GIÁO HỘI HIỆN THẾ
Tháng 7/2004
Ý Chỉ Ðức Thánh Cha
Ý Chung: “Xin cho tất cả những ai được hưởng một mùa lễ nghỉ ở thời điểm này trong năm biết lợi dụng việc nghỉ hè của mình để tái nhận thức nơi Thiên Chúa tình trạng bình an nội tâm của họ cũng như để vươn tới việc yêu thương nhân loại”.
Ý Truyền Giáo: “Xin cho các Giáo Hội trẻ biết chú trọng hơn nữa đến thành phần tín hữu giáo dân cũng như biết tin tưởng vào họ hơn nữa đối với việc truyền bá phúc âm hóa”.
__________________
NGÀY 27 THỨ BA |
Thực tế đã cho thấy
Biện Pháp Hiệu Nghiệm Nhất Trong Việc Ngăn Chặn
Vi Khuẩn Liệt Kháng (HIV) hay Hội Chứng Liệt Kháng (AIDS)
đó là…
Là một phối hợp viên dịch vụ của thành phần bị chậm phát triển (developmental disabled population), tôi đã được hân hạnh phục vụ nhiều người, đủ mọi lứa tuổi, nam cũng như nữ, đồng hương cũng như ngoại kiều, đồng đạo cũng như khác đạo v.v. Vào tháng 5/2004, tôi đã đến thăm một trong những thân chủ nhỏ của tôi ở Anaheim. Sau khi hoàn tất thủ tục viếng thăm hằng năm (annual staffing), tôi thường nói đến chuyện thế thái nhân tình với những người cùng một tâm hướng, trong đó có người cha của đứa em gái thân chủ này. Năm nay, đang mùa vận động bầu cử tổng thống, người cha này nêu lên một vấn đề vừa liên quan đến thực trạng xã hội lẫn luân lý Công Giáo. Theo nhận định tư nhiên, người cha này đã đặt vấn đề như sau: theo quan điểm tôn giáo (ông có ý nói đến Giáo Hội Công Giáo, vì ông ấy biết tôi là tín đồ Công Giáo), thì không được phá thai, nhưng theo quan điểm xã hội thì cần phải ngăn ngừa để khỏi phải đi đến chỗ phá thai. Một trong những phương pháp được người cha này ủng hộ và nêu lên là việc sử dụng bọc cao su làm tình. Tôi đã trình bày cho ông ấy biết về chủ trương của Giáo Hội Công Giáo đối với vấn đề ngừa thai, với những ý tưởng chính yếu sau đây:
1) Giáo Hội Công Giáo không cấm ngừa thai, nhưng chỉ được sử dụng phương pháp tự
nhiên chứ không phải phương pháp nhân tạo.
2) Phương pháp ngừa thai tự nhiên là phương pháp hợp với phẩm giá của mỗi con người nói riêng và phẩm giá hôn nhân giữa hai con người vợ chồng nói chung.
3) Phương pháp ngừa thai nhân tạo, như việc sử dụng bọc cao su, chẳng những biến con người, nhất là người nữ, thành một thứ đồ chơi tình dục, mà còn là cách xui giục làm tình nhiều hơn, vì nó an toàn hơn, nhất là nơi giới trẻ (ở vào tuổi dậy thì đầy rạo rực và tò mò về xác thịt) được công khai giáo dục tình dục (open sex education) nơi học đường.
4) Thực tế cho thấy hậu quả của việc ngừa thai nhân tạo, của việc giáo dục tình dục theo kiểu kỹ thuật hơn là luân lý, chẳng những không cứu được xã hội mà còn càng làm cho con người càng ngày càng băng hoại hơn.
5) Tầm vóc trọn vẹn và thành toàn của con người là ở chiều kích luân lý của họ, do đó, chỉ khi nào con người biết sống theo những nguyên tắc luân lý phổ quát, đặc biệt biết nhổ tận gốc rễ tình trạng băng hoại về tình dục, bằng đời sống đạo hạnh thanh sạch (virtue/chastity), họ mới giải quyết được vấn đề xã hội nói chung và tình trạng băng hoại về tình dục nói riêng.
6) Riêng về việc sử dụng bọc cao su làm tình, chủ trương của Giáo Hội Công Giáo cổ võ việc tiết dục và thủy chung vợ chồng để đặc biệt ngăn ngừa Hội Chứng Liệt Kháng, hoàn toàn chống lại việc sử dụng bọc cao su làm tình, càng ngày thực tế càng cho thấy là những chủ trương đích xác và cần phải theo.
Về điểm cuối cùng (thứ 6) trên đây, tôi đã tổng quan dẫn chứng bằng những tư
tưởng của Ông John Smeaton, giám đốc toàn quốc của Hội Bảo Vệ Thai Nhi (SPUC:
Society for the Protection of Unborn Children), qua cuộc phỏng vấn của mạng lưới
điện toán toàn cầu Zenit được phổ biến ngày 21/11/2003.
Vấn: Ông có thể cho biết tại sao các chương trình dựa vào việc chế dục và thủy
chung trong đời sống hôn nhân lại thích hợp hơn đối với việc phân phối thả dàn
các thứ bọc cao su làm tình?
Đáp: Các chương trình dựa vào việc chế dục và thủy chung trong đời sống hôn nhân
bao giờ cũng thích hợp hơn đối với việc phân phối thả dàn các thứ bọc cao su làm
tình trong việc chống lại hội chứng liệt kháng AIDS, và điều này không phải chỉ
có Giáo Hội bảo cho chúng ta biết đâu. Cả Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới (WHO World
Health Organization) và các hãng sản xuất bọc cao su làm tình cũng nói như vậy
nữa. Hiện nay các hãng sản xuất bọc cao su làm tình không phải thực sự là những
thành phần ủng hộ cho “thần học về thân thể”, hay là những bảo quản viên cho đời
sống hôn nhân Kitô giáo.
Tuy nhiên, ngay cả những tay chế tạo các thứ bọc cao su làm tình Durex (bền dai)
cũng đã rõ ràng nói rằng “đối với việc hoàn toàn bảo vệ khỏi bị HIV và những
chứng bệnh truyền nhiệm theo đường tính dục, thì biện pháp hoàn toàn hiệu nghiệm
duy nhất đó là chế dục hay giới hạn việc ân ái xác thịt với những bạn tình trung
thành miễn nhiễm”. Lý lẽ của các chương trình chế dục và thủy chung hôn nhân là
những gì giản dị và ngay thẳng. Người ăn nằm lung tung và sử dụng bọc cao su làm
tình, là người có nguy cơ bị nhiễm HIV, dù những thứ này có bảo vệ khỏi nguy cơ
này thế nào đi nữa; nhưng không ai đã từng bị chết bởi trực tiếp giữ mình trinh
sạch. Cũng thế đối với một người nam và một người nữ thủy chung với nhau trong
đời sống hôn nhân, trước khi lấy nhau đã biết chế dục. Giáo huấn của Giáo Hội về
tính dục con người không phải là giấc mơ lý tưởng được chương trình Panorama
công nhận. Giáo huấn này là đường lối cảm nhận chung được hằng tỉ người đã sống
qua bao thế hệ.
Vấn: Đâu là mức độ thành công của việc ngăn ngừa hay giảm thiểu hội chứng liết
kháng AIDS ở những vùng theo các chương trình tiết dục và thủy chung hôn nhân,
so với những vùng được phân phối các thứ bọc cao su làm tình?
Đáp: Có lẽ trường hợp ở Uganda là nơi thành công nhất trong việc chống lại hội
chứng liệt kháng và phần lớn của việc thành công này là vì những thứ thay đổi
trong tác hành tính dục, nhất là việc chú trọng tới vấn đề tiết dục và thủy
chung hôn nhân. Những thứ bọc cao su làm tình được cổ võ như là một biện pháp
cuối cùng, nhưng theo bản tường trình của USAID về Uganda thì các thứ bọc cao su
làm tình không phải là yếu tố chính trong việc giảm bớt tình trạng truyền nhiễm
HIV.
Thật vậy, việc giảm sút tình trạng truyền nhiễm này bắt đầu xẩy ra trước khi vấn
đề phát động phân phối các bọc cao su làm tình được thực hiện. Các phê bình gia
đối với vấn đề tiết dục cho rằng người ta không cứng cát đủ để chống trả, thế
nhưng đây là một thứ tuyên truyền vô bằng cớ. Chỉ trong một địa hạt ở Uganda
thôi người ta thấy rằng vấn đề sinh hoạt tính dục nơi đám thiếu nhi từ 13 tới 16
đã giảm bớt 5% vào năm 2001, so với mức 60% vào năm 1994, cả là một thay đổi lớn
lao đạt được trong vòng 7 năm về tác hành tính dục. Không như các quốc gia lân
bang của mình, Uganda đã giảm bớt tình trạng truyền nhiễm HIV rất nhiều trong
một thập niên và có tới 98% dân chúng không được giáo dục gì về hội chứng liệt
kháng cả, một trong những mức độ nhận thức cao nhất thế giới.
Sau khi nghe tôi trình bày về cả lý thuyết lẫn thực tế về vấn đề ngừa thai liên
quan đến bọc cao su làm tình an toàn như thế, người anh em đồng hương khác đạo
nhưng quan tâm đến thế thái nhân tình và nghĩ giải quyết một cách thực tế như
thế đã dường như hoàn toàn chấp nhận những gì Giáo Hội Công Giáo chủ trương và
hoạt động là chính đáng.
Thật vậy, Giáo Hội Công Giáo vốn từng bị chỉ trích về vấn đề chống lại việc phát
động sử dụng bọc cao su làm tình như một phần của những chương trình ngăn ngừa
Hội Chứng Liệt Kháng và những cuộc vận động “làm tình an toàn”. Tuy nhiên, việc
chống lại vấn đề sử dụng bọc cao su làm tình an toàn không có nghĩa là Giáo Hội
Công Giáo không lo gì nguy cơ của Hội Chứng Liệt Kháng cũng như đến thành phần
bị nhiễm hội chứng nguy tử này.
Năm 2003, theo Tín Vụ Công Giáo Cho Phi Châu phổ biến ngày 17/8/2003, thì ông bộ
trưởng y tế của nước Kenya là Charity Ngilu đã ca tụng Giáo Hội Công Giáo đã
chiến đấu với Hội Chứng Liệt Kháng. Ông bộ trưởng y tế này nhận định là Giáo Hội
Công Giáo đã chú trọng đến 3 lãnh vực chính: đó là lãnh vực ngăn ngừa bằng việc
đề cao cảnh giác và cổ võ thay đổi tác hành; lãnh vực chăm sóc và chữa trị thành
phần bị Hội Chứng Liệt Kháng hay Vi Khuẩn Liệt Kháng; và lãnh vực hỗ trợ về xã
hội cũng như kinh tế đối với những ai bị bệnh hay bị nhiễm tai họa này.
Tờ tạp chí Những Nghiên Cứu Về Việc Kế Hoạch Hóa Gia Đình, trong số 3/2004, đã
phổ biến một cuộc kiểm điểm rộng lớn theo các tường trình khoa học về vấn đề bọc
cao su làm tình an toàn.
Bài “Việc Cổ Võ Bọc Cao Su Làm Tình An Toàn Để Ngăn Ngừa Hội Chứng Liệt Kháng
Nơi Thế Giới Phát Triển: Có Hiệu Nghiệm Hay Chăng?”, với hai tác giả là Norman
Hearst, một giáo sư ở Đại Học California, và Sanny Chen, một chuyên viên về bệnh
dịch ở Phân Bộ Sức Khỏe San Francisco, đã nhận định rằng: “Việc đo lường tính
cách hiệu nghiệm của bọc cao su làm tình là một việc hầu như bất khả”. Bài viết
này cho biết tỉ lệ về hiệu năng của thứ bọc cao su làm tình an toàn này thường
được chấp nhận ở mức độ 90%.
Thế nhưng, con số tỉ lệ ấy vẫn chưa cho thấy hết hiệu năng của thứ bọc làm tình
an toàn này này trong vấn đề ngăn ngừa Hội Chứng Liệt Kháng. Chẳng hạn, bài báo
nhận định, “Ở nhiều quốc gia Hạ Mạc Sahara, mức độ truyền nhiễm vi khuẩn liệt
kháng cao vẫn tiếp tục lan tràn, bất chấp mức độ cao trong việc sử dụng bọc cao
su làm tình an toàn”. Hai vị tác giả của bài báo này đều công nhận rằng: “không
có một trường hợp rõ ràng nào cho thấy đã thoát khỏi nạn dịch chung này duy bằng
việc cổ võ việc sử dụng bọc cao su làm tình an toàn”.
Việc thành công đáng kể về tình trạng tràn lan Hội Chứng Liệt Kháng ở nước
Uganda là do một chương trình chú trọng tới việc hoãn sinh hoạt tình dục nơi
thành phần thanh thiếu niên, việc phát động tiết dục, việc khuyến khích thủy
chung vợ chồng, và việc sử dụng bọc cao su làm tình an toàn. Tuy nhiên, bài báo
này cho biết việc sử dụng bọc cao su làm tình là điều cuối cùng về tầm quan
trọng của những gì được liệt kê trong những việc ngăn ngừa Hội Chứng Liệt Khác ở
Uganda.
Trong tờ Tạp Chí Y Khoa Hiệp Vương Quốc, số ra ngày 10/4/2004, trong bài tựa đề
“Việc Giảm Bớt Đồng Bạn Làm Tình là Vấn Đề Quan Trọng Đối Với Biện Pháp Quân
Bình ‘ABC’ Trong Việc Ngăn Ngừa Hội Chứng Liệt Kháng”, đã nhấn mạnh hơn nữa đến
việc thay đổi tác hành tình dục. Bài báo này nhận định thế này: “Hiển nhiên là
không có vấn đề dịch Liệt Kháng toàn cầu nếu không xẩy ra tình trạng giao du
tình dục với nhiều người”.
Bài báo này còn nhận định là mặc dù bọc cao su làm tình an toàn được công nhận
là đã giúp vào việc giảm bớt mức độ cao bị nhiễm vi khuẩn liệt kháng, thì việc
sử dụng này cũng đã phải đi kèm với cả vấn đề giảm bớt giao du tình dục với
nhiều người nữa mới đươcỉc như thế.
Bác sĩ Joe Mcllhaney, trong tờ Atlanta Journal-Constitution ra ngày 25/8/2003,
đã viết: “căn cứ vào khoa học và chỉ duy vào khoa học mà thôi thì chỉ có một kết
luận duy nhất, đó là những bọc cao su không đủ an toàn trong vấn đề làm tình.
Những bọc cao su có thể làm giảm bớt một số nguy cơ nhưng chúng vẫn thường khiến
cho con người dễ bị nhiễm những chứng bệnh truyền nhiễm theo đường tình dục”.
Theo ông, nguyên ở Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ này hằng năm có trên 15 triệu trường
hợp bị bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục.
Trong bản tường trình cho Quốc Hội Hoa Kỳ của Các Trung Tâm Kiểm Soát và Ngăn
Ngừa Bệnh Tật, như được tờ Washington Times phổ biến ngày 3/2/2004, vị giám đốc
của hai trung tâm này là Tiến Sĩ Julie Gerberding, nói rằng để tránh bị chứng
bệnh truyền nhiễm theo đường tình dục “bằng việc sống với một người bạn tình
không bị lây nhiễm duy nhất”. Bản tường trình này còn cho biết rằng hầu hết các
cuộc nghiên cứu đều cho thấy rằng các thứ bọc cao su làm tình an toàn không ngăn
ngừa nổi tình trạng lan tràn chứng bệnh truyền nhiễm theo đường tình dục.
Có những dấu hiệu cho thấy nhiều chính phủ đã cảm thấy cần phải cổ võ việc tiết
dục. Vào ngày 15/3/2004, đài truyền hình BBC cho biết nước Zambia đã cấm không
cho phân phát những bọc cao su làm tình an toàn ở các trường học. Ông bộ trưởng
giáo dục Andrew Mulenga đã cắt nghĩa rằng những bọc cao su làm tình là những gì
khuyến khích giới trẻ hoan hưởng tiền hôn dâm. Theo tường trình của Liên Hiệp
Quốc thì có khoảng 120 ngàn người nước này bị chết vì Hội Chứng Liệt Kháng mỗi
năm.
Việc Giáo Hội Công
Giáo chống lại việc sử dụng các thứ bọc cao su làm tình an toàn không căn cứ vào
những nghiên cứu về y khoa, mà là vào chính phẩm giá của con người cũng như vào
bản chất cao quí của việc ân ái liên quan đến đời sống hôn nhân vợ chồng.
Theo tường trình của Liên Hiệp Quốc UNAIDS và WHO (World Health Organization )
ngày Thứ Ba 25/11/2003 hướng về Ngày Thế Giới Hội Chứng Liệt Kháng AIDS Thứ Hai
1/12/2003, thì có khoảng 40 triệu người đang bị nhiễm Vi Khuẩn Liệt Kháng trên
khắp thế giới. Nguyên trong năm 2003 (chưa tới cuối năm) đã có 5 triệu người bị
nhiễm và 3 triệu người bị chết vì hội chứng tử vong này, một con số chưa từng có.
Ở miền nam Phi Châu cứ 5 người lớn có 1 người bị nhiễm Vi Khuẩn Liệt Kháng hay
bị Hội Chứng Liệt Kháng này, một hội chứng hiện đang lan tràn đặc biệt tại Trung
Hoa, Ấn Độ, Nam Dương và Nga. Miền Hạ Mạc Sahara ở Phi Châu có nhiều vụ xẩy ra
nhất trong năm 2003, với 3 triệu trường hợp mới bị nhiễm và 2.3 triệu người bị
chết. Phi Châu chỉ có 2% dân số trên thế giới nhưng lại là nơi chiếm 30% bị
nhiễm Vi Khuẩn Liệt Kháng hay bị chết vì Hội Chứng Liệt Kháng này.
Hôm Thứ Hai 22/9/2003, tại Nữu Ước, một cuộc đại hội cao cấp của Liên Hiệp Quốc
đã diễn ra để kiểm điểm về cuộc họp liên quan đến “Việc Áp Dụng Tuyên Ngôn Dấn
Thân Về Vấn Đề HIV/AIDS”. ĐHY Claudio Hummes, TGM Sao Paulo, lãnh đạo phái đoàn
đại biểu của Tòa Thánh Vatican đã lên tiếng qua một bài diễn từ trước đại hội
như sau:
“HIV/AIDS đã từng là và vẫn còn là một trong những thảm hoạ chính yếu của thời
đại chúng ta. Nó không phải chỉ là vấn đề sức khỏe hết sức đáng lo ngại; nó còn
là vấn đề về xã hội, kinh tế và chính trị nữa; và như phái đoàn đại biểu chúng
tôi một số lần đã nhấn mạnh ở tại Liên Hiệp Quốc này cũng như ở những nơi khác,
nó còn là mảt vấn đề luân lý, vì những căn nguyên của hội chứng lây nhiễm này
hiển nhiên cho thấy cả một cuộc khủng hoảng trầm trọng về các thứ giá trị. Việc
lan truyền nhanh chóng của nó cũng như những hậu quả thảm khốc của nó đã không
tha cho một phần đất nào của gia đình nhân loại hết.
“Hơn 70 triệu người được cho rằng sẽ bị chết vị hội chứng liệt kháng AIDS trong
vòng 20 năm tới đây. Trong năm 2001, vào dịp Thượng Hội Giám Mục Công Giáo lần
thứ 10, các vị Giám Mục Phi Châu ở miền Hạ Mạc Sahara đã kêu gọi cộng đồng thế
giới cấp thời ra tay giúp đỡ họ chống lại trận chiến đấu với hiểm họa đang ‘gặt
hái một mùa chết chóc rùng rợn’ ở vùng đó. Thật vậy, đại đa số thành phần đã
chết cũng như của những ai chờ chết vì hội chứng liệt kháng AIDS, và những ai
đang bị nhiễm phải thứ khuẩn này đều ở vùng Hạ Mạc Sahara này.
“Xin cho phép tôi được đặc biệt đề cập đến một trong những nhóm nạn nhân của
HIV/AIDS đáng thương nhất đó là thành phần trẻ em của chúng ta. Rất nhiều người
trong các em đã và vẫn tiếp tục trở thành những nạn nhân của hội chứng lây nhiễm
này, hoặc vì các em bị lây nhiễm bởi vi khuẩn truyền sang cho các em qua đường
sinh sản, hay vì các em trở thành mồ côi bởi cha mẹ các em bị chết yểu do hội
chứng liệt kháng AIDS gây ra.
“HIV/AIDS đang làm tăng số tử vong nơi trẻ em rất nhiều: trong số 19 triệu em
dưới 15 tuổi năm ngoái đã có 3 triệu 8 đã chết vì hội chứng liệt kháng AIDS này.
Trong hai thập niên vừa rồi đã có trên 14 triệu em bị mồ côi, trong đó có 11
triệuở miền hạ Sa Mạc Saraha. Theo một bản ước tính thì vào năm 2010 sẽ có tới
40 triệu trẻ em bị mồ côi bởi hội chứng AIDS, trong đó, 95% sẽ có thứ khuẩn này…….
“Tòa Thánh và các tổ chức Công giáo đã không chịu thua trong trận chiến toàn cầu
chống lại HIV/AIDS. Phái đoàn đại biểu chúng tôi hân hạnh ghi nhận là có 12% số
thành phần chăm sóc cho các bệnh nhân HIV/AIDS là các cơ quan của Giáo Hội Công
giáo và 13% cơ quan trên thế giới xoa dịu những ai bị hội chứng lây nhiễm này là
các tổ chức Công giáo phi chính phủ. Nhờ các tổ chức của mình trên khắp thế giới,
Tòa Thánh cung cấp 25% việc chăm sóc cho các nạn nhân HIV/AIDS, dẫn đầu thành
phần biện hộ ở lãnh vực này, nhất là nơi những thành phần chăm sóc tận tâm nhất
cho các nạn nhân này ở khắp nơi.
“Thật vậy, trong năm nay, qua Hội Đồng Tòa Thánh Phụ Trách Ngành Chăm Sóc Sức
Khỏe cũng như qua các tổ chức Công Giáo khác nhau, Tòa Thánh sẽ đạt được mục
tiêu của mình trong việc thiết lập các tổ chức và chương trình hoạt động ở tất
cả các xứ sở thuộc miền hạ Sa Mạc Sahara, cũng như bắt đầu có những tổ chức và
chương trình hoạt động mới ở Ba Tây, Á Căn Đình, Mễ Tây Cơ, Thái Lan và
Lithuania, thêm vào những tổ chức và chương trình hoạt động hiện có nơi các quốc
gia khác trên khắp thế giới. Những tổ chức và chương trình hoạt động này cung
cấp nhiều dịch vụ khác nhau, từ những cuộc vận động ý thức đến việc giáo dục
liên quan đến việc tác hành một cách hữu trách, từ việc huấn dụ đến việc trợ
giúp về luân lý, từ những trung tâm dinh dưỡng đến các cô nhi viện, từ việc chữa
trị ở bệnh viện đến việc chăm sóc tại gia và tại lao tù đối với thành phần bệnh
nhân bị HIV/AIDS…...”