GIÁO HỘI HIỆN THẾ

Tháng 7/2004

Ý Chỉ Ðức Thánh Cha

 

Ý Chung: “Xin cho tất cả những ai được hưởng một mùa lễ nghỉ ở thời điểm này trong năm biết lợi dụng việc nghỉ hè của mình để tái nhận thức nơi Thiên Chúa tình trạng bình an nội tâm của họ cũng như để vươn tới việc yêu thương nhân loại”.

 

Ý Truyền Giáo: “Xin cho các Giáo Hội trẻ biết chú trọng hơn nữa đến thành phần tín hữu giáo dân cũng như biết tin tưởng vào họ hơn nữa đối với việc truyền bá phúc âm hóa”.  

__________________

 NGÀY 25 CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN C

  

 

CHA TÔI Ở TRÊN TRỜI

 

Có bao giờ bạn đã đếm được trên đầu mình có bao nhiêu sợi tóc? Hoặc trên đầu người yêu, người thân, hay con cháu mình có bao nhiêu tóc? Có lẽ trên đời này chưa ai làm được chuyện ấy. Nhưng nếu có ai đó đã hoặc sẽ làm được, thì một điều chắc chắn là người đó cũng không thể biết được khi nào sợi tóc nào đang đen hóa trắng, hoặc sợi nào rụng xuống vì lý do gì? Vậy mà Đấng Tự Hữu, Đấng Tạo Hóa đã làm điều đó cho con người: “Tóc trên đầu các ngươi đã được đếm hết” (Mt 10:30). Có nghĩa là cuộc đời con người từ khi được hoài thai trong lòng thân mẫu cho đến lúc trở về với cát bụi, nó hoàn toàn nằm trong bàn tay quan phòng và thương yêu của Thiên Chúa. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã mặc khải cho nhân loại biết lý do hành động của Ngài, đó là vì Ngài là Cha của chúng ta.

Tin hay không tin, con người cũng không thể chối bỏ được sự thật rõ ràng này. Và tin hay không tin, con người cũng không thể sống được ngoài sự săn sóc thương yêu của Thiên Chúa. Tâm lý tự nhiên cho biết rằng những lúc con người nhận ra sự có mặt của Ngài dễ dàng nhất, thường là những lúc họ gặp gian nan, đau khổ. Đối với những ai đã từng sống trong cảnh tù ngục sau 1975 tại Việt Nam. Hoặc đối với những ai đã từng hốt hoảng, sợ hãi trên những con thuyền nhỏ bé, mong manh trên đại dương trong những ngày tháng tìm đường vượt biên. Hay những ai đang phải chiến đấu với thần chết trên giường bệnh, thì sự có mặt của Thượng Đế là điều như nắm được trong tầm tay. Những lúc như thế, khi mà khả năng con người không còn làm được gì, thì hình ảnh của một Thượng Đế toàn năng, Thiên Chúa đầy quyền uy lại bừng sáng trong tâm trí con người.

Nhưng Thiên Chúa không chỉ là một Thượng Đế với đầy uy quyền và sẵn sàng xử dụng quyền năng ấy để đè bẹp con người, hoặc cứu vớt con người. Trong các tôn giáo, thần linh luôn luôn được biểu tượng bằng những hình ảnh siêu phàm, cách biệt với con người, hoặc thẳng tay với những yếu đuối hay lầm lỡ của con người. Tóm lại, không có sự cảm thông, và cũng không có sự gần gũi thân mật giữa thần linh và con người.

Thiên Chúa, Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa của người Kitô Giáo, ngược lại, là một người Cha rất mực nhân từ, rất mực thương yêu và luôn luôn có mặt trong cuộc đời của con người và từng người. Trời cao, biển rộng, sông dài, núi đồi trùng điệp. Hoa cỏ đồng nội. Cây cối, thảo mộc. Chim trời, cá biển, muông thú rừng hoang. Tài nguyên trên mặt đất, dưới lòng đất. Tài nguyên trong biển và dưới lòng biển. Trài nguyên trên các tầng trời. Gió mát, hơi ấm và không khí trong lành. Tất cả đều được dựng nên để phục vụ con người và cho con người. Tất cả đều được tạo dựng từ bàn tay nhân lành của Thiên Chúa. Nhưng sự kỳ diệu nhất và cũng lạ lùng nhất là sự sống. Khi Thiên Chúa ban cho con người sự sống, là Ngài chia sẻ sự hiện hữu của Ngài với con người. Khi Ngài ban cho con người được cộng tác với Ngài trong việc tạo dựng sự sống, là Ngài đã cho con người dự phần vào quyền sáng tạo toàn năng của Ngài.

Tiếp theo sự sống là trí khôn, lòng muốn, tài năng, và vẻ đẹp của thân xác con người; nhất là tình yêu. Ôi! Tình yêu lạ lùng của con người. Nếu Thiên Chúa không mặc khải cho biết Ngài là Tình Yêu: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Gn 4:8), thì con người sẽ không biết phải nói gì về cái thiêng liêng, cao cả và tuyệt vời của tình yêu. Con người trải qua muôn thế hệ phải cảm ơn Thánh Gioan về định nghĩa này, vì chỉ có Ông mới là người đã khám phá và thấu triệt được thế nào là một Thiên Chúa đầy yêu thương khi khẳng định Ngài là “Tình Yêu”.

Và hôm nay, Tình Yêu ấy được hiện thực và sống động giữa những cảm nhận của con người khi Chúa Giêsu dậy các môn đệ Ngài – và cũng dậy chúng ta – kinh Lậy Cha, một kinh nguyện tóm lược tình yêu hành động của Thiên Chúa. Đó là mặc khải về một Thiên Chúa không xa vời, không vô cảm, và không lạnh lùng. Ngài gần kề với nỗi lo âu và những thao thức của con người. Ngài hiểu được những dằn vặt, những thao thức của con người và từng người: “Xin Cha cho chúng con hằng ngày dùng đủ, và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11: 3-4). Qua những nhu cầu thường ngày như cơm áo, và qua những khó khăn trăn trở của kiếp người mà tình yêu Thiên Chúa được tỏ hiện.

Con người nghĩ gì và cảm gì khi thấy Thiên Chúa của mình cầm những chiếc bánh và những mẩu cá đưa cho mình ăn. Nếu không phải là Ngài, thì ai dám nghĩ và hình dung ra một Thiên Chúa tự nguyện qùi xuống rửa chân cho các môn đệ. Một Thiên Chúa đồng hành và đồng bàn với những người bị coi là tội lỗi. Nhất là một Thiên Chúa chia sẻ đến tận cùng cái nghèo mạt rệp và cuộc sống lầm than của con người trong suốt 30 năm dưới mái nhà Nagiarét. Tình yêu! Tình yêu hy hiến. Tình yêu đã khiến Ngài luôn luôn có mặt trong các nhà chầu trên khắp thế giới. Trong các bí tích, và trong Thánh Thể để làm của nuôi linh hồn con người. Và cũng chính tình yêu đã cho phép con người được gọi Ngài là Cha: “Lậy Cha chúng con ở trên trời” (Mt 6:9). Điều này hẳn làm cho các thiên thần phải sửng sốt, các quỉ thần phải ghen tương và bực tức. Tội lỗi đã lọt vào thế gian cũng vì sự căm thù và ghen tương ấy. Satan đã không muốn có sự thân mật này khi nhìn thấy Thiên Chúa chiều chiều tản bộ với con người trong vườn Diệu Quang.

“Cha chúng con ở trên trời”. Đây là một mặc khải đem lại niềm vui, hạnh phúc và bình an cho con người. Qua đó con người biết rằng từ trên cao thẳm, Cha mình luôn luôn để mắt nhìn xem, hướng dẫn, và quan phòng mọi ngả đường mình đi. Và nếu như con người gặp phải những thử thách, những lỗi lầm trên đường đi, thì Ngài đã có đó để an ủi, chữa lành và tha thứ. Tuy nhiên, nếu con người đã có Thiên Chúa ở cùng mà vẫn lo lắng, băn khoăn, sợ hãi thì đó là vì con người đã không thật lòng tin nhận và tín thác nơi Ngài. Con người đã không mở rộng lòng mình để đón nhận tình thương yêu quan phòng của Ngài. Và bằng cách này hay cách khác, con người không muốn làm con của Ngài, không muốn nhìn nhận Ngài là Cha.

Mỗi sáng khi nhìn ánh bình minh lên cao. Chiều về khi nhìn ánh tà dương khuất dần sao chân trời. Hay khi màn đêm buông xuống, ngước mắt nhìn lên trời với muôn vì tinh tú lấp lánh, ai mà không cảm thấy lòng mình chùng xuống khi nghĩ rằng từ nơi cao thẳm ấy, một người Cha rất mực thương yêu đang mỉm cười nhìn mình, và để lòng thổn thức với Ngài: “Cha ơi! Cha ở trên trời”.

 

Trần Mỹ Duyệt

 

 

 

Xin gì được nấy là tuyệt đỉnh của đời cầu nguyện

 

Bài Phúc Âm Chúa Nhật XVII Mùa Thường Niên Năm C Chúa Nhật tuần này, về tinh thần, tiếp tục bài Phúc Âm của Chúa Nhật XVI cũng Năm C tuần trước. Thật vậy, bài Phúc Âm tuần trước Chúa Giêsu đã đề cao việc làm của Maria là người đã “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người”, và trách Matta “lo lắng bối rối về nhiều chuyện”. Đúng thế, Matta đã không giữ được bình an nội tâm đến nỗi đã phải bật miệng trách móc: “Lạy Thày, em con để con hầu hạ một mình mà Thày không quan tâm đến hay sao. Xin Thày bảo em con giúp con với”. Chính vì thế Chúa Giêsu mới thức tỉnh Matta bằng cách mời gọi Matta hãy trở về với nguồn mạch là đời sống nội tâm, đời sống gắn bó với Người như Maria em chị: “Chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt hơn và nó sẽ không bị mất đi phần tốt hơn này”. Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này tiếp ngay sau bài Phúc Âm tuần trước, trong đó, như Thánh Ký Luca thuật lại, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện để đáp lời một trong các vị ngỏ ý: “Lạy Thày, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ của ông ấy”.

Đúng thế, qua bài Phúc Âm Chúa Nhật Chúa Nhật XVII tuần này, chúng ta thấy Chúa Giêsu chẳng những đã dạy cho các môn đệ mẫu thức cầu nguyện mà còn cả tinh thần cầu nguyện nữa, một mẫu thức cầu nguyện và tinh thần cầu nguyện chắc chắn sẽ mang lại thành quả cầu nguyện như lòng ước vọng. Mẫu thức cầu nguyện Chúa Giêsu dạy đây chính là lời Kinh Lạy Cha, tinh thần Người dạy cầu nguyện đây chính là lòng tin tưởng, và thành quả cầu nguyện phát sinh từ mẫu thức cầu nguyện và tinh thần cầu nguyện đây, như lời Người bảo đảm, đó là “xin sẽ được, tìm sẽ thấy, gõ sẽ mở. Vì ai xin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, và ai gõ sẽ mở cho... Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Ngài”.

Trước hết, về mẫu thức cầu nguyện là Kinh Lạy Cha. Nếu so sánh với Kinh Lạy Cha trong Phúc Âm Thánh Mathêu ở Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu, thì Kinh Lạy Cha trong bài Phúc Âm Thánh Luca Chúa Nhật tuần này ngắn hơn 2 ước nguyện, đó là không có hai ước nguyện “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, và ước nguyện “xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Ngoài ra, ngay ở lời mở đầu, chỉ có lời xưng tụng vỏn vẹn “Lạy Cha” mà thôi, chứ không có hai chi tiết “của chúng con” và “ở trên trời”, như trong Phúc Âm Thánh Mathêu “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Tuy Kinh Lạy Cha trong Phúc Âm Thánh Luca ngắn hơn Kinh Lạy Cha trong Phúc Âm Thánh Mathêu như thế, song không phải vì vậy mà Kinh Lạy Cha ngắn này bị thiếu hụt những gì quan trọng, trái lại, phải hiểu là Kinh Lạy Cha ngắn này đã chất chứa đủ những gì tối thiểu cần thiết cho một mẫu thức cầu nguyện theo Chúa dạy. Cũng như lời tuyên xưng của Thánh Phêrô trong Phúc Âm Thánh Luca của Chúa Nhật XII Thường Niên “Thày là Đức Kitô của Thiên Chúa”, tuy ngắn nhưng vẫn không thiếu những yếu tố căn bản cho niềm tin làm nên Giáo Hội của Người này, so với cũng lời tuyên xưng ấy ở Phúc Âm Thánh Mathêu trong Lễ Trọng Kính Hai Thánh Phêrô và Phaolô 29/6 hằng năm: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Ở đây chúng ta nên để ý đến một yếu tố khác liên quan đến hai Kinh Lạy Cha ngắn và dài này. Đó là, Kinh Lạy Cha dài ở Phúc Âm Thánh Mathêu được lồng trong Bài Giảng Trên Núi, khi Chúa Giêsu dạy về việc cầu nguyện, và sau khi Người nói đến cách thức cầu nguyện cần phải kín đáo và ngắn gọn; còn Kinh Lạy Cha ngắn ở Phúc Âm Thánh Luca hôm nay lại được xuất hiện trong trường hợp môn đệ yêu cầu Chúa Giêsu dạy các vị cầu nguyện, và Chúa đã dạy các vị mẫu thức cầu nguyện này trước khi nói đến tinh thần cầu nguyện và thành quả cầu nguyện.

Vậy tại sao Chúa Giêsu không dạy các môn đệ tinh thần cầu nguyện trước khi dạy cho các vị biết mẫu thức cầu nguyện? Phải chăng Người muốn dạy cho các môn đệ biết bản chất cầu nguyện ngay trong chính mẫu thức cầu nguyện, một bản chất mà thiếu nó hay không có nó thì chỉ là một việc bôi bác bề ngoài, như Người đã dùng lời tiên tri Isaia đoạn 29 câu 13 mà nói: “Dân này thờ kính Ta ngoài môi mép, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mt 15:8)?

Đúng thế, bản chất làm nên việc cầu nguyện đây chính là lòng muốn của con người. Đó là lý do Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 2562 mới ý thức và xác nhận: “Chính con tim cầu nguyện. Nếu lòng chúng ta xa cách Thiên Chúa thì những lời cầu nguyện chẳng là gì ”. Căn cứ vào bản chất làm nên cầu nguyện là tấm lòng của con người này chúng ta mới thấy được nguyên nhân thường làm và dễ làm cho chúng ta chia trí khi đọc kinh cầu nguyện, đó là tại lòng chúng ta chưa hoàn toàn gắn bó với Thiên Chúa, tức lòng chúng ta còn bị các tạo vật lôi kéo hay bị ngoại cảnh chi phối, không thể nào liên lỉ và hoàn toàn cầm trí được. Bởi thế mà chúng ta mới hay nghe nói chia lòng trước rồi mới chia trí sau, tức là “chia lòng chia trí” vậy. Và vì bản chất làm nên việc cầu nguyện là lòng muốn như thế, mà trong mẫu thức cầu nguyện Chúa dạy ở Phúc Âm Thánh Luca Chúa Nhật tuần này mới có 5 ước nguyện: thứ nhất là ước nguyện cho danh Cha cả sáng nơi niềm tin tưởng nhận biết Thiên Chúa thực sự là Cha trên trời của mình; thứ hai là ước nguyện mong cho nước Cha trị đến trên thế gian bằng đời sống hay công cuộc tông đồ làm chứng nhân cho Chúa Kitô của mình; thứ ba là ước nguyện được có lương thực hằng ngày là chu toàn ý muốn của Cha (xem Jn 4:34); thứ bốn là ước nguyện được Cha thứ tha tội lỗi của mình trong việc mình sống theo ý riêng của mình hơn là làm theo ý Cha; và thứ năm là ước nguyện được Cha cứu khỏi các chước cám dỗ có thể làm mất lòng Cha của mình.

Sau khi dạy cho các môn đệ mẫu thức cầu nguyện là Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu liền dạy các vị về tinh thần cầu nguyện là lòng tin tưởng, tin tưởng những gì mình xin chắc chắn sẽ được. Đó là lý do trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này Người đã dùng dụ ngôn có người đi vay bánh đãi khách giữa lúc đêm khuya và thực sự đã được toại nguyện, dù người đi vay mượn bất ngờ này ngỏ lời xin vào giờ bất tiện nhất và làm phiền người cho nhất.

Thật vậy, việc cầu xin cũng là tác động cầu nguyện. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 2559 đã lập lại định nghĩa của Thánh Gioan Đamascênô như sau: “Cầu nguyện là nâng lòng trí lên cùng Thiên Chúa hay xin Thiên Chúa những điều tốt lành”. Đúng thế, nếu bản chất của cầu nguyện là lòng muốn, được tỏ ra bằng những ước nguyện, như trong mẫu thức cầu nguyện là Kinh Lạy Cha, thì cầu xin với một lòng tin tưởng tuyệt đối chứng tỏ con người cầu xin đã lên đến tuyệt đỉnh của đời sống cầu nguyện, nếu không muốn nói đã được thần hiệp với Thiên Chúa, đến nỗi, ý của họ là ý của Chúa và ý của Chúa là ý của họ rồi vậy.

Điển hình là lời Mẹ Maria cầu xin Con Mẹ ra tay cứu vãn tình trạng thiếu rượu của tiệc cưới Cana, và dù chưa tới giờ của mình, Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ như lời Mẹ cầu xin. Trường hợp Mẹ Maria cầu xin Con Mẹ cho tiệc cưới Cana đây cũng tương tự như trường hợp người kia đi vay bánh đãi khách giữa lúc đêm khuya ở bốn điều sau đây. Thứ nhất, Mẹ Maria xin cho người khác, người cầu xin trong dụ ngôn cũng xin cho người khác; thứ hai, Mẹ Maria xin vào lúc chưa tới giờ của Con Mẹ, còn người cầu xin trong dụ ngôn thì vào nửa đêm là giờ bất tiện nhất; thứ ba, Mẹ Maria làm phiền Con Mẹ: “Việc này có can chi tới Tôi và bà” (Jn 2:4), người cầu xin trong dụ ngôn cũng làm người cho bị phiền toái: “Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh đâu”; thứ bốn, Mẹ Maria được Con Mẹ thỏa nguyện, người cầu xin trong dụ ngôn cũng được toại nguyện.


Trường hợp người xin bánh đãi khách giữa đêm khuya trong dụ ngôn Chúa dạy trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này được hiện thân sống động nơi hành động Mẹ Maria cầu xin Con Mẹ cho tiệc cưới Cana như thế cho chúng ta thấy rằng, nếu thực sự cầu xin với lòng tin tưởng vững vàng thì thành quả cầu nguyện chắc chắn sẽ xẩy ra đúng như lời Chúa Giêsu quả quyết trong bài Phúc Âm hôm nay: “xin sẽ được, tìm sẽ thấy, gõ sẽ mở. Vì ai xin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, và ai gõ sẽ mở cho”!

Bởi vì, trong khi người cầu xin Chúa với lòng tin tưởng mãnh liệt hoàn toàn thú nhận trước nhan Ngài rằng họ là người bần cùng thiếu thốn, hoàn toàn trông đợi mọi sự ở nơi Ngài, đến nỗi, không có Ngài họ không thể làm gì được, mà Thiên Chúa lại là Đấng vô cùng viên mãn và tốt lành, Đấng chỉ muốn ban phát, thậm chí “đã không dung tha cho Con riêng mình thì Ngài còn tiếc bất cứ điều gì nữa”, như Thánh Phaolô cảm nhận trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma đoạn 8 câu 32, thì điều tuyệt nhất Ngài ban cho họ đó là Thánh Thần của Ngài, như chính lời Chúa Giêsu cuối bài Phúc Âm hôm nay khẳng định: “Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Ngài”.

Đúng thế, chỉ khi nào nhận được Vị Thánh Thần này, con người cầu nguyện mới có thể được hoàn toàn thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi để nhờ đó họ cũng mới có thể thông ban Sự Sống Thần Linh là Chúa Kitô (xem Jn 14:6, 11:25; 1Jn 5:11-12) cho những ai họ được sai đến như một Chứng Tá Thần Linh. Nếu tinh thần cầu nguyện là tin tưởng, mà “ai xin sẽ được” và được “Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho”, thì quả thực, đúng như lời Chúa Kitô xác quyết trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 7 câu 39: “Ai tin tưởng nơi Tôi thì hãy uống. Thánh Kinh đã viết: ‘Từ nơi họ tuôn ra những giòng sông chảy nước hằng sống’. (Ở đây Người có ý nói đến Thần Linh mà những ai tin vào Người được lãnh nhận)”.

Như thế, con người cầu nguyện sâu xa chính là nhà truyền giáo đích thực, và ngược lại, vị thừa sai thành đạt phải là con người cầu nguyện sâu xa vậy. Đó là ý nghĩa của việc cầu nguyện theo bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XVII Mùa Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh, một thời điểm Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô tiếp tục tỏ mình ra trên thế gian qua chứng từ Giáo Hội cho đến khi Người lại đến trong vinh quang.

Nếu con người cầu nguyện thực sự cũng là một con người truyền giáo, thì ngược lại con người truyền giáo trước hết và trên hết phải là một con người cầu nguyện. Thế nhưng, thực tế cho thấy, không phải ai cũng biết cầu nguyện và có thể cầu nguyện. Do đó, các môn đệ mới xin Chúa Giêsu dạy cho mình biết cầu nguyện. Và cũng chính vì thế có nhiều tâm hồn đã chán và bỏ đời sống cầu nguyện. Tuy nhiên, chính khi con người ngày nay đang sống trong một thế giới đầy năng động và theo xu hướng hưởng thụ này, lại xuất hiện trào lưu tìm kiếm tĩnh lặng, như trong việc thực hành phương pháp Thiền hay Zoga. Thế nhưng, kinh nghiệm cũng cho thấy, khi con người bắt đầu cầm trí và thinh lặng cũng là lúc con người bắt đầu chia trí. Bởi vì, như đã nhận định, vì con người còn dính bén với tạo vật, mà cốt lõi của tác động cầu nguyện lại phát xuất từ chính cõi lòng Ước Vọng Thần Linh của con người, nên con người không thể cầu nguyện, hay cầu nguyện không trọn, hoặc cầu nguyện chưa đạt đến bậc thần hiệp. Thế nhưng, vì cầu nguyện là một tiến trình Giao Tiếp Thần Linh trong tinh thần và chân lý mà con người cần phải bắt đầu cầu nguyện bằng nỗ lực lắng nghe tiếng Chúa, để một lúc nào đó có thể “vang lên những lời than khôn tả” (Rm 8:26).

Nếu nguyên nhân chính yếu và sâu xa của tình trạng dễ chia trí, nhiều chia trí và luôn chia trí là do tại “chia lòng”, tức tại tâm hồn con người chúng ta chưa thực sự hay không hoàn toàn gắn bó với Thiên Chúa, thì để sốt sắng cầu nguyện hay cầu nguyện một cách say mê, cầu nguyện một cách liên lỉ, cầu nguyện ở mọi nơi, trong mọi hoạt động, đến nỗi có thể biến tất cả mọi hoạt động thành cầu nguyện, Kitô hữu Công Giáo chúng ta cần phải thực sự và hết sức Khao Khát Thần Linh, đến độ không còn thiết một sự gì trên thế gian này nữa, tức đến độ yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, bằng cả tấm lòng của mình. Thế nhưng, lên tới mức độ này là tâm hồn đạt tới mức độ thần hiệp về cầu nguyện, mức độ cao nhất về cầu nguyện, mức độ trọn lành trong đời sống siêu nhiên.

Thế nhưng, làm sao để có thể đạt tới mức độ trọn lành về nhân đức và mức độ cầu nguyện kiểu thần hiệp này, nếu không phải con người Kitô hữu Công Giáo chúng ta cần phải được ban cho Thánh Linh, Đấng như mạch nước sự sống vọt lên từ lòng họ (x Jn 4:14; 7:37-39), Đấng chuyển cầu cho họ bằng những lời than khôn tả (x Rm 8:26), những lời than không phải là những tiếng lạ không ai hiểu gì, kể cả chính đương sự, mà là những Cảm Thức Thần Linh, những Chất Ngất Thần Linh, hoàn toàn vượt trên giới hạn của tri thức tự nhiên và ngôn ngữ phàm trần, chất ngất đến nỗi, như đã từng xẩy ra ở một số các thánh nhân, tâm hồn các ngài được ngất trí hay xác được nâng lên khỏi mặt đất, (chứ không phải bị ngã lăn đùng ra, choáng váng mặt mũi lại, chẳng còn biết gì nữa), hay chất ngất đến nỗi, đã thoát ra “những lời than khôn tả” là những Ước Nguyện Thần Linh, đúng như những lời than khôn tả trong Kinh Lạy Cha Chúa dạy.

Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa chỉ ban Thánh Linh và chỉ mạc khải những sự cao siêu huyền diệu về Ngài cũng như về Nước Trời là Chúa Giêsu Kitô Con Ngài cho những ai bé mọn nhất (x Lk 10:21), thì “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (x Mt 18:3) chính là đường lối duy nhất, là Linh Đạo Nước Trời, và là điều kiện bất khả châm chước để Kitô hữu Công Giáo chúng ta nên trọn lành, cũng như để chúng ta có thể sống một cuộc đời cầu nguyện là Giao Tiếp với “Thiên Chúa là Thần Linh … trong tinh thần và chân lý” (x Jn 4:24) vậy.


 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL