GIÁO HỘI HIỆN THẾ
Tháng 7/2004
Ý Chỉ Ðức Thánh Cha
Ý Chung: “Xin cho tất cả những ai được hưởng một mùa lễ nghỉ ở thời điểm này trong năm biết lợi dụng việc nghỉ hè của mình để tái nhận thức nơi Thiên Chúa tình trạng bình an nội tâm của họ cũng như để vươn tới việc yêu thương nhân loại”.
Ý Truyền Giáo: “Xin cho các Giáo Hội trẻ biết chú trọng hơn nữa đến thành phần tín hữu giáo dân cũng như biết tin tưởng vào họ hơn nữa đối với việc truyền bá phúc âm hóa”.
__________________
NGÀY 18 CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN C |
CHỌN Giêsu
Trong bất
cứ chọn lựa nào cũng đều để lại một ấn tượng và cái giá đi liền với hành động
chọn lựa đó. Người trưởng thành, do đó, phải bằng lòng chấp nhận kết quả chọn
lựa của mình với ý thức tự do mà không đổ lỗi cho người này người khác, hoặc lý
do này lý do kia. Những chọn lựa ấy nằm trong ba hình thức: Chọn lựa giữa cái
tốt và cái xấu, giữa hai điều xấu, và giữa hai điều tốt.
Chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu là một chọn lựa dễ dàng. Tâm lý con người ai
cũng muốn điều tốt và tránh điều xấu. Ai cũng thích được may lành mà sợ bị rủi
ro, xui xẻo. Do đó, việc chọn lựa trong những trường hợp như thế không đến nỗi
khó, hoặc đòi hỏi nhiều suy nghĩ, tính toán, và cân nhắc.
Chọn lựa giữa hai điều xấu, thí dụ, chấp nhận quỳ 1 tiếng hoặc không được đi xem
xinê vì một lỗi lầm nào đó. Sự chọn lựa này đòi hỏi phải cân nhắc hơn, suy nghĩ
hơn, và dĩ nhiên, để lại ấn tượng hơn.
Chọn lựa giữa hai điều tốt, thí dụ, chọn lựa mua một trong hai chiếc xe mà mình
đều thích và ưng ý, hoặc chọn lựa kết hôn với một trong hai người yêu của mình.
Đây là một chọn lựa khó nhất, đòi hỏi suy nghĩ nhiều hơn, và cũng để lại ấn
tượng mạnh mẽ hơn. Trong tâm lý, người chọn trong trường hợp này bao giờ cũng
cảm thấy hài lòng với kết quả của sự chọn lựa, tuy nhiên, người được chọn hay
vật được chọn có thể không hoàn toàn như ý mình mong muốn.
Mátta và Maria mà Thánh Kinh ghi lại hôm nay cũng đã làm một sự lựa chọn khi đón
tiếp Chúa Giêsu. Mátta chọn phương thức phục vụ, còn Maria chọn phương thức lắng
nghe. Trong sự chọn lựa ấy, cả hai đều muốn chứng tỏ với Thầy rằng, mình đã chọn
điều mà mình cho là đúng và tốt nhất để bày tỏ lòng kính trọng và yêu mến Thầy.
Tuy nhiên, về mặt tâm lý thì Maria đã chọn đúng và hài lòng với sự chọn lựa của
cô. Ngược lại, Mátta đã chọn sai và hậu quả là không hài lòng với chọn lựa của
cô: “Lậy Thầy, Thầy không để ý là em con để con bận rộn một mình sao? Xin Thầy
bảo nó giúp con một tay” (Lc 10:40). Chúa Giêsu nhân dịp này nói với cô: “Mátta,
Mátta. Con lo lắng và bối rối nhiều việc quá. Chỉ có một việc cần thôi. Maria đã
chọn phần nhất mà không ai có thể lấy đi được” (Lc 10:41-42). Nói một cách khác,
Maria đã chọn đúng.
Sự khác biệt giữa hai chị em được tìm thấy qua sự chọn lựa của các cô. Mátta thì
bực tức, cau có. Có thể lúc ấy cô đã nghi ngờ tình thương của Thầy dành cho em
hơn dành cho cô, hay ít nữa là bằng cô. Vì nghi ngờ, ghen tị như thế, cô đã làm
mất đi ý nghĩa hành động phục vụ của mình, và vì thế, sự chọn lựa của cô trở
thành một việc làm bắt buộc. Ngược lại, Maria thì bằng an, cô ngồi im lặng dưới
chân Chúa. Cô không tỏ vẻ ghen tị hay khó chịu với chị cô, mặc dù người ngoài
nhìn vào có thể cho là cô lười lĩnh, còn chị cô thì siêng năng, chịu khó.
