GIÁO HỘI HIỆN THẾ
Tháng 8/2004
Ý Chỉ Ðức Thánh Cha
Ý Chung: “Xin cho Khối Hiệp Nhất Âu Châu tìm thấy sinh lực mới nơi gia sản Kitô giáo của mình là những gì thiết yếu làm nên văn hóa và lịch sử của lục địa này”.
Ý Truyền Giáo: “Xin cho các dòng tu đang hoạt động tại các xứ truyền giáo gia tăng mối hiệp thông và việc hợp tác với nhau hơn nữa”.
__________________
NGÀY 5 THỨ NĂM |
KHOA GIÁO HỘI HỌC
CỦA CÔNG ĐỒNG
CHUNG VATICANÔ II
(TIẾP Thứ Tư)
ĐHY Joseph Ratzinger, Tổng Trưởng Thánh Bộ
Đức Tin
Bài Mở Đầu cho Hội Nghị Mục Vụ của Giáo Phận Aversa Ý Quốc chiều ngày 15/9/2001
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL
Chuyển dịch từ tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh Ngữ,
N.4- 23/1/2002, trang 5-7
III.- Một Giáo
Hội Học Hiệp Thông
Vào khoảng thời gian của Thượng Hội Giám Mục Thế Giới ngoại lệ năm 1985, một
thượng hội cố gắng để thẩm định Công Đồng sau 20 năm bế mạc, đã có một nỗ lực
mới trong việc tổng hợp khoa giáo hội học của Công Đồng. Việc tổng hợp này
liên quan đến một quan niệm cơ bản, đó là khoa giáo hội học hiệp thông. Tôi
rất thích thú với mục tiêu mới này về khoa giáo hội học, và tôi đã nỗ lực bao
nhiêu có thể để giúp thực hiện vấn đề này. Trước hết, người ta cần phải công
nhận rằng chữ “communio” đã không chiếm được một vị thế chính yếu trong Công
Đồng. Cũng phải công nhận là, nếu được hiểu đúng, nó có thể giúp vào việc tổng
hợp những yếu tố chính yếu cho khoa giáo hội học của Công Đồng. Tất cả mọi yếu
tố chính yếu của quan niệm Kitô Giáo về “hiệp thông” có thể thấy được nơi đoạn
quen thuộc ở trong Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan (1:3); nó là một điểm qui
chiếu để hiểu được đúng đắn về “mối hiệp thông” của Kitô Giáo. “Những gì chúng
tôi đã thấy và đã nghe chúng tôi loan truyền cho anh em, để anh em cũng được
hiệp thông (communio) với chúng tôi; mối hiệp thông của chúng ta với Chúa Cha
và với Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Chúng tôi viết điều này để niềm vui của
chúng tôi được nên trọn”. Khởi điểm của vấn đề hiệp thông đã trở nên hiển
nhiên rõ ràng trong đoạn thư này, đó là mối hiệp nhất với Người Con của Thiên
Chúa là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đến với loài người qua việc Giáo Hội loan báo.
Mối hiệp thông nơi loài người được phát xuất ở chỗ này và vươn tới mối hiệp
thông với Vị Thiên Chúa Duy Nhất Ba Ngôi. Người ta có thể tiến đến mối hiệp
thông với Thiên Chúa qua việc hiện thực mối hiệp thông của Thiên Chúa với con
người – đó là nơi ngôi vị Chúa Kitô. Việc gặp gỡ Chúa Kitô tạo nên mối hiệp
thông với Người và nhờ đó với Cha trong Thánh Thần. Điều này hiệp nhất con
người lại với nhau. Mục đích của tất cả mọi sự này đó là niềm vui trọn vẹn, ở
chỗ Giáo Hội ôm ấp trong lòng mình một thứ năng lực cánh chung. Lời diễn tả
“trọn vẹn niềm vui” này gợi nhớ đến lời từ biệt của Chúa Giêsu, nhắc lại mầu
nhiệm Vượt Qua của Người và nhắc lại việc Chúa trở lại qua những lần hiện ra
Phục Sinh tiên báo việc Người trở lại lần sau hết ở một thế giới mới. “Các con
sẽ phải sầu đau, nhưng nỗi đau buồn của các con sẽ trở thành niềm vui… Thày sẽ
gặp lại các con và lòng các con sẽ hân hoan…. hãy xin các con sẽ được ban cho
để niềm vui của các con được trọn vẹn” (Jn 16:20,22,24). Nếu câu này được đem
so sánh với lời mời gọi nguyện cầu trong Phúc Âm Thánh Luca (11:13), thì rõ
ràng là “niềm vui” này và “Thánh Thần” đồng nghĩa với nhau. Mặc dù Thánh Gioan
không minh nhiên đề cập đến Chúa Thánh Thần trong Bức Thư Thứ Nhất của mình
(1:3), ngài cũng đã bao hàm trong chữ “niềm vui” ấy. Theo chiều hướng thánh
kinh này, chữ “hiệp thông” có một đặc tính thần học, Kitô học, cứu độ học và
giáo hội học. Nó hoan hưởng cả chiều kích bí tích hết sức hiển nhiên nơi Thánh
Phaolô nữa: “Chén chúc tụng chúng ta chúc tụng không phải là một cuộc hiệp
thông trong máu của Chúa Kitô hay sao? Tấm bánh chúng ta bẻ ra không phải là
việc hiệp thông nơi thân mình của Chúa Kitô hay sao? Vì chỉ có một tấm bánh
duy nhất chúng ta dù nhiều cũng chỉ là một thân thể duy nhất…” (1Cor 10:16ff).
Khoa giáo hội học về hiệp thông tận căn bản của mình là khoa giáo hội học về
Thánh Thể. Chính vì rất gần gũi với khoa giáo hội học về Thánh Thể mà các thần
học gia Chính Thống Giáo đã rất hăng say khai triển vấn đề này trong thế kỷ
vừa qua. Nơi khoa giáo hội học về Thánh Thể này, như chúng ta đã thấy, khoa
giáo hội học đã trở nên cụ thể hơn, trong khi vẫn hoàn toàn có tính cách
thiêng liêng, siêu việt và cánh chung. Nơi Thánh Thể, Chúa Kitô, hiện diện nơi
bánh cùng rượu và ban Mình một lần nữa, xây dựng Giáo Hội là Thân Mình của
Người, và bằng Thân Thể Phục Sinh của mình, Người hiệp nhất chúng ta với Vị
Thiên Chúa Duy Nhất Ba Ngôi cũng như với nhau. Thánh Thể được cử hành ở những
nơi khác nhau đồng thời cũng được cử hành một cách phổ quát, vì chỉ có một
Chúa Kitô duy nhất và chỉ có một thân thể duy nhất của Chúa Kitô. Thánh Thể
hiến cho việc làm tư tế cái ý nghĩa đại diện Chúa Kitô “repraesentatio
Christi” cũng như cho cơ cấu của việc làm ấy một ý nghĩa tổng hợp cho cả mối
hiệp nhất và đa dạng được diễn tả nơi từ ngữ “hiệp thông”. Người ta thật sự có
thể nói rằng quan niệm hiệp thông này nói lên một thứ tổng hợp cho khoa giáo
hội học, một tổng hợp bao gồm việc đối thoại của Giáo Hội với việc đối thoại
của Thiên Chúa cũng như với sự sống bởi Thiên Chúa và với Thiên Chúa. Vấn đề
tổng hợp này gồm tóm tất cả mọi ý hướng chính yếu của khoa giáo hội học của
Công Đồng Chung Vaticanô II và nối kết các ý hướng này với nhau một cách thích
hợp.
Vì những lý do ấy mà tôi vừa biết ơn vừa vui mừng khi thấy Thượng Hội năm 1985
đã đặt vấn đề “hiệp thông” làm trọng tâm bàn luận của mình. Những năm sau đó
đã cho thấy sự kiện là không có một lời lẽ nào mà lại an toàn tránh được bị
hiểu lầm, ngay cả chữ hay nhất và ý nghĩa nhất. Đối với “hiệp thông” là vấn đề
đã dễ dàng trở thành một câu tâm niệm, nó đã bị hạ bệ và bóp méo. Như đã từng
xẩy ra cho quan niệm “Dân Chúa”, người ta đã phải vạch ra cho thấy một thứ
kiến thức phát triển theo hàng ngang là một thứ kiến thức loại trừ quan niệm
về Thiên Chúa. Khoa giáo hội học về hiệp thông đã bị biến thành một thứ ý
nghĩa liên hệ giữa Giáo Hội địa phương với Giáo Hội hoàn vũ; điều này lại được
biến thành vấn đề xác định lãnh vực thẩm quyền của mỗi Giáo Hội (địa phương và
hoàn vũ). Theo đó vấn đề bình đẳng một lần nữa nhập cuộc, đó là vấn đề chỉ
hoàn toàn bình đẳng mới có thể “hiệp thông”. Cả ở đây nữa cũng lại xẩy ra vấn
đề tranh luận giữa các môn đệ về việc ai làm kẻ cả trong các vị. Vấn đề này
hiển nhiên là vấn đề không thể giải quyết được trong một thế hệ duy nhất. Đoạn
trình thuật của Thánh Marcô về biến cố này là một trình thuật hay nhất. Trên
đường đi từ Giêrusalem, Chúa Giêsu đã nói với các Môn Đệ của Người về Cuộc Khổ
Nạn của Người lần thứ ba. Khi các vị tới Capernaum, Người đã hỏi các vị về
những gì các vị nói với nhau ở dọc đường. “Các vị đều nín thinh”, vì các vị đã
bàn với nhau xem ai là kẻ cả, một thứ bàn luận về tối thượng quyền (Mk
9:33-37). Đó không phải chính là những gì đang xẩy ra hôm nay đây hay chăng?
Nếu Chúa Kitô đang tiến đến Cuộc Khổ Nạn của Người, thì với Chúa Kitô Giáo Hội
cũng đang chịu đau khổ, trong khi đó chúng ta lại nhào vào việc bàn luận thích
thú của mình là ai sẽ là kẻ cả nắm quyền bính. Nếu Người xuất hiện giữa chúng
ta và hỏi chúng ta đang nói gì thế chúng ta sẽ thẹn thùng không dám nói năng
gì.
Điều này không có nghĩa là không cần phải bàn đến việc quản trị tốt đẹp cũng
như đến việc phân phối trách nhiệm trong Giáo Hội. Thật sự là có những điều
bất quân bình cần phải sửa chữa. Chúng ta cần phải chú ý và nhổ tận gốc rễ một
thứ tập trung hóa vào Tòa Thánh Rôma một cách thái quá là những gì bao giờ
cũng có thể gây nguy hại. Thế nhưng, những vấn đề thuộc loại này cũng không
được làm cho chúng ta phân tâm thi hành sứ vụ thật sự của Giáo Hội, bởi vì,
Giáo Hội không được loan báo về mình mà là về Thiên Chúa. Chính vì để bảo đảm
cho vấn đề này được thực hiện một cách thuần khiết nhất mới có vấn đề kiểm
điểm trong Giáo Hội. Vấn đề kiểm điểm này phải bảo đảm được một thứ tương quan
giữa việc đối thoại với Thiên Chúa và việc phục vụ chungỉ. Tóm lại, không phải
ngẫu nhiên những lời Chúa Giêsu phán “kẻ làm đầu sẽ làm kẻ cuối rốt và kẻ cuối
rốt sẽ là kẻ cả” đã xẩy ra hơn một lần trong Phúc Âm. Những lời ấy giống như
tấm gương soi luôn ở trước mặt tất cả chúng ta.
Đối diện với việc biến quan niệm về “hiệp thông” hậu thượng hội 1985, Thánh Bộ
Tín Lý Đức Tin đã nghĩ rằng cần phải dọn một “Bức Thư gửi Các Vị Giám Mục Công
Giáo liên quan đến Một Số Khía Cạnh về Giáo Hội được hiểu như là một Mối Hiệp
Thông”. Bức Thư này đã được ban hành vào ngày 28/5/1992. Ngày nay bất cứ thần
học gia nào quan tâm đến thế giá của mình đều cảm thấy cần phải phê phán tất
cả mọi văn kiện của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin. Bức Thư của chúng tôi gặp phải
một trận bão tố phê phán, rất ít đoạn trong bản văn này được chấp nhận. Câu
gây ra cuộc tranh luận nhiều nhất là câu này: “nơi mầu nhiệm chính yếu của
mình Giáo Hội hoàn vũ là một thực tại có trước hết mọi Giáo Hội riêng về
phương diện bản chất cũng như trần thế” (đoạn 9). Câu nói này được căn cứ vào
một trích dẫn ngắn theo nhận định Giáo Phụ học là Giáo Hội duy nhất đặc thù có
trước việc thiết lập các Giáo Hội riêng và hạ sinh ra các giáo hội riêng này.
Các Vị Giáo Phụ đã lập lại một quan niệm của hàng tôn sư Do Thái là Sách Ngũ
Kinh và dân Do Thái đã có trước. Việc tạo dựng đã được cưu mang như để cung
cấp chỗ cho Ý Muốn của Thiên Chúa. Ý Muốn này cần có một dân tộc sống cho Ý
Muốn của Thiên Chúa và làm cho Ý Muốn này trở thành Ánh Sáng thế gian. Vì các
Vị Giáo Phụ đã nhận thấy rõ căn tính tối hậu của Giáo Hội và của dân Do Thái,
các vị đã không thể nào cho Giáo Hội như là một điều gì đó ngẫu nhiên, một
điều gì đó mới được thiết lập; trong cuộc qui tụ dân chúng này lại theo Ý Muốn
của Thiên Chúa, các vị Giáo Phụ đã công nhận thần học nội tại của việc tạo
dựng. Bắt đầu với khoa Kitô học, hình ảnh này được nới rộng và đào sâu, ở chỗ,
các vị đã cắt nghĩa lịch sử, theo ảnh hưởng của Cựu Ước, như là một câu truyện
yêu thương giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa tìm kiếm và sửa soạn cho
Con Ngài một vị Hôn Thê, vị Hôn Thê có một không hai chính là Giáo Hội đặc thù.
Theo ý nghĩa của Sách Khởi Nguyên đoạn 2 câu 24, đoạn trình thuật người nam và
người nữ là “hai trở nên một thân thể”, hình ảnh về Vị Hôn Thê hiện lên với ý
nghĩ về việc Giáo Hội là Thân Mình của Chúa Kitô, một so sánh theo phụng vụ
Thánh Thể. Thân Mình đặc thù của Chúa Kitô đã được sửa soạn; Chúa Kitô và Giáo
Hội là “hai trở nên một”, một thân thể duy nhất, nhờ đó, “Thiên Chúa sẽ trở
nên mọi sự cho mọi người”. Tính cách tiền hữu về bản thể của Giáo Hội hoàn vũ,
một Giáo Hội đặc thù, một Thân Mình đặc thù, một Hôn Thê đặc thù, so sánh với
những tỏ hiện theo kinh nghiệm và cụ thể của các Giáo Hội riêng khác nhau, là
những gì tôi thấy được là quá hiển nhiên, đến nỗi tôi thấy khó lòng mà hiểu
được những lời chống đối không chấp nhận vấn đề này. Những chống đối này chỉ
có thể xẩy ra khi người ta không muốn hay không thể công nhận một Giáo Hội cao
cả đã được Thiên Chúa cưu mang, có thể là vì họ bị thất vọng trước những thiếu
sót về phương diện trần gian của Giáo Hội. Những điều chống đối này giống như
những thứ gào thét về thần học. Tất cả những điều này vẫn là một thứ hình ảnh
kinh nghiệm về những mối tương hệ của các Giáo Hội cùng với những xung khắc
của những giáo hội này. Như thế có nghĩa là Giáo Hội được coi như là một đề
tài về thần học đã bị loại bỏ rồi. Nếu người ta chỉ có thể nhìn thấy Giáo Hội
như là một cơ cấu phàm nhân, thì tất cả những gì còn lại chỉ là tàn rụi thôi.
Trong trường hợp này, người ta đã loại trừ chẳng những khoa giáo hội học của
các vị Giáo Phụ, mà còn cả khoa giáo hội học của Tân Ước cũng như của ý thức
dân Do Thái theo Cựu Ước nữa. Không phải chỉ có những ngụy thư Phaolô sau này
và Sách Khải Huyền đã xác nhận tính cách tiền hữu theo bản thể của Giáo Hội
hoàn vũ đối với các Giáo Hội riêng (Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin cũng đã tái xác
định như thế). Quan niệm này có thể được thấy nơi những bức đại thư của Thánh
Phaolô, chẳng hạn trong Thư gửi Giáo Đoàn Galata, Thánh Tông Đồ đã nói về
Giêrusalem trên trời không phải như một điều gì đó có tính cách lớn lao và
cánh chung, mà là như một điều gì đó có trước chúng ta: “Giêrusalem này là mẹ
của chúng ta” (Gal 4:26). H. Schlier giải thích là đối với Thánh Phaolô, vị
được thấm nhuần truyền thống Do Thái, thì Giêrusalem trên trời là một thời đai
mới. Đối với Thánh Phaolô thì thời đại mới này đã hiện hữu rồi “nơi Giáo Hội
Chúa Kitô. Đối với ngài, Giáo Hội là Giêrusalem thiên đình nơi con cái của
Giáo Hội”.
Tôi xin kết luận thế này. Để hiểu được khoa giáo hội học của Công Đồng Chung
Vaticanô II, người ta không thể coi thường không biết đến hai chương 4 và 7
của Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân. Những chương này bàn về thành phần giáo dân,
về ơn gọi phổ quát nên thánh, về chiều hướng đạo nghĩa và cánh chung của Giáo
Hội. Trong những chương này, mục tiêu sâu xa của Giáo Hội, yếu tố thiết yếu
nhất của bản thể Giáo Hội, lại được nổi bật là sự thánh thiện, nên giống Thiên
Chúa. Cần phải giành chỗ cho Thