GIÁO HỘI HIỆN THẾ
Tháng 5/2004
Ý Chỉ Ðức Thánh Cha
Ý Chung: “Xin cho con người biết nhìn nhận gia đình được xây dựng trên đời sống hôn nhân giữa một người nam và một người nữ là tế bào căn bản của xã hội loài người”.
Ý Truyền Giáo: “Xin cho dân Kitô giáo, nhờ lời chuyển cầu từ mẫu của Ðức Mẹ, biết coi Thánh Thể như là con tim và là hồn sống của hoạt động truyền giáo”.
__________________
NGÀY 17 THỨ HAI |
Sáu Vị Tân Thánh của Giáo Hội Công Giáo ngày 16/5/2004, Chúa Nhật VI Phục Sinh
ĐTC GPII đã phong thánh cho 6 vị chân phước tại Quảng Trường Thánh Phêrô hôm Chúa Nhật 16/5/2004, trong đó có ba vị lập dòng, hai vị linh mục Ý và 1 đan sĩ Tây Ban Nha, 1 vị linh mục người Labanon theo Lễ Nghi Công Giáo Maronite, và 2 giáo dân người Ý, một bà góa và một người mẹ bác sĩ. Tổng số vị hiển thánh được tôn phong trong giáo triều của Đức Gioan Phaolô II kể cả 6 vị tân thánh này đã lên tới 482 vị, một con số vượt hơn cả số thánh nhân đã được các vị tiền nhiệm của Ngài tôn phong trong vòng 500 năm.
Vị Giáo Hoàng vừa mừng sinh nhật 84 tuổi vào Thứ Ba 18/5/2004 đã tỏ ra mạnh khỏe đọc trọn bài giảng phong thánh và tuyên bố hiển thánh cho sáu vị chân phước trước đoàn giáo lữ đông đảo vẫy cờ ở Quảng Trường Thánh Phêrô trong một buổi sáng nắng ấm đẹp trời. Tham dự Thánh Lễ Phong Thánh này có cả Tổng Thống Labanon Emile Lahoud cũng là một người Công Giáo theo lễ nghi Maronite để mừng vị thánh thứ ba của nước ông là Nimatullah Al Hardini.
Sáu vị tân thánh của Giáo Hội Công Giáo gồm có Luigi Orione (1872-1940), linh mục sáng lập tổ chức The Little Work of Divine Providence and of The Congregation of the Little Sisters, Missionaries of Charity; Hannibal Maria di Francia (1851-1927), linh mục sáng lập tu hội the Congregation of the Rogationist Fathers of the Heart of Jesus and of the Religious Daughters of Divine Zeal; Josep Manyanet y Vives (1833-1901), linh mục sáng lập tu hội the Congregation of the Sons of the Holy Family of Jesus, Mary and Joseph and the Missionary Daughters of the Holy Family of Nazareth; Nimatullah Al Hardini (1808-1858), linh mục thuộc hội dòng the Lebanese Maronite Order; Paola Elisabetta (1816-1865), nữ sáng lập viên the Institute of Religious of the Holy Family; Gianna Beretta Molla (1922-1962), người mẹ bác sĩ nhi đồng.Thoidiemmaria.net sẽ lần lượt dịch đăng từng vị tân thánh trong tuần lễ này.
Thánh Luigi Orione (1872-1940)Vị sáng lập một hội dòng tuyên khấn thêm lời khấn trung thành với Giáo Hoàng
Em Luigi Orione vào đời ở Pontecurone, giáo phận Tortona ngày 23/6/1872. Vào năm 13 tuổi em vào Dòng Phanxicô ở Voghera (Pavia), nhưng sau đó một năm đã không thể tiếp tục vì lý do kém sức khỏe. Từ năm 1886 đến 1889, em là một học sinh của Thánh Gioan Bosco ở Valdocco Oratory (Trung Tâm Giới Trẻ) ở Turin, Tây Ban Nha.
Ngày 16/10/1889, cậu đã nhập chủng viện giáo phận Tortona. Là một chủng sinh trẻ, cậu dấn thân chăm sóc cho những người khác bằng việc trở thành một phần tử của cả Hội Thánh Marziano Cho Việc Tương Trợ lẫn Hội Thánh Vinh Sơn Phaolô. Ngày 3/7/1892 cậu đã mở một Giảng Phòng đầu tiên ở Tortona để giáo dục Kitô giáo cho các em trai. Năm sau, vào ngày 15/10/1893, năm 21 tuổi, cậu bắt đầu một trường nội trú cho những em trai nghèo ở khu đất Thánh Bernardinô.
Ngày 13/4/1895, Luigi Orione được thụ phong linh mục, và cũng trong dịp này, ĐGM đã cho 6 học sinh nội trú của ngài mặc áo giáo sĩ. Trong một thời gian ngắn, ngài đã mở thêm những nhà mới ở Mornico Losana (Pavia), Noto ở Sicily, Sanremo và Rôma.
Vị Sáng Lập Viên trẻ tuổi tài cao này đã tập trung được một nhóm những linh mục và chủng sinh để làm thành một nhóm nồng cốt đầu tiên cho tổ chức Công Việc Nhỏ Bé Của Đấng Quan Phòng Thần Linh. Năm 1899, ngài thành lập ngành Ẩn Sĩ Của Đấng Quan Phòng Thần Linh. ĐGM ở Tortona là Đức Ông Igino Bandi, qua Sắc Lệnh ban hành ngày 21/3/1903, đã chuẩn nhận hội Những Nam Tử Của Đấng Quan Phòng Thần Linh (bao gồm các vị linh mục, chủng sinh và ẩn sĩ), một dòng nam của tổ chức Công Việc Nhỏ Bé Của Đấng Quan Phòng Thần Linh. Mục đích của tổ chức này là để “hợp tác trong việc mang những con người nhỏ bé, nghèo hèn và dân chúng về với Giáo Hội và Giáo Hoàng, bằng các hoạt động bác ái”. Tu sĩ dòng này phải tuyên thêm lời khấn thứ tư đặc biệt “trung thành với Đức Giáo Hoàng”. Trong Bản Hiến Pháp đầu tiên năm 1904 hội dòng mới này còn có mục đích hoạt động để “đạt được mối hiệp nhất của các Giáo Hội tách biệt”.
Được thúc đẩy bởi lòng thiết tha mến yêu Giáo Hội và phần rỗi các Linh Hồn, ngài đã chủ động chú trọng tới những vấn đề mới trong thời của ngài, như vấn đề quyền tự do và mối hiệp nhất của Giáo Hội, vấn đề người Rôma, vấn đề tân tiến thuyết, xã hội thuyết và việc truyền bá phúc âm hóa cho những công nhân làm việc cho ngành kỹ nghệ.
Ngài đã mau mắn giúp đỡ cho những nạn nhân của các cuộc động đất ở Reggio và Messina (1908) cũng như ở miền Marsica (1915). Ngài đã được Thánh Giáo Hoàng Piô X đăt làm Tổng Đại Diện cho giáo phận Messina 3 năm.
Ngày 29/6/1915, 20 năm sau khi thành lập hội dòng Những Nam Tử Của Đấng Quan Phòng Thần Linh, ngài đã lập thêm hội dòng Các Chị Em Thừa Sai Bác Ái Nhỏ Bé. Sau đó, ngài còn lập hội dòng Chị Em Chiêm Niệm Chúa Giêsu Tử Giá.
Về phía giáo dân, ngài lập các hiệp hội như “Các Nữ Lưu Của Đấng Quan Phòng Thần Linh”, “Cựu Học Sinh” và “Chư Thân Hữu”. Gần đây còn xuất hiện những hội hay phong trào mang tên của ngài như Don Orione Secular Institute và Don Orione Lay People’s Movement.
Sau Đại Chiến Thứ Nhất (1914-1918), số học đường, những nhà lưu trú, các trường dạy canh nông, các hoạt động bác ái và an sinh đã tăng phát. Trong số những hoạt động dấn thân và nguyên thủy nhất của ngài còn có những “Little Cottolengos” để chăm sóc cho thành phần đau khổ và bị bỏ rơi, những nơi thường được xây cất ở những vùng ngoại ô các thành phố lớn với vai trò như “những tòa giảng mới” để nói về Chúa Kitô và về Giáo Hội là “những ngọn hải đăng thực sự của đức tin và của văn minh”.
Lòng nhiệt thành truyền giáo của ngài đã được thể hiện vào năm 1913 khi ngài thoạt sai tu sĩ dòng ngài đến Ba Tây, rồi sau đó đến Á Căn Đình và Uruguay (1921), đến Palestine (1921), đến Balan (1923), đến Rhodes (1925), đến Hiệp Chủng Quốc (1934), đến Anh Quốc (1935), đến Albania (1936). Vào những 1921-1922 và 1934-1937, chính ngài đã thực hiện hai chuyến truyền giáo đến Mỹ Châu Latinh, như đến Á Căn Đình, Ba Tây và Uruguay, tới tận Chí Lợi.
Ngài được các vị giáo hoàng và thẩm quyền Tòa Thánh trọng vọng, nên ngài được Giáo Hội ủy thác cho những công việc mật kín giải quyết những vấn đề và chữa lành các tổn thương cả bên trong lòng Giáo Hội lẫn đối với những mối liên hệ với xã hội.
Ngài là một nhà giảng thuyết, một cha giải tội và chuyên viên hăng say tổ chức các cuộc hành hương, các việc truyền giáo, các cuộc rước kiệu, các cảnh hang đá sống cũng như những cuộc biểu lộ và cử hành đức tin.
Ngài hết sức tôn sùng Đức Mẹ và phổ biến lòng tôn sùng Đức Mẹ bao nhiêu có thể. Bằng lao công của những chủng sinh thuộc thẩm quyền mình, ngài đã xây cất những đền thánh Our Lady of Safe Keeping ở Tortona và Our Lady of Caravaggio ở Fumo. Vào mùa đông năm 1940, ngài đã về nhà Sanremo để dưỡng bệnh tim và phổi. Sau đó 3 ngày, tức vào ngày 12/3/1940, ngài đã qua đời giữa anh em của mình, bằng tiếng thở than: “Giêsu ơi, Giêsu ơi! con ra đi đây”.
Thân thể của ngài còn nguyên vẹn sau cuộc cải mộ đầu tiên vào năm 1965. Thi thể này đã được trưng bày cho tín hữu kính viếng ở Đền Thánh Our Lady of Safe Keeping từ ngày 26/10/1980, ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong ngài lên hàng chân phước. Và ngài đã được chính vị giáo hoàng này phong thánh ngày 16/5/2004 tại Quảng Trường Thánh Phêrô, Chúa Nhật VI Phục Sinh.
Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo VIS
(Xin đón coi tiếp những vị tân thánh vào từng ngày trong tuần này)
Vị Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Vatican với việc Tổng Thống Bush gặp ĐGH GPII sắp tới
Nếu qua ĐHY Laghi, dân chúng có thể biết trước được nội dung những gì ĐTC GPII có thể nói với Tổng Thống Bush trong cuộc gặp gỡ tới đây thì qua cuộc phỏng vấn của tờ nhật báo Ý Il Corriere della Sera hôm Thứ Sáu 14/5/2004, vị lãnh sự Hoa Kỳ ở Vatican là ông Jim Nicholson cũng đã cho biết nội dung những gì Tổng Thống Bush sẽ nói với ĐGH. Theo vị lãnh sự này thì Tổng Thống Bush sẽ lên án hành động hành hạ các tù nhân Iraq gây ra bởi binh sĩ Hoa Kỳ và khẳng định là con số vi phạm này rất ít.
Vị lãnh sự này xác nhận là Tổng Thống Bush quả thực rất muốn gặp ĐGH GPII, đến nỗi tổng thống đã phải lấy lại chuyến bay của ông đến Rôma vào buổi tối trước khi ĐTC thực hiện chuyến tông du của Ngài sang Thụy Sĩ.
“Ông Bush rất muốn gặp ĐGH vị ông cảm thấy nhu cầu cần phải nói về một số vấn đề quan trọng cho tương lai của thế giới… (trong đó có những vấn đề liên quan tới) Trung Đông, Iraq và nạn khủng bố”.
Vị tổng thống này sẽ nói với ĐGH rằng ông “hết sức buồn khổ bởi tất cả những gì đã xẩy ra” liên quan đến vụ hành hạ các tù nhân Iraq. “Thế nhưng ông cũng sẽ nói rằng đó là một con số nhỏ trong số 200 ngàn quân nhân ở Iraq; đại đa số đã tác hành một cách gương mẫu. Những kẻ vi phạm những việc làm dụng ấy không tiêu biểu cho nhân dân Hoa Kỳ”.
Vị lãnh sự này còn cho biết tiếp về vấn đề trao nhượng chủ quyền cho Iraq như sau: “Hiệp Chủng Quốc đồng ý trao nhượng quyền bính từ Liên Hiệp Quốc cho nhân dân Iraq. Thế nhưng vấn đề về cách thức thực hiện vẫn chưa biết sẽ ra sao. Chỉ biết có hạn ngày là 30/6, song hiện nay vẫn chưa có một giải pháp mới nào của Liên Hiệp Quốc cả.
“Chính nhân dân Iraq yêu cầu chúng tôi ở lại; chúng tôi đã cung cấp nước nôi, điện lực, học đường, bệnh viện. Đó là một cải tiến không thấy được nhắc đến trong các báo chí.
“Chúng tôi ủng hộ bản tân Hiến Pháp, chúng tôi đồng ý với vấn đề trao trả quyền hành cho nhân dân Iraq. Để thực hiện điều này, chúng tôi không thể bỏ rơi khu vực ấy”.
Về vấn đề xung đột giữa những người Do Thái và Palestine, vị lãnh sự cho biết Tổng Thống Bush sẽ nói với ĐGH rằng:
“’Bản ‘lộ trình hòa bình’ sẽ được bắt đầu lại. Chúng tôi hết sức tin tưởng rằng cần phải chấm dứt cuộc xung đột này bằng việc thiết lập một quốc gia Palestine tự chủ. Về vấn đề này chúng tôi cùng chiều hướng với Giáo Hội”.