Trong lãnh vực tâm linh – với cái nhìn sâu thẳm của niềm tin – Maria không những
chọn lựa đúng mà còn chọn được phần tốt nhất, điều mà chính Chúa Giêsu đã xác
nhận: “Maria đã chọn phần nhất” (Lc 10:42) đó là chọn chính Chúa. Còn Mátta thì
chọn cách thức làm vui lòng Chúa mà không chọn chính Ngài.
Mátta lo lắng, lăng xăng với công việc nấu nướng, dọn bữa với lòng mến Chúa,
muốn Chúa vui, nhưng qua cung cách của người thường. Cô nhìn Chúa như những
thượng khách, những khách quý mà không nhìn Chúa như Thiên Chúa của cô, do đó,
cô đã dám phiền trách Ngài, đã khó chịu với em mình trước mặt Ngài. Cô thấy Chúa
cũng ngồi đó, em cô cũng ngồi đó nói truyện với nhau; còn cô, cô vất vả một mình.
Em cô nói truyện với Chúa mà không nói với cô. Chúa nói truyện với em cô mà
không nói với cô.
“Maria đã chọn phần nhất”. Vì Maria đã chọn Chúa. Việc cô ngồi im lặng dưới chân
Chúa, lắng nghe là một hình thức cô làm đẹp lòng Ngài. Đây là một lối diễn đạt
tư tưởng có tính cách tâm lý và tâm linh hơn là những công việc và lối diễn tả
hình thức. Chia sẻ, lắng nghe sẽ dẫn đến cho hiểu và yêu thương nhau. Mà còn gì
cao quí hơn là được hiểu và yêu mến Chúa. Điều này cũng cho thấy rằng, Thiên
Chúa thật sự mong muốn con người hiểu và yêu Ngài. Một hình thức nào đó, Chúa
cũng cô đơn và ít bạn hiền. Chính vì thế, khi Chúa thấy một ai chăm chỉ lắng
nghe, thì Ngài rất mực yêu thích và Ngài cảm thấy được yên ủi.
Cũng qua lăng kính Đức Tin, thái độ đón tiếp của Maria là một hành động kết hợp
mật thiết với Thiên Chúa. Mà vì có Chúa là có tất cả, nên xem như Maria đã không
để ý đến những chuyện đang xẩy ra quanh cô, như thái độ bận rộn của chị Mátta.
Cô cũng không màng đến chuyện ăn uống, hoặc ghen tị với chị, nếu như trong bữa
ăn Chúa có khen Mátta là khéo tay, nấu nướng giỏi. Hoặc giải dụ, ngay sau cái
càu nhàu của Mátta mà Chúa có quay lại nói với cô những lời an ủi, rồi bảo Maria
phải lo giúp đỡ chị.
Chọn lựa của Maria đã mở ra một lối nhìn về cung cách phục vụ Chúa, về thái độ
tông đồ của chúng ta. Đây là một thái độ sống và sự lựa chọn của người Kitô hữu
giữa dòng đời. Sự lựa chọn của những Kitô hữu trưởng thành. Một lựa chọn đòi
phải quên mình, quên những tiếng khen thưởng, quên đi cả những may lành, thành
quả mà nhẽ ra mình đáng được do những việc mình làm. Dù là ai và trong hoàn cảnh
nào, người Kitô hữu cũng phải như Maria chỉ tìm gặp và chọn một mình Chúa. Và
chỉ chăm chỉ lắng nghe tiếng nói của một mình Ngài.
Chọn lựa nào cũng có cái giá phải trả và cũng mang lại những kết quả đối với
người lựa chọn. Chọn Chúa hay chọn thế gian. Chọn làm điều lành hay làm điều ác.
Chọn phục vụ Chúa để được khen thưởng, hay chọn âm thầm lắng nghe tiếng Ngài.
Tất cả đều là một lựa chọn. Nhưng cái chọn lựa nhất mà theo Chúa, Maria đã thực
hiện là chọn Chúa. Vì Chúa chính là gia nghiệp, là đường, là sự thật, và là sự
sống của ta. Ngoài Chúa ra không còn chọn lựa nào khác cao quí hơn, cần thiết
hơn mà có thể mang lại phần rỗi cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, khi chọn Chúa,
người Kitô hữu cũng phải như Maria dám đánh đổi tất cả những gì thuộc về thế
gian với một mình Ngài. Chỉ biết nghe Chúa mà đừng bắt Chúa nghe mình. Âm thầm
mà đừng lăng xăng nhiều chuyện. Mà nếu có năng nổ, chịu khó như Mátta, thì đừng
làu bàu, kể lể công đức. Chúa biết hết, Ngài biết những ai yêu Ngài, và tình yêu
mỗi người dành cho Ngài như thế nào.
Tóm lại, một sự chọn lựa trưởng thành, một chọn lựa đúng trong đời sống Kitô hữu
là chọn Chúa. Chọn Ngài vì yêu mến Ngài, chứ không phải chọn Ngài vì được Ngài
khen thưởng, được tiếng khen, hay bất cứ một điều kiện nào. Và đó chính là điều
mà Chúa Giêsu đã nói với Mátta: “Maria đã chọn phần nhất” (Lc 10: 42). Cô đã
chọn Giêsu.
Trần Mỹ Duyệt
Thật tình yêu song chưa hết mình yêu…!
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XVI Mùa Thường Niên Năm C tuần này tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm Chúa Nhật XV Mùa Thường Niên Năm C tuần trước. Có thể nói, bài Phúc Âm tuần này làm sáng tỏ ý nghĩa của bài Phúc Âm tuần trước. Theo bài Phúc Âm tuần trước, như chúng tôi đã chia sẻ, “chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết mình trước rồi mới có thể yêu thương tha nhân như bản thân mình được”, hay nói cách khác, chúng ta chỉ có thể yêu thương tha nhân như mình sau khi yêu mến Thiên Chúa hết mình, nghĩa là nếu không yêu mến Thiên Chúa hết mình sẽ không thể nào yêu thương như mình. “Đó là lý do tại sao Chúa Kitô, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 15 câu 21 hay đoạn 16 câu 3, đã vạch rõ căn nguyên thế gian bách hại môn đệ của Người như sau: ‘Họ làm cho các con tất cả những điều ấy là vì họ chẳng nhận biết Cha cũng không nhận biết Thày’”. Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rõ chân lý yêu thương và hệ thống yêu thương này nơi nhân vật Matta.
Đó là lý
do, một khi đức tin đối với Thiên Chúa yếu kém, con người sẽ không thể nào yêu
thương tha nhân trọn lành như Cha trên trời được (x Mt 5:48), trái lại, còn đi
đến chỗ tỏ ra những hành động phản lại tinh thần Phúc Âm, thậm chí muốn nhân
danh cả Thiên Chúa để khủng bố tha nhân nữa, như trường hợp của các môn đệ muốn
khiến lửa trời xuống thiêu hủy một ngôi làng Samaria vì đã không chịu tiếp đón
Thày mình trong bài Phúc Âm Chúa Nhật hai tuần trước (x Lk 9:54-55). Như thế,
đức tin càng mạnh, đức ái càng trọn hảo, và đức ái càng trọn hảo càng chứng tỏ
con người đã đạt tới mức độ đức tin thần hiệp, mức độ yêu thương trọn lành như
Thiên Chúa.
Kinh nghiệm sống đạo thực tế cho thấy Kitô hữu chỉ có thể yêu thương tha nhân
như bản thân mình một khi họ thật lòng và hết lòng yêu mến Thiên Chúa, hay nói
đúng hơn, Kitô hữu chỉ có thể yêu thương tha nhân một cách chân tình và trọn hảo
bằng chính tình yêu của Thiên Chúa mà thôi. Đó là lý do Chúa Kitô đã truyền dạy
cho môn đệ của Người là “các con hãy mến thương nhau như Thày đã yêu thương các
con” (Jn 13:34, 15:12). Qua câu khẳng định này, Chúa Kitô muốn khẳng định với
Kitô hữu chúng ta là thành phần môn đệ của Người là: “Thày là cây nho, các con
là cành. Ai ở trong Thày và Thày ở trong họ sẽ trổ sinh muôn vàn hoa trái, vì
ngoài Thày ra các con không thể làm được gì cả” (Jn 15:5).
Linh Đạo Kitô Giáo là như thế, là ở chỗ, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
nhấn mạnh trong Tông Thư Mở Màn Cho Một Tân Thiên Niên Kỷ ban hành ngày Lễ Hiển
Linh 6/1/2001, dịp bế mạc Đại Năm Thánh 2000, đâm rễ vươn cao, là “duc in altum”
(Lk 5:4), tức thả lưới ở chỗ nước sâu mới bắt được nhiều cá. Bằng không, dù tài
giỏi mấy đi nữa và vất vả cật lực mấy đi nữa, như trường hợp các tay thuyền chài
chuyên nghiệp trước khi bỏ hết mọi sự theo Chúa Kitô, vẫn không thể bắt được một
con cá nào.
Kinh nghiệm hoạt động tông đồ cũng cho chúng ta thấy rõ điều này. Có những người
rất hăng say hoạt động. Hội đoàn nào cũng tham gia. Công tác nào cũng có mặt.
Thế nhưng, hơi gặp trái ý một chút là bất mãn, than trách, chia rẽ. Bị phê bình
chỉ trích là nản lòng, sợ hãi, bỏ cuộc. Phải chăng thành phần hoạt động tông đồ
này đã như cây nho dính liền với thân nho? Nếu quả thực họ đã sống trong Chúa
Kitô và Chúa Kitô sống trong họ thì không thể nào xẩy ra tình trạng phản sống
đạo như thế được. Đó là những trường hợp của thành phần hoạt động thiếu đời sông
nội tâm.
Trái lại, cũng có trường hợp sống đạo đức mà chẳng sinh hoa kết trái gì, thậm
chí còn sinh trái xấu nữa. Điển hình là những Kitô hữu, như ở Việt Nam xưa chẳng
hạn, hằng ngày vốn có thói quen sáng lễ, trưa nguyện, chiều chầu, tối kinh: Tức
sáng nào cũng dự lễ rước lễ, trưa nào cũng không quên nguyện Kinh Truyền Tin,
chiều nào cũng đi chầu Thánh Thể, tối nào cũng đọc kinh chung gia đình. Ngày nào
bị ngăn trở không thực hiện thói quen đạo đức này thì cảm thấy áy náy và lấy làm
hết sức khó chịu. Thế mà, vừa thấy con gái mình “không chồng mà chưa mới ngoan”,
đã có người trong họ liền bảo “mày phải phá nó đi cho tao”, hay thấy con mình
long đong lận đận khổ sở với người phối ngẫu của nó liền khuyên: “mày cứ bỏ mẹ
nó đi cho xong”, “con cứ ly dị nó quách đi cho rồi” v.v. Đấy là chưa kể đến
nhưng hành vi cử chỉ ăn gian nối dối trong việc làm ăn hay công sở chỉ vì một
chút lợi lộc trần gian.
Tóm lại, muốn làm chứng cho ai cần phải biết đích xác về người ấy thế nào, thì
muốn làm chứng cho Chúa Kitô, tức muốn hoạt động tông đồ để Người được nhận biết
và yêu mến, người môn đệ đích thực của Người cũng phải sống hết sức thân tình
mật thiết với Người trong nội tâm của mình, bằng những giờ chiêm niệm nguyện cầu
như vậy.
Trên phương diện thực hành, để có thể dung hòa đời sống nội tâm và hoạt động,
chúng ta cần lưu ý đến những điểm chính yếu thực tế sau đây:
Về mặt tiêu cực liên quan đến đời sống nội tâm:
1. Đừng sợ bỏ giờ ra cầu nguyện là uổng phí mất thời giờ
cần thiết cho rất nhiều hoạt động và hãy cầu nguyện chẳng những bằng việc tham
dự phụng vụ, đọc kinh, mà còn bằng cả việc đọc sách thiêng liêng và trầm lặng
chiêm niệm nữa.
2. Đừng động một tí, tức không có lý do khẩn thiết, là bỏ cầu nguyện; nếu thật sự cần thiết có thể châm chước việc cầu nguyện, nhưng cố gắng làm bù lại bao nhiêu có thể.
3. Đừng vì khô khan, không cảm thấy hứng thú mà lơ là với việc cầu nguyện, trái lại, càng cảm thấy nguội lạnh càng cần phải bỏ giờ ra cầu nguyện nhiều hơn.
4. Đừng dấn thân hoạt động một khi cảm thấy tâm hồn thật sự sa sút đến mức nguy hiểm, bỏ ơn gọi hay phạm trọng tội; nếu cần phải tạm ngưng mọi hoạt động để lấy lại quân bình nội tâm, thậm chí phải dứt bỏ hay xin thôi hoạt động, dù hoạt động có ích lợi mấy đi chăng nữa.
5.
Đừng tìm thành công ở những lời khen tặng hay ở mức đông đảo dân chúng tuốn đến
với mình, mà là ở chỗ chu toàn Thánh Ý Đấng đã muốn mình làm việc của Ngài và
cho Ngài.
Về mặt tích cực liên quan đến đời sống hoạt động:
1. Hãy tìm hiểu kỹ lưỡng xem thực sự Chúa muốn mình làm
gì, và luôn làm sao để sống trọn và sống theo những ước nguyện của Kinh Lạy Cha
ở mọi nơi và trong mọi lúc.
2. Hãy dấn thân thực hiện, bất chấp mọi giá hy sinh và gian nan khốn khó, một khi đã biết rõ ý Chúa muốn mình làm gì.
3. Hãy dâng từng việc làm cho Chúa khi bắt đầu làm và cố giữ tâm hồn bình thản trong khi làm để có thể lắng nghe tiếng Chúa nói trong mọi nơi mọi lúc hầu mau mắn đáp ứng kịp thời, như trường hợp Mẹ Maria là tâm hồn đã sống hết sức gắn bó và cởi mở với Chúa, bằng thái độ luôn giữ và suy niệm trong lòng những cảm nghiệm thần linh xẩy ra trong cuộc đời của Mẹ.
4. Hãy luôn ý thức rằng vì mình làm việc của Chúa và cho Chúa, nên Chúa sẽ lo hoàn tất việc của Ngài, phần mình chỉ là phương tiện được Ngài sử dụng, hãy ngoan ngoãn ở trong bàn tay tinh khéo toàn năng của Ngài.
5.
Hãy nhớ rằng không có máu tử đạo không thể và không xứng làm việc của Chúa và
cho Chúa, bởi vì chính vào lúc người mẹ lâm bồn quằn quại đớn đau lại là lúc một
con người mới vào đời (x Jn 15:21), và cành nào sai trái lại càng cần phải được
cắt tỉa để càng trở nên sai trái hơn (x Jn 15:2).
Một gương mẫu hết sức sống động trong việc sống đời sống nội tâm và hoạt động
tông đồ, một đời sống đã thực sự trổ sinh muôn vàn hoa trái ngay trong thế kỷ
20, đó là gương của Mẹ Chân Phước Têrêsa Calcutta. Chưa có một dòng tu nào trong
lịch sử Giáo Hội đã phát triển nhanh và mạnh như Dòng Chư Thừa Sai Bác Ái của mẹ,
trong vòng 47 năm (1950-1997) đã lan tràn trên 120 quốc gia trên thế giới. Chưa
có một vị sáng lập nào đã lập nhiều ngành tu trì và hoạt động tông đồ như mẹ.
Chưa có một nữ tu nào đi khắp thế giới và làm được nhiều việc bác ái xã hội phi
thường như mẹ. Nếu theo sức tự nhiên không ai có thể làm được những gì mẹ làm,
thì không phải là mẹ đã có một đời sống nội tâm hết sức thâm hậu, với một sinh
lực thần linh thật là dồi dào phong phú hay sao? Một đời sống nội tâm thậm chí,
như những gì được khám phá ra sau khi mẹ qua đời cho thấy, có những lúc mẹ cảm
thấy như Thiên Chúa không hiện hữu và mẹ cảm thấy mình như đang ở trong hỏa ngục.
Tóm lại, để dung hòa đời sống nội tâm và hoạt động, Kitô hữu chúng ta cần phải
làm sao để luôn có một tâm tình tràn đầy ước nguyện của Kinh Lạy Cha, đến nỗi,
nhiệt thành biểu lộ ra qua các việc làm của mình, nhất là những việc tông đồ của
mình, những hoạt động hay những tác hành nhân chứng mà ai giao tiếp với chúng ta
cũng có thể nhận thấy một cách rõ ràng là rằng chúng ta thực sự sống động là để
cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên
trời vậy. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL