GIÁO HỘI HIỆN THẾ
Tháng 4/2004
Ý Chỉ Ðức Thánh Cha
Ý Chung: “Xin cho việc sửa soạn đầy đủ để giúp những ứng viên chịu chức thánh cũng như cho việc huấn luyện thường xuyên để giúp các vị thừa tác viên chức thánh được thực hiện một cách cận thận kỹ lưỡng”.
Ý Truyền Giáo: “Xin cho tinh thần truyền giáo 'cho muôn dân' trở thành vấn đề ưu tư và là vấn đề liên lỉ dấn thân nơi sinh hoạt mục vụ thường xuyên của cộng đồng Kitô giáo”.
___________________________________________
NGÀY 8 THỨ NĂM TUẦN THÁNH |
“Chúng ta được hạ sinh từ Thánh Thể… Thiên Chức Linh Mục cũng là một mầu nhiệm đức tin”
ĐTC GPII gửi Thư Thứ Năm Tuần Thánh
2004 Cho Hàng Linh Mục
Các Linh Mục thân mến!
1. Thật là vui mừng và cảm mến khi viết Bức Thư Thứ Năm
Tuần Này này cho anh em, theo truyền thống được bắt đầu từ Lễ Phục Sinh đầu tiên
của Tôi với tư cách là Giám Mục Rôma 25 năm trước đây. Cuộc hội ngộ hằng năm của
chúng ta qua Bức Thư này là một cuộc hội ngộ đặc biệt huynh đệ, nhờ việc chúng
ta chia sẻ chung về Thiên Chức Linh Mục của Chúa Kitô, và việc chia sẻ này diễn
ra vào khung cảnh phụng vụ của một ngày thánh được đánh dấu bằng hai việc cử
hành quan trọng, đó là Lễ Truyền Dầu ban sáng và Lễ Tiệc Ly ban chiều.
Tôi nghĩ đến anh em nhất là khi anh em tụ họp lại ở vương cung thánh đường thuộc
các Giáo Phận khác nhau của anh em bên những Vị Bản Quyền đương nhiệm của anh em
để lập lại những lới hứa linh mục của anh em. Lễ nghi sống động này xẩy ra sau
việc thánh hiến các thứ Dầu Thánh, nhất là Dầu Thơm Olive, và là lễ nghi rất
xứng hợp với Lễ Truyền Dầu, một Lễ cho thấy hình ảnh Giáo Hội là một dân tư tế
được thánh hóa nhờ các phép bí tích và được sai đi khắp thế giới như hương thơm
của Đức Kitô Cứu Thế (2Cor 2:14-16).
Vào lúc trời tối, Tôi thấy anh em tiến vào Căn Thượng Lầu để bắt đầu Tam Nhật
Thánh. Chính ở “căn lầu rộng” (Lk 22:12) ấy Chúa Giêsu đã kêu mời chúng ta hãy
trở lại vào mỗi Ngày Thứ Năm Tuần Thánh, và cũng chính ở nơi đó , hơn bất cứ ở
đâu khác, Tôi hết sức vui mừng được gặp gỡ anh em thân yêu của Tôi trong thiên
chức linh mục. Ở tại Bữa Tiệc Ly, chúng ta đã được sinh ra là những linh mục: vì
thế chúng ta vừa hoan hỉ vừa phải qui tụ lại với nhau một lần nữa ở Căn Thượng
Lầu này, để nhắc nhở nhau, bằng lòng thành thực tri ân, sứ vụ cao quí của chúng
ta.
2. Chúng ta đã được hạ sinh từ Thánh Thể. Nếu chúng ta
thực sự nói rằng toàn thể Giáo Hội sống bởi Thánh Thể (“Ecclesia de Eucharistia
vivit”), như Tôi đã tái xác nhận trong Thông Điệp mới đây, chúng ta có thể nói
tương tự như thế về thiên chức linh mục thừa tác: một thiên chức linh mục thừa
tác được hạ sinh, sống động và sinh hoa kết trái từ Thánh Thể “de Eucharistia”
(cf. Council of Trent, Sess. XXII, canon 2: DS 1752). “Không thể nào có Thánh
Thể nếu không có chức linh mục, cũng như không thể nào có chức linh mục nếu
không có Thánh Thể” (cf. "Gift and Mystery. On the Fiftieth Anniversary of My
Priestly Ordination," New York, 1996, pp. 77-78).
Thừa tác vụ thánh, một thừa tác vụ không bao giờ được biến thành một chiều kích
thuần hành sự, vì nó thuộc về cấp độ “bản chất”, làm cho vị linh mục có thể tác
hành thay cho Chúa Kitô “in persona Christi” mà giây phút tột đỉnh xẩy ra là lúc
vị linh mục thánh hiến bánh và rượu, lập lại những cử chỉ và lời nói của Chúa
Giêsu trong Bữa Tiệc Ly.
Trước thực tại phi thường này, chúng ta cảm thấy ngỡ ngàng và chất ngất trước sự
khiêm hạ thật thẳm sâu của một Vị Thiên Chúa “cúi xuống” để liên kết bản thân
mình với con người! Nếu chúng ta bị cảm kích trước máng cỏ Sinh Nhật, khi chúng
ta chiêm ngưỡng Lời Nhập Thể, thì chúng ta phải cảm thấy ra sao trước bàn thờ là
nơi, nhờ bàn tay tầm thường của vị linh mục, Chúa Kitô hiện thực hóa Hiến Tế của
Người trong thời gian? Chúng ta chỉ còn biết quì xuống mà âm thầm tôn thờ mầu
nhiệm đức tin siêu việt này mà thôi.
3. Mầu nhiệm đức tin “mysterium fidei”, vị linh mục công
bố lời này sau khi truyền phép. Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin, tuy nhiên,
chính thiên chức linh mục, nhờ phản ảnh Thánh Thể, cũng là một mầu nhiệm đức tin
nữa (x. ibid, p. 78). Cũng là một mầu nhiệm thánh hóa và yêu thương, việc làm
của Chúa Thánh Thần, một việc biến bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Chúa
Kitô, tác hành nơi con người của vị thừa tác viên vào lúc chịu chức linh mục. Có
một tương giao đặc biệt giữa Thánh Thể và chức linh mục, một tương giao bắt
nguồn từ Căn Thượng Lầu, ở chỗ, hai Bí Tích này được hạ sinh cùng một lúc và
định mệnh của cả hai được gắn liền với nhau bất khả phân ly cho đến tận thế.
Đến đây chúng ta chạm đến những gì được gọi là “tính cách tông đồ của Thánh Thể”
(x Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia, 26-33). Bí tích Thánh Thể, như bí tích
Hòa Giải, được Chúa Kitô trao phó cho các Thánh Tông Đồ và đã được các vị cùng
với những ai thừa kế các vị truyền lại cho mọi thế hệ. Vào lúc mở màn cho cuộc
sống công khai của mình, Đấng Thiên Sai đã kêu gọi 12 Vị, chỉ định các vị “ở với
Người” và sai các vị đi truyền giáo (x Mk 3:14-15). Ở Bữa Tiệc Ly, việc các Tông
Đồ “ở với” Chúa Giêsu đã lên đến tuyệt đỉnh. Bằng việc cử hành bữa Vượt Qua và
thiết lập Thánh Thể, vị Tôn Sư thần linh làm cho ơn gọi của họ nên trọn. Khi nói
rằng “các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày”, là Người đóng ấn tín lên sứ vụ
của các vị, và bằng việc liên kết các vị với chính bản thân Người trong mối hiệp
thông về bí tích, Người truyền cho các vị phải kéo dài tác động rất thánh này để
nhớ đến Người.
Khi công bố những lời “Các con hãy làm điều này…”, Chúa Giêsu nghĩ đến những
người thừa kế của các Tông Đồ, đến những ai sẽ tiếp tục sứ vụ các ngài bằng việc
phân phát lương thực sự sống cho đến tận cùng trái đất. Bởi thế, chư huynh linh
mục thân mến, một cách nào đó, ở Căn Thượng Lầu, chúng ta cũng được kêu gọi một
cách riêng tư, mỗi một người trong chúng ta, “bằng một tình yêu thương huynh đệ”
(Lời Nguyện Mở Đầu Lễ Truyền Dầu), để lãnh nhận từ đôi thay thánh hảo của Chúa
Bánh Thánh Thể và bẻ Bánh này ra để làm lương thực ban phát cho Dân Chúa trên lộ
trình họ tiến qua thời gian về quê hương thiên đình vĩnh cửu.
4. Thánh Thể, như thiên chức linh mục, là tặng ân của
Thiên Chúa “hoàn toàn vượt trên quyền năng của cộng đồng” và cộng đồng “lãnh
nhận qua việc thừa kế của hàng giáo phẩm được truyền từ các Thánh Tông Đồ” (Thông
Điệp Ecclesia de Eucharistia, 29). Công Đồng Chung Vaticanô II dạy rằng “vị linh
mục thừa tác, bằng linh quyền có được… thay cho Chúa Kitô làm hiệu nghiệm hóa Hy
Tế Thánh Thể và nhân danh toàn thể dân chúng hiến dâng Thánh Thể lên Thiên Chúa”
Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 10). Cộng đồng tín hữu, hiệp nhất trong đức tin
cũng như trong Thần Linh và là cộng đồng được trang bị bằng nhiều tặng ân khác
nhau, cho dù có là nơi Chúa Kitô “hiện diện nơi Giáo Hội của Người, nhất là nơi
những việc cử hành phụng vụ của Giáo Hội” (Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, 7), tự mình
vẫn không thể cử hành Thánh Thể hay cung cấp thành phần thừa tác thánh chức.
Bởi thế, thật là chính đáng khi dân Kitô giáo dâng lời cảm tạ Thiên Chúa về tặng
ân Thánh Thể và tặng ân linh mục, đồng thời cũng không ngừng cầu nguyện để Giáo
Hội không bao giờ bị thiếu hụt linh mục. Con số linh mục không bao giờ đủ đáp
ứng các nhu cầu truyền bá phúc âm hóa không ngừng tăng phát cũng như nhu cầu
chăm sóc mục vụ cho tín hữu. Ở một số nơi trên thế giới tình trạng thiếu hụt
linh mục là tất cả những gì khẩn trương, vì ngày nay con số linh mục đang bị
giảm sút không đủ thay thế bởi thế hệ trẻ. Ở những nơi khác, cám ơn Chúa, chúng
ta thấy một mùa xuân hứa hẹn ơn gọi. Dân Chúa cũng càng ngày càng ý thức được
nhu cầu cần phải cầu nguyện và tích cực hoạt động để cổ võ ơn gọi linh mục và
đời tận hiến.
5. Ơn gọi thật sự là một tặng ân của Thiên Chúa mà chúng
ta cần phải liên lỉ nguyện cầu. Theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, chúng ta cần
cầu cùng Chủ mùa hay sai thợ đến làm mùa của Ngài (x Mt 9:37). Việc cầu nguyện
được hỗ trợ bằng cách âm thầm hiến dâng các nỗi khổ đau, vẫn là cách thức trước
hết và hiệu nghiệm nhất của hoạt động mục vụ cổ võ ơn gọi. Cầu nguyện nghĩa là
gắn mắt nhìn lên Chúa Kitô, tin tưởng rằng từ Người, Vị Thượng Tế duy nhất, cũng
như từ hiến tế thần linh của Người, sẽ phát xuất, qua công cuộc của Chúa Thánh
Thần, muôn vàn hạt giống ơn gọi cần thiết cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội ở
mọi thời đại.
Chúng ta hãy dừng lại ở Căn Thượng Lầu để chiêm ngưỡng Đấng Cứu Chuộc, Đấng đã
thiết lập Bị Tích Thánh Thể và thiên chức linh mục trong Bữa Tiệc Ly. Trong đêm
thánh ấy, Người đã gọi tên của mỗi và mọi vị linh mục xuất hiện trong thời gian.
Người đã nhìn đến mỗi một người trong họ bằng cùng một ánh mắt đầy ưu ái phấn
khởi Người đã nhìn Simon và Anrê, nhìn Giacôbê và Gioan, nhìn Nathanael ở dưới
cây vả, và nhìn Mathêu đang ngồi ở bàn thâu thuế. Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta,
và, bằng các đường lối khác nhau, Người tiếp tục mời gọi nhiều người khác nữa
làm thừa tác viên cho Người.
Từ Căn Thượng Lầu này, Chúa Kitô không ngừng tìm kiếm và mời gọi. Ở đây chúng ta
thấy được nguồn gốc và nguồn mạch nguyên thủy của việc mục vụ thực sự cổ võ ơn
gọi linh mục. Anh em thân mến, chúng ta hãy coi mình là những người đầu tiên
lãnh trách nhiệm ở lãnh vực này, sẵn sàng giúp cho tất cả những ai Chúa Kitô
muốn kêu gọi đến với thiên chức linh mục của Người biết đáp ứng một cách quảng
đại lời Người mời gọi.
Tuy nhiên, trước hết, hơn bất cứ nỗ lực nào khác hoạt động cho ơn gọi, không thể
nào thiếu được lòng trung thành của chúng ta. Vấn đề cần ở đây là việc chúng ta
dấn thân theo Chúa Kitô, là lòng chúng ta yêu mến Thánh Thể, là việc chúng ta
sốt sắng cử hành Thánh Thể, là việc chúng ta sùng bái tôn thờ Thánh Thể, và là
lòng nhiệt thành của chúng ta trong việc trao ban Thánh Thể cho anh chị em của
chúng ta, nhất là cho thành phần bệnh nhân. Chúc Giêsu Thượng Tế tiếp tục mời
gọi những người thợ mới đến làm vườn nho cho Người, thế nhưng trước hết Người
muốn tùy thuộc vào sự hợp tác chủ động của chúng ta. Các vị linh mục mến yêu
Thánh Thể có khả năng truyền đạt cho trẻ em và giới trẻ “cái chất ngất Thánh Thể”
đã được Tôi tìm cách khêu lên nơi Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia (x. đoạn
6). Nói chung thì họ là những vị linh mục dẫn chúng tới con đường làm linh mục,
như lịch sử ơn gọi của chúng ta dễ dàng cho thấy.
6. Chư huynh linh mục thân mến, theo chiều hướng này,
Tôi xin anh em, trong số những hoạt động của mình, anh em hãy đặc biệt lưu ý tới
các em giúp lễ, thành phần như là một “mảnh vườn” của ơn gọi linh mục. Nhóm giúp
lễ được anh em hướng dẫn như là một phần thuộc cộng đồng giáo xứ, có thể cảm
nghiệm thấy cái giá trị của nền giáo dục Kitô giáo và trở thành một loại tiền
chủng viện. Anh em hãy giúp giáo xứ, như là một gia đình bởi nhiều gia đình, coi
những em giúp lễ như con cái của họ, như “những chồi Olive chung quanh bàn” của
Chúa Giêsu Kitô là Bánh Sự Sống (x Ps 127:3).
Nhờ sự giúp đỡ của các gia đình và các giáo lý viên, anh em hãy đặc biệt quan
tâm đến nhóm giúp lễ, để qua việc phục vụ bàn thờ của họ, mỗi người trong họ
biết lớn lên trong tình yêu Chúa Giêsu, biết nhìn nhận Người thực sự hiện diện
trong Thánh Thể, và biết cảm nghiệm cảm được vẻ đẹp của phụng vụ. Cần phải cỏ võ
và khích lệ những hoạt động của thành phần giúp lễ ở cầp giáo phận hay địa
phương, lưu ý tới những lứa tuổi khác nhau. Trong những năm thi hành thừa tác vụ
giáo phẩm của mình ở Krakow, Tôi đã thấy được nhiều thiện ích đạt được từ mối
quan tâm đến việc huấn luyện về nhân bản, tu đức và phụng vụ của chúng. Khi trẻ
em hay giới trẻ hân hoan và nhiệt tâm giúp lễ là chúng cống hiến cho bạn bè của
chúng một chứng từ hùng hồn cho tầm quan trọng và vẻ đẹp của Thánh Thần. Nhờ óc
tưởng tượng sinh động của chúng, cũng như nhờ sự dẫn giải và gương sáng của các
vị linh mục cùng bạn bè lớn tuổi nhơn mình, thì ngay cả những trẻ em còn bé cũng
có thể phát triển trong đức tin và phát triển lòng yêu mến những thực tại thiêng
liêng.
Sau hết, anh em đừng quên rằng chính anh em là những “Vị Tông Đồ” tiên khởi của
Chúa Giêsu Thượng Phẩm. Chứng từ của anh em đáng giá hơn bất cứ những gì khác.
Thành phần giúp lễ thấy anh em dâng Lễ Chúa Nhật và ngày thường là chúng thấy
nơi đôi tay của anh em Thánh Thể “diễn ra”, trên bộ mặt của anh em phản ảnh mầu
nhiệm Thánh Thể, và trong tâm can của anh em chúng cảm thấy được kêu gọi sống
yêu thương cao cả hơn. Chớ gì, đối với chúng, anh em là những người cha, những
thày dạy, và những chứng nhân của lòng sùng mộ Thánh Thể cũng như của đời sống
thánh thiện!
7. Anh em linh mục thân mến, sứ vụ đặc biệt của anh em
trong Giáo Hội đòi anh em phải là “bạn hữu” của Chúa Kitô, liên lỉ chiêm ngưỡng
dung nhan của Người bằng tấm lòng đơn sơ tại học đường của Đức Maria Rất Thánh.
Anh em hãy cầu nguyện không ngừng, như Thánh Tông Đồ đã khuyên dụ (x 1Thess
5:17), và khuyến khích tín hữu hãy cầu nguyện cho ơn gọi, cho việc kiên trì của
những vị đã được kêu gọi sống đời linh mục cũng như cho việc thánh hóa tất cả
mọi vị linh mục. Anh em hãy giúp cho cộng đồng của anh em biết yêu mến trọn vẹn
hơn nữa cái “tặng ân và mầu nhiệm” đặc biệt là thiên chức linh mục thừa tác này.
Trong khung cảnh nguyện cầu của Thứ Năm Tuần Thánh, một lần nữa Tôi xin lập lại
một số lời nguyện của Kinh Cầu Chúa Giêsu Kitô Tư Tế Và Hiến Tế (x tác phẩm Tặng
Ân và Mầu Nhiệm, trang 108-114), là những lời nguyện cầu Tôi đã đọc nhiều năm và
được nhiều lợi ích thiêng liêng:
Iesu, Sacerdos et Victima,
Chúa Giêsu là Vị Tư Tế và Vật Hiến Tế
Iesu, Sacerdos qui in novissima Cena formam sacrificii perennis instituisti,
ChúaGiêsu trong Bữa Tiệc Ly đã thiết lập một hình thức hiến tế đời đời
Iesu, Pontifex ex hominibus assumpte,
Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế được tuyển chọn giữa loài người
Iesu, Pontifex pro hominibus constitute,
Chúa Giêsu được phong làm Thượng Tế vì loài người
Iesus, Pontifex qui tradidisti temetipsum Deo oblationem et hostiam,
Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế hiến mình cho Chúa Cha như lễ dâng và tế vật
miserere nobis!
cầu cho chúng con!
Ut pastores secundum cor tuum populo tuo providere digneris,
Xin Chúa nhân lành ban cho dân Chúa các vị mục tử như lòng mong ước của Chúa
ut in messem tuam operarios fideles mittere digneris,
Xin Chúa nhân lành sai những người thợ trung thành đến làm mùa cho Chúa
ut fideles mysteriorum tuorum dispensatores multiplicare digneris,
Xin Chúa nhân lành tăng thêm những vị trung thành phân phát các mầu nhiệm của
Chúa
Te rogamus, audi nos!
Xin Chúa nhậm lời chúng con!
8. Tôi xin ký thác cho mỗi một người trong anh em cũng như trao phó thừa tác vụ
hằng ngày của anh em cho Mẹ Maria, Mẹ của Các Vị Linh Mục. Trong khi lần hạt mân
Côi, mầu nhiệm ánh sáng thứ năm dẫn chúng ta tới chỗ chiêm ngắm tặng ân Thánh
Thể bằng đôi mắt của Mẹ Maria, đến chỗ say đắm tình yêu “đến cùng” của Chúa
Giêsu (Jn 13:1) trong Căn Thượng Lầu, cũng như nơi việc hiện diện khiêm hạ của
Người trong hết mọi nhà tạm. Chớ gì Trinh Nữ Maria cầu cho anh em được ơn không
bao giờ coi thường mầu nhiệm được trao phó vào tay anh em. Bằng tất cả tấm lòng
tri ân cảm tạ Chúa về tặng ân Mình Máu lạ lùng của Người, chớ gì anh em trung
thành kiên trì với thừa tác vụ tư tế của anh em.
Hỡi Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Kitô, Vị Thượng Tế của chúng con, xin Mẹ cầu bầu để
Giáo Hội luôn luôn có nhiều ơn gọi thánh thiện, có các vị thừa tác viên phục vụ
bàn thánh trung thành và quảng đại!
Chư huynh linh mục thân mến, Tôi chúc cho anh em và cộng đồng của anh em một Lễ
Phục Sinh Thánh Thiện và Tôi ưu ái ban phép lành của Tôi cho tất cả anh em.
Tại Vatican ngày 28/3, Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Chay, năm 2004, năm thứ 26 của giáo
triều Tôi.
Gioan Phaolô II
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 6/4/2004
Tổng Quan về Ơn Gọi Linh Mục
trong 4 Thập Niên (1961-2001)
Trong Thư Thứ Năm Tuần Thánh Gửi Linh Mục 2004, ĐTC đặc biệt nhấn mạnh đến ơn
gọi linh mục. Trong cuộc họp báo ra mắt Bức Thư này tại phòng báo chí của Tòa
Thánh hôm Thứ Ba 6/4/2004, vị bí thư của Thánh Bộ Giáo Sĩ là ĐTGM Csaba Ternyak
đã cho biết thống kê về ơn gọi linh mục như sau. Nói chung, trong khi ơn gọi
linh mục giảm sút trầm trọng ở Tây Phương thì lại tăng phát ở các nơi khác trên
thế giới, đến nỗi, trong giáo triều của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, con số đã
tăng gấp đôi. Vào năm 1978, khi Ngài được bầu làm giáo hoàng, chỉ có 63.882 đại
chủng sinh trên thế giới, nhưng vào năm 2001, con số này đã lên đến 112,982.
“Chưa bao giờ trong lịch sử Giáo Hội đã có rất nhiều chủng sinh học triết học và
thần học như thế. Điều tuyệt vời là ở chỗ những ơn gọi này càng vững hơn là 30
năm trước đây. Phần trăm của những chủng sinh bỏ ơn gọi là 9.09% ở vào đầu giáo
triều của Ngài; trong khi hiện tại chỉ có 6.93%”.
Riêng ở thế giới Tây Phương, vị bí thư của Thánh Bộ Giáo Sĩ cho biết sở dĩ con
số linh mục bị giảm xuống tới độ, như ĐTC cảnh giác là không thể thay thế bởi
thế hệ trẻ, “là vì tình trạng cao tuổi ở dân chúng địa phương, vì hiện tượng
giảm sút sinh sản đáng lo ngại, và vì hiện tượng phát triển của một thứ văn hóa
trần tục”. Theo vì này thì cuộc khủng hoảng ơn gọi bắt đầu xẩy ra từ cuối thập
niên 1960, nhất là ở Âu Châu, Hiệp Chủng Quốc và Gia Nã Đại.
Ở Âu Châu vào năm 1961 có 250.859 linh mục, vào năm 2001 chỉ còn 206.761; ở Bắc
Mỹ Châu vào năm 1961 có 71.725 và vào năm 2001 còn 57.988.
Ngược lại, ở Nam Mỹ Châu, vào năm 1961 có 43.202 nhưng 4 thập niên sau, tức vào
năm 2001 tăng lên thêm 20 ngàn nữa, tức lên tới 63.159 vị. Ở Phi Châu, cũng
trong cùng giai đoạn 4 thập niên này tăng từ 16.541 tới 27.988. Ở Á Châu từ
25.535 tới 44.446. Đại Dương Châu không được đề cập tới, hình như cũng giảm như
ở Âu Châu và Bắc Mỹ Châu, vì là thế giới Anh ngữ, thế giới văn minh.
Chung thế giới, năm 1961 có 404.082 linh mục, năm 2001 có 405.067 vị. Tuy nhiên,
dù con số linh mục không giảm, nhưng dân số thế giới trong giai đoạn này lại
tăng lên gần gấp đôi.