GIÁO HỘI HIỆN THẾ
Tháng 8/2004
Ý Chỉ Ðức Thánh Cha
Ý Chung: “Xin cho Khối Hiệp Nhất Âu Châu tìm thấy sinh lực mới nơi gia sản Kitô giáo của mình là những gì thiết yếu làm nên văn hóa và lịch sử của lục địa này”.
Ý Truyền Giáo: “Xin cho các dòng tu đang hoạt động tại các xứ truyền giáo gia tăng mối hiệp thông và việc hợp tác với nhau hơn nữa”.
__________________
NGÀY 18 THỨ TƯ |
Hôm nay Thứ Tư, theo thông lệ hằng tuần, Ðức Thánh Cha gặp gỡ chung các tín hữu,
gọi là buổi triều kiến chung, một buổi gặp gỡ chung Ngài thường dùng để chia sẻ
các đề tài về giáo lý. Tuy nhiên, sau mỗi chuyến tông du của mình, Ngài thường
dùng buổi triều kiến chung này để chia sẻ cảm nghiệm của Ngài về chuyến tông du
ấy. Hôm nay, Thứ Tư 18/8/2004, sau chuyến tông du 104 của mình ở Lộ Ðức
(14-15/8/2004) cuối tuần vừa qua, ÐTC cũng vẫn tiếp tục làm điều này. Xin xem
bài chia sẻ của Ngài hôm nay vào ngày mai. Thay vào đó, hôm nay chúng ta hãy
cùng nhau ôn lại Bài Giáo Lý Cầu Nguyện Bằng Thánh Vịnh thứ 113 của Ngài được
Ngài chia sẻ hôm Thứ Tư 28/7/2004 về Thánh Vịnh 15 [16] – cho Kinh Tối Thứ Bảy,
Tuần Thứ Nhất sau đây:
Chúa Giêsu Kitô thực sự là “gia sản quí hóa” duy nhất của chúng ta
1. Chúng ta đã có cơ hội để suy niệm về một bài Thánh
Vịnh có tính cách linh thiêng mạnh mẽ, sau khi nghe bài Thánh Vịnh này và dùng
bài ấy để cầu nguyện. Mặc dù có những vấn đề khó khăn của bài Thánh Vịnh này,
những khó khăn có thể thấy được nơi nguyên ngữ Do Thái, nhất là ở những câu đầu,
bài Thánh Vịnh 15 (16) vẫn là một bài ca vịnh huyền nhiệm sáng ngời, như được tỏ
hiện ở lời tuyên xưng đức tin mở đầu: “Tôi thưa cùng Chúa, Ngài là Chúa của tôi,
Ngài là sụ thiện duy nhất của tôi” (câu 2). Bởi vì Thiên Chúa được nhìn nhận như
là một sự thiện duy nhất mà con người nguyện cầu mới quyết định trở nên thành
phần cộng đồng của tất cả những ai trung nghĩa với Chúa, đó là “các vị thánh
nhân của mảnh đất này […]” ([xem] câu 3). Tóm lại, vị tác giả Thánh Vịnh loại
trừ một cách phân loại khuynh hướng theo ngẫu tượng với những nghi thức đầy máu
me cùng với những lời kêu cầu phạm thượng (xem câu 4).
Đó là một sự quyết định rõ ràng và dứt khoát, một quyết định dường như âm vang
cái quyết định của bài Thánh Vịnh 72, một bài ca khác của lòng tin tưởng vào
Thiên Chúa, một quyết định đạt được bằng việc lựa chọn đầy khó khăn mãnh liệt về
luân lý: “Tôi còn có ai khác ở trên các tầng trời đây? Chỉ có Ngài mới là Đấng
làm cho tôi sống hân hoan trên thế gian này. … Đối với tôi, sự thiện của tôi là
được ở gần gũi Chúa, là lấy Chúa Thiên Chúa của tôi làm nơi tôi nương náu” (Ps
72:25,28).
2. Bài Thánh Vịnh của chúng ta đây khai triển hai đề tài
được diễn tả bằng ba biểu hiệu. Trước hết là biểu hiệu “di sản”, một từ ngữ làm
chủ hai câu 5 và 6: Thật vậy, từ ngữ này nói về “phần nghiệp, chén, thừa hưởng”.
Những lời này được sử dụng để diễn tả về tặng ân đất hứa cho dân Do Thái. Nhưng
chúng ta biết rằng chỉ có một chi họ duy nhất không được hưởng mảnh đất này là
chi họ Lêvi, vì chính Chúa là di sản của họ rồi. Vị tác giả Thánh Vịnh nói một
cách riêng biệt rằng: “Lạy Chúa, phần nghiệp của tôi… xứng hợp với tôi thực sự
là gia sản của tôi” (Ps 15[16]:5,6). Thế nên, vị tác giả này đã tỏ mình ra như
là một vị tư tế cho thấy niềm vui được hoàn toàn dấn thân phụng vụ Thiên Chúa.
Thánh Âu Quốc Tinh nhận định rằng: “Vị tác giả Thánh Vịnh không nói: Ôi Thiên
Chúa, xin hãy ban di sản cho tôi! Ngài sẽ ban cho tôi những gì làm di sản? Nhưng
lại thân thưa rằng: hết mọi sự Ngài ban cho tôi ngoài chính bản thân Ngài ra đều
là những gì tầm thường hèn mọn. Chính Ngài mới là di sản của tôi. Chính Ngài mới
là Đấng tôi yêu mến… là Đấng nhờ Ngài tôi hy vọng được Ngài, là Đấng tôi được
tràn đầy bởi Ngài. Mình Ngài là đủ cho tôi; ngoài Ngài ra không gì có thể làm
anh em mãn nguyện” (Sermon 334,3: PL 38, 1469).
3. Đề tài thứ hai là đề tài về một mối hiệp thông trọn
vẹn và liên tục với Chúa. Vị tác giả Thánh Vịnh bày tỏ niềm hy vọng vững mạnh
được gìn giữ khỏi tử thần để có thể được thân mật ở cùng Thiên Chúa, một cuộc
thân tình không thể nào bị hủy diệt (see Psalm 6:6; 87:6). Tuy nhiên, những lời
baỳy tỏ của vị tác giả Thánh Vịnh này không có một giới hạn nào cho việc gìn giữ
ấy; trái lại, nhũng lời ấy có thể được hiểu theo chiều hướng của một cuộc chiến
thắng trên tử thần là những gì bảo đảm cho sự thân mật hằng hữu với Thiên Chúa.
Con người nguyện cầu này sử dụng hai biểu hiệu nữa. Trước hết là biểu hiệu về
thân xác, ở chỗ, các nhà dẫn giải Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng, theo nguyên
ngữ Do Thái (xem câu 7-10) thì có “những sợi giây lòi tói” được nhắc tới, một
biểu hiệu cho những gì là khổ nạn cũng như cho những gì là nội tại sâu xa nhất,
cho “điều hay lẽ phải”, dấu hiệu của sức mạnh, cho “con tim cõi lòng”, ngai tòa
của lương tri, rồi nhắc tới “gan mật”, tiêu biểu của cảm xúc, tới “xác thịt”,
những gì nói lên cuộc sống mỏng dòn của con người, và sau cùng tới “hơi thở sự
sống”.
Tức là nói lên “toàn diện hữu thể” của một con người được thu hút và tiêu tan đi
trong tình trạng hủy hoại của mộ bia tối tăm (xem câu 10), nhưng lại được gìn
giữ sống động hoàn toàn hạnh phúc với Thiên Chúa.
4. Biểu hiệu thứ hai của bài Thánh Vịnh 15 (16) này là
biểu hiểu “con đường”: “Ngài sẻ chỉ cho tôi đường lối sự sống” (câu 11). Chính
con đường này là đường lối dẫn đến “niềm vui dạt dào” trước “sự hiện diện” thần
linh, “đến những hoan lạc… muôn đời” trong “bàn tay hữu” của Chúa. Những lời này
hoàn toàn hợp với việc giải thích bao gồm quan điểm hy vọng được hiệp thông với
Thiên Chúa trong sự sống trường sinh bất tử.
Bởi thế, tới đây mới dễ trực giác thấy được rằng bài Thánh Vịnh này đã được Tân
Ước sử dụng để nói về cuộc phục sinh của Chúa Kitô. Trong bài diễn từ vào Ngày
Lễ Ngũ Tuần, Thánh Phêrô thật sự đã trích dẫn phần thứ hai của bài thánh thi ca
này để áp dụng vào cuộc vượt qua vinh hiển cũng như vào Chúa Kitô như sau: “Thế
nhưng, Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi gông cùm sự
chết, vì Người không thể nào lại bị nó cầm giữ” (Acts 2:24).
Thánh Phaolô sử dụng bài Thánh Vịnh 15 (16) này để loan báo Cuộc Vượt Qua của
Chúa Kitô trong bài nói của thánh nhân tại hội đường Antiôkia ở Pisidia. Chúng
ta cũng loan báo Người theo chiều hướng ấy: “’Ngài sẽ không để cho Đấng Thánh
của Ngài phải nếm mùi hủy hoại’. Vậy Đavít, sau khi đã phục vụ ý muốn của Thiên
Chúa suốt cuộc sống của mình đã được gọi về với tổ phụ của ông và đã nếm mùi hủy
hoại. Thế nhưng, Đấng đợc Thiên Chúa phục sinh không nếm mùi hủy hoại” (Acts
13:35-37).
Anh chị em thân mến,
Bài giáo lý hôm nay nói đến bài Thánh Vịnh 15, một bài thánh vịnh được tác giả
của nó ngợi khen Chúa như là “di sản yêu quí” của mình. Việc mạnh mẽ loại trừ
ngẫu tượng ấy là hành động sâu xa tin tưởng vào Chúa là “nơi nương náu” duy nhất
của chúng ta.
Bài Thánh Vịnh 15 khai triển hai đề tài chính, đó là đề tài về di sản và đề tài
về hiệp thông. Dường như tác giả bài Thánh Vịnh này thuộc về chi họ Lêvi nên đã
không được đất hứa làm gia nghiệp. Ông tuyên xưng rằng đối với ông không có gì
quan trọng bằng Thiên Chúa và niềm vui được hoàn toàn hiến thân phụng sự Ngài.
Như Thánh Âu Quốc Tinh ghi nhận thì vị tác giả Thánh Vịnh đây không xin Thiên
Chúa hưởng phần di sản, vì chính Ngài là di sản của ông ta rồi vậy.
Đề tài thứ hai, đề tài hiệp thông với Chúa, đề tài nói về một niềm hy vọng mạnh
mẽ được luôn ở gần Thiên Chúa. Định mệnh tối hậu của con người là sự sống đời
đời, và những hình ảnh về một thứ “thân xác” được “yên nghỉ an toàn” và về một
“đường lối” dẫn đến “niềm vui trọn vẹn” rõ ràng nói lên rằng định mệnh này được
nên trọn nơi cuộc phục sinh của Chúa Kitô.
Chớ gì cả chúng ta nữa cũng khám phá thấy niềm vui của Chúa Cứu Thế phục sinh,
khi mỗi ngày chúng ta loan truyền rằng Chúa Giêsu Kitô thực sự là “gia sản quí
hóa” duy nhất của chúng ta.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến vào ngày Thứ Tư,
28/7/2004.