiểu tốt mang danh Giêsu ở Nazarét, thế mà dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, dám phạm đến lề luật thánh và đến đền thờ của họ, một con người lộng ngôn phạm thượng phá đạo như thế thật đáng chết ngàn lần, cần phải nhân danh Thiên Chúa mà tiêu diệt đi. Nếu họ thực sự tin rằng nhân vật Giêsu Nazarét là Con Thiên Chúa, như Trinh Nữ Maria Mẹ Người, thì đời nào họ dám giết Người (x 1Cor 2:8). Các môn đệ thân tín nhất của Người, thành phần được Người tuyển chọn và tỏ mình riêng cho, thế mà cuối cùng còn chối Người, còn phản bội Người, còn bỏ Người tẩu tán, thì thử hỏi dân Do Thái nói chung và đặc biệt là thành phần lãnh đạo của họ làm sao có thể chấp nhận được một Người Con Thiên Chúa vô cùng bất lực không thể xuống khỏi thập giá như thế! Vậy, xét về chính trị và thể lý thì dân Do Thái và đế quyền Rôma chính là thủ phạm đã giết chết một nhân vật tên Giêsu ở Nazarét chứ không phải hạ sát Con Thiên Chúa. Đó là lý do Người đã xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm.
Tuy nhiên, dầu sao cũng thể phủ nhận được về phương diện luân lý, nguyên nhân chính làm cho Con Thiên Chúa phải chết như thế đó là vì tội lỗi của con người nói chung. Bởi thế, theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, người Do Thái nói chung không phải là kẻ sát hại Chúa Giêsu (số 597), chính các tội nhân hay nói đúng hơn toàn thể loài người sa phạm, ngoại trừ một mình Đấng Đầy Ơn Phúc Vô Nhiễm Tội, mới là thành phần đã nhúng tay vào cái chết của Người (số 598): “Tội nhân là thủ phạm và là tác nhân gây ra tất cả mọi khổ đau Đấng Cứu Chuộc thần linh phải chịu”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL