GIÁO HỘI HIỆN THẾ

Tháng 5/2004

Ý Chỉ Ðức Thánh Cha

 

Ý Chung: Xin cho con người biết nhìn nhận gia đình được xây dựng trên đời sống hôn nhân giữa một người nam và một người nữ là tế bào căn bản của xã hội loài người”.

Ý Truyền Giáo: Xin cho dân Kitô giáo, nhờ lời chuyển cầu từ mẫu của Ðức Mẹ, biết coi Thánh Thể như là con tim và là hồn sống của hoạt động truyền giáo”.  

__________________

 NGÀY 18 THỨ BA

 

THOIDIEMMARIA.NET

XIN CHÚC MỪNG SINH NHẬT 84 TUỔI CỦA ÐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II

CHÚNG CON XIN HIỆP Ý CÙNG GIÁO HỘI HOÀN VŨ CẦU CHO ÐỨC THÁNH CHA

 

“Các ngài đã phấn khích chúng ta trong việc kiên trì tiến bước”

Bài Giảng Phong Thánh của ĐTC GPII ngày 16/5/2004

(Bằng Ý ngữ)

1.     “Thày để lại bình an cho các con” (Jn 14:27). Trong Mùa Phục Sinh chúng ta thường nghe đến lời Chúa Giêsu hứa với các môn đệ của Người như thế. Bình an thực sự là hoa trái của việc Chúa Giêsu chiến thắng quyền lực sự dữ, tội lỗi và sự chết. Tất cả những ai trung thành theo Người đều trở thành những chứng nhân và là những kẻ đi xây dựng hòa bình.

Trong tinh thần ấy Tôi sung sướng chiêm ngưỡng sáu vị tân thánh hôm nay được Giáo Hội nêu gương cho hoàn vũ tôn kính, đó là Luigi Orione, Annibale Maria Di Francia, Josep Manyanet y Vives, Nimatullah Kassab Al-Hardini, Paola Elisabetta Cerioli và Gianna Beretta Molla.

2.     “Những vị đã liều mạng sống mình vì Chúa Giêsu Kitô” (Acts 15:26). Những lời này trong Sách Tông Vụ có thể được áp dụng rất hợp vào trường hợp của Thánh Luigi Orione, một con người hoàn toàn sống cho Chúa Kitô cũng như cho Vương Quốc của Người. Việc thừa tác vụ tông đồ của ngài được đánh dấu bằng tất cả những gì là đau khổ về thể lý và luân lý, lao nhọc, khốn khó, hiểu lầm và đủ thứ ngăn trở. Ngài đã nói rằng “Chúa Kitô, Giáo Hội và các linh hồn một là được mến yêu và phục vụ trên cậy thập tự và bằng việc bị tử giá, hay là chẳng được mến yêu và phục vụ gì hết” ("Scritti" [Writings] 68,81).

Tấm lòng của chính sách gia bác ái này “vô biên vì nó hướng về tình yêu Chúa Kitô” (ibid 102, 32). Chịu khổ nạn vì Chúa Kitô là hồn sống nơi cuộc đời can trường của ngài, thứ nội lực của một tấm lòng hoàn toàn vị tha, nguồn mạch mới mẻ hơn bao giờ hết của một niềm hy vọng bất khả hủy diệt.
Người con trai của người nhân viên làm đường này tuyên bố là “chỉ có đức bác ái mới cứu được thế giới” (ibid. 62,13) và ngài lập lại với tất cả mọi người rằng “hạnh phúc trọn hảo là ở chỗ hoàn toàn hiến mình cho Thiên Chúa cũng như cho con người, cho tất cả mọi người” (ibid.).

3.     “Nếu ai yêu mến Thày thì giữ lời Thày” (Jn 14:23). Nơi những lời Phúc Âm này chúng ta thấy được toàn bộ linh đạo của Thánh Annibale Maria Di Francia, vị được tình yêu Chúa thúc đẩy hiến trọn cuộc đời cho thiện ích thiêng liêng của tha nhân. Bởi thế ngài trước hết nhận thấy cần phải hiện thực lệnh truyền của phúc âm, đó là “Vậy hãy cầu xin chủ mùa sai thợ đến làm mùa cho ông” (Mt 9:38).

Vậy Tôi xin trao phó cho Các Cha Dòng Rogationist cũng như cho Nữ Tử Của Lòng Nhiệt Thành Thần Linh công việc làm ấy để tận lực hoạt động cho vấn đề cầu xin ơn thiên triệu được “liên tục và phổ quát”. Cha Annibale Maria Di Francia đã nói lên lời kêu gọi này với giới trẻ của thời đại chúng ta, tóm gọn trong lời ngài thường khuyến dụ là: “Hãy thiết tha yêu mến Chúa Giêsu Kitô”.

Từ cái trực giác thức thời này đã xuất hiện cả một đại phong trào nguyện cầu cho ơn thiên triệu trong Giáo Hội. Tôi thành thực hy vọng rằng gương sáng của Cha Annibale Maria Di Francia sẽ hướng dẫn và nâng đỡ hoạt động mục vụ này trong thời đại của chúng ta đây.

(Bằng tiếng Tây Ban Nha)

4.     “Đấng Phù Trợ là Thánh Linh Cha sẽ sai đến nhân danh Thày Ngài sẽ dạy các con mọi sự và nhắc nhở các con tất cả những gì Thày đã nói với các con” (Jn 14:26). Ngay từ ban đầu Đấng Phù Trợ này đã tác động nơi những con người nam nữ để họ nhớ lại và truyền bá chân lý được Chúa Giêsu mạc khải. Một trong những con người này là Thánh Josep Manyanet, vị tông đồ của đời sống gia đình. Được cảm hứng bởi học đường Nazarét, ngài đã làm trọn ý định thánh hóa bản thân của ngài và đã anh hùng xả kỷ hiến thân cho sứ vụ Thần Linh ủy thác cho ngài. Để thực hiện mục đích này, ngài đã thành lập hai hội dòng tu trì. Nỗi khát vọng tông đồ này còn được thể hiện nơi đền thờ Thánh Gia ở Barcelona.

(Bằng tiếng Catalan)

Chớ gì Thánh Josep Manyanet chúc phúc cho tất cả mọi gia đình và giúp anh chị em sống gương Thánh Gia trong gia đình của anh chị em!

(Bằng tiếng Pháp)

5.     Là một con người cầu nguyện, bằng lòng thiết tha mến yêu Thánh Thể là Đấng ngài hằng tôn thờ lâu giờ, Thánh Nimatullah Kassab Al-Hardini là gương mẫu cho các đan sĩ Dòng Maronite Labanon, cho anh em Labanon của ngài cũng như cho Kitô hữu khắp thế giới. Ngài đã hoàn toàn hiến mình cho Chúa bằng một đời sống hết sức bỏ mình, chứng tỏ cho thấy rằng chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới là mạch nguồn duy nhất của niềm vui và hạnh phúc đối với con người mà thôi. Ngài đã dứt khoát tìm kiếm và theo Chúa Kitô là thày và là Chúa của ngài.

Khi tiếp đón những người anh em của mình, ngài đã băng bó và chữa lành nhiều thương tích nơi lòng của các người đồng thời của ngài, làm chứng cho họ thấy tình thương của Thiên Chúa. Chớ gì gương sáng của ngài chiếu giãi con đường chúng ta đi, tác động đặc biệt nơi giới trẻ một tấm lòng khát khao Thiên Chúa và sự thánh thiện của Ngài, trong việc loan truyền cho thế giới của chúng ta đây ánh sáng Phúc Âm!

(Bằng tiếng Ý)

6.     “Thần Linh… mang tôi lên một ngọn núi cao lớn và tỏ cho tôi thấy thành thánh Giêrusalem từ trời xuống” (Rev 21:10). Hình ảnh tuyệt vời này đã được Thánh Gioan gợi lên trong Sách Khải Huyền cho thấy vẻ đẹp và việc sinh hoa kết trái thiêng liêng của Giáo Hội, tân Giêrusalem. Một chứng cớ đặc biệt của việc sinh hoa kết trái thiêng liêng ấy là Paola Elisabetta Cerioli, con người có một đời sống đầy những hoa trái tốt lành.

Chiêm ngưỡng Thánh Gia, thánh Paola Elisabetta đã trực giác thấy rằng cộng đồng gia đình sẽ vững chắc khi những mối liên kết về huyết nhục được nâng đỡ và xây dựng bằng việc chia sẻ các giá trị đức tin và văn hóa Kitô giáo. Để truyền bá những giá trị này, vị tân thánh đã lập Hội Dòng Thánh Gia. Ngài thực sự tin tưởng rằng trẻ em, để lớn lên một cách an toàn và vững mạnh, cần phải có một đời sống gia đình lành mạnh và hiệp nhất, quảng đại và yên hàn. Xin Chúa giúp cho các gia đình Kitô hữu biết chấp nhận và làm chưnùng trong mọi hoàn cảnh tình yêu của Vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu.

7.     Gianna Beretta Molla là một sứ giả đơn sơ nhưng đặc biệt quan trọng của tình yêu thương thần linh. Trước khi thành hôn ít ngày, trong bức thư gửi cho người chồng tương lai, ngài viết: “Tình yêu là một cảm tình tuyệt vời nhất Chúa đã đặt để nơi tinh thần của con người ta”.

Theo gương Chúa Kitô, Đấng “đã yêu thương những kẻ thuộc về mình… thì yêu thương họ cho đến cùng” (Jn 13:1), người mẹ thánh đức của gia đình này đã anh hùng trung thành với cuộc dấn thân chị đã chấp nhận trong ngày thành hôn. Cuộc hy sinh tối hậu làm nên cuộc đời của chị đã chứng thực rằng chỉ có ai can đảm hoàn toàn hiến mình cho Thiên Chúa cũng như cho anh chị em mình mới viên trọn bản thân mình mà thôi.

Chớ gì thế hệ của chúng ta đây, nhờ gương sáng của Thánh Gianna Beretta Molla, biết nhận thức được cái tinh tuyền, sự thanh sạch và vẻ đẹp sinh hoa kết trái của một tình yêu phối ngẫu được sống như là một đáp ứng tiếng gọi thần linh!

8.     “Lòng các con đừng bối rối hay sợ hãi” (Jn 14:27). Những cuộc thăng trầm trần thế của sáu vị tân thánh này phấn khích chúng ta hãy kiên trì tiến bước, tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa và việc chở che từ mẫu của Mẹ Maria. Chớ gì giờ đây các vị ở trên trời trông đến chúng ta và nâng đỡ chúng ta bằng việc chuyển cầu quyền thế của các vị.

Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến 16/5/2004

 

“Theo bước chân của các vị và bắt chước các vị, anh chị em hãy tiến bước trên con đường thánh đức”.

ĐTC GPII với phái đoàn đến Rôma mừng lễ phong thánh

Vào ngày áp Sinh Nhật 84 tuổi của ĐTC GPII, tức sau cuộc phong 6 vị tân thánh 24 tiếng đồng hồ, cả hằng ngàn người đã được triều kiến Ngài để mừng sinh nhật của Ngài. Nhóm người này đến Rôma để mừng Lễ phong thánh cho 5 trong 6 vị tân thánh. Vì hôm Thứ Bảy trước ngày phong thánh, Ngài đã ban buổi triều kiến riêng cho 8 trong 30 ngàn người hành hương đến mừng lễ phong thánh cho chân phước Luigi Orione.

Trong lời huấn dụ các phái đoàn hành hương đến Rôma để mừng lễ phong thánh này, Ngài đã nhấn mạnh đến một đặc điểm chung cho các vị tân thánh, đó là “lòng tôn sùng của một người con thảo đối với Trinh Nữ Maria” cũng như tinh thần tông đồ cho đời sống gia đình.

Về Thánh Annibale Maria Di Francia, ĐTC cho biết rằng vị thánh này “đã tôn kính thánh danh Vị Trinh Nữ này từ khi lãnh nhận phép rửa, Đấng mà ngài gọi là ‘má yêu’. Ngài có một lòng rất âu yếm và thiết tha mộ mến Mẹ, và kêu cầu Mẹ như là Mẹ của Giáo Hội và là Mẹ của ơn thiên triệu”.

Về Thánh Di Fancia là vị thành lập Dòng Các Cha Rogationist của Thánh Tâm Chúa Giêsu cũng như hội dòng Nữ Tử Của Lòng Nhiệt Thành Thần Linh.

Về Thánh Josep Manyanet, ĐTC nói: “’Phúc Âm gia đình’, được Chúa Giêsu cùng với Mẹ Maria và Thánh Giuse sống ở Nazarét là một tác lực thúc động hoạt động mục vụ bác ái của ngài” và “hướng dẫn việc giảng dạy của ngài”.

Về Thánh Nimatullah Kassab Al-Hardini, ĐTC cho biết rằng vị thánh này “đã tìm thấy nơi Mẹ Thiên Chúa, Đấng được hoài thai vô nhiễm nguyên tội, chính mẫu gương trung thành với Chúa Kitô là những gì đã tác động ngài”.

Về Thánh Paola Elizabetta Cerioli, ĐTC nói: “nơi học đường của Mẹ Maria, ngài đã biến tình yêu tự nhiên thành tình yêu siêu nhiên, đã để cho Chúa mở rộng tấm lòng làm mẹ của ngài ra”.

Về Thánh Gianna Beretta Molla, ĐTC nói “việc đề cập đến Vị Trinh Nữ này được lập đi lập lại nơi bức thư ngài gửi cho vị hôn phu Pietro của ngài, và trong những năm sau đó của cuộc đời, nhất là khi ngài nằm trong nhà thương để lấy đi cục bướu không gây phương hại gì tới đứa con ngài đang cưu mang trong bụng. Chính Mẹ Maria đã nâng đỡ ngài trong cuộc hy sinh tối hậu, như xác nhận những gì ngài thích nói rằng ‘không có Vị Trinh Nữ này giúp đỡ thì không ai có thể lên thiên đàng’”.

ĐTC đã kết thúc buổi triều kiến như sau: “Theo bước chân của các vị và bắt chước các vị, nhất là việc các vị thảo kính tôn sùng vị Trinh Nữ này, anh chị em hãy tiến bước trên con đường thánh đức”.
 

Một Đan Sĩ Người Labanon chăm sóc cho những người Hồi Giáo và Kitô hữu

Vị thánh thứ ba của nước Labanon: Thánh Nimatullah Al-Hardini

Nimatullah Kassab Al-Hardini (1808-1858)

Cha Paolo Azzi, vị cáo thỉnh viên phong thánh của vị chân phước này, đã cho Đài Phát Thanh Vatican biết rằng:

“Hết sức chú ý tới bức tranh muôn sắc của cộng đồng dân chúng Labanon, trong việc thực hiện sứ vụ của mình, ngài không phân biệt giữa những người Hồi Giáo, người Druses hay Kitô Giáo. Cái chính yếu đối với ngài đó là việc cứu các linh hồn như ngài tìm cách cứu lấy chính linh hồn của ngài vậy”.

Vị thánh này được thế giới gọi là Youssef Kassab, sinh ở Hardine, miền bắc nước Labanon, vào năm 1808. Vào năm 20 tuổi, ngài đã vào chủng viện ở Đan Viện Thánh Antôn ở Qozhaya, lấy tên Nimatullah, nghĩa là (ân sủng của Thiên Chúa), và được thụ phong linh mục ở Kfifan vào Ngày Giáng Sinh năm 1833.

Vị thánh này đã sống chiều kích chiêm niệm theo ơn gọi của mình trong cuộc sống thường nhật bằng tình yêu thương anh em đan sĩ của mình cũng như văn hóa của mình. Thật vậy, “sự thông thái của ngài không phải là những gì chỉ bo bo ở nơi bản thân ngài, mà là một cởi mở truyền giáo hướng đến những ai cần đến đức bác ái và kiến thức của ngài”.

Đó là lý do ngài đầu tiên đã mở một trường dạy học ở Kifkan rồi sau đó ở Bhersaf để hướng dẫn giới trẻ miễn phí.

Ngoài ra, “ngài còn đóng một vai trò nổi bật trong các hoạt động bác ái trong cuộc thảm sát Kitô hữu năm 1845. Ngài ở với mọi gia đình và cô nhi; ngài đã giúp đỡ họ, dạy dỗ họ và nguyện cầu cho họ”.

Dưới thời Đế Quốc Ottoman, tình hình dân sự ở Labanon gặp khó khăn như tình hình của Giáo Hội Maronite cũng như của dòng ngài. Chính vào thời gian này mà ngài đã lấy khẩu hiệu: “Kẻ thông thái nhất là kẻ cứu lấy linh hồn mình”.

Thánh nhân đã ngày đêm bỏ giờ ra tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể và liên tục cầu Kinh Mân Côi. Ở vào tuổi 43, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm phụ tá tổng quyền dòng của ngài 3 năm. Ngài còn được ủy thác cho nhiệm vụ này hai lần sau đó nữa. Vì lòng khiêm nhượng, ngài từ chối không nhận việc bổ nhiệm làm vị tổng đan viện phụ.

Là một giáo sư thần học của đại chủng viện, ngài đã dạy cho các chủng sinh theo học làm linh mục, trong đó có Charbel Makhlouf, một dự thánh sẽ được Giáo Hội tuyên phong trong tương lai, người chủng sinh thánh đức đã ở bên cạnh ngài trong giờ ngài lâm chung.

Ngài đã chết năm 50 tuổi ở Đan Viện Kfifan vào ngày 14/12/1858. Đơn xin phong chân phước cho ngài được đệ trình Tòa Thánh từ năm 1926, cùng với đơn của đan sĩ Charbel (da94 được phong thánh năm 1977) và Rafqa (một nữ đan sĩ thuộc giáo hội Labanon theo Lễ Nghi Maronite cũng đã được phong thánh năm 2001). Ngài đã được phong chân phước ngày 10/5/1998 và được chính vị Giáo Hoàng phong chân phước là Đức Gioan Phaolô II phong thánh ngày 16/5/2004, Chúa Nhật VI Phục Sinh.

Theo vị linh mục cáo thỉnh viên thì sứ điệp của vị thánh này là một sứ điệp “yêu thương, an bình và hy vọng. Quốc gia của Thánh Nimatullah là một quốc gia luôn sống một Tuần Thánh liên tục. Nó đã theo đuổi con đường hy vọng để thắng vượt tình trạng thất vọng”.

Việc phong thánh cho ngài “là một bức thư ngỏ gửi cho nước Labanon là quốc gia đã từng chịu nhiều khổ đau, cũng như cho nhân dân Labanon là những người đang cần đến hòa bình, và cho mảnh đất tử đạo Trung Đông vậy”.
 

Tiểu Bang Massachusetts đi tiên phong ở Hoa Kỳ về việc cho phép hôn nhân đồng tính
 

Thật vậy, “17/5/2004 là một ngày lịch sử: nó là một ngày đánh dấu một trang sử mới về quyền bình đẳng đối với các gia đình đồng tính nam nhân và nữ nhân. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ chúng tôi nhận được những quyền lợi và bảo vệ về pháp lý quan trọng là những gì xẩy ra chỉ qua vấn đề hôn nhân”, một nhân vật hoạt động cho quyền đồng tính là Marty Rouse đã phát biểu cảm tưởng như vậy.

Hàng ngàn cặp đồng tính đã lập gia đình với nhau ở Tòa Thị Sảnh San Francisco California vào hạ tuần tháng 2/2004 nhưng không được tiểu bang California công nhận. Một thị trưởng ở tiểu bang Nữu Ước cũng đã bị truy tố sau khi thi hành những cuộc hôn nhân đồng tính vào Tháng Hai 2004.
 

Thành phố nổi tiếng cấp tiến Cambridge ở tiểu bang Massachusetts, quê hương của các đại học đường lừng danh là Harvard và Viện Kỹ Thuật Massachusetts (MIT) đã truyền cho thư ký bắt đầu nhận các đơn xin lập hôn thú đồng tính từ nửa đêm rạng ngày 17/5/2004 và sẽ làm phép cưới đầu tiên cho các cặp này vào buổi sáng hôm đó.

Cuộc vượt rào cuối cùng đã được thực hiện hôm Thứ Sáu 14/5/2004, khi Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ vào phút cuối cùng đã không cản nổi cái thách đố về pháp lý được trình lên từ thành phần bảo thủ về vấn đề hôn nhân đồng tính. Tòa khiếu nại liên bang đã đồng ý giải quyết trường hợp này vào tháng tới, nhưng vào lúc bấy giờ thì cả trăm cả ngàn cuộc hôn nhân đồng tính đã được ban phép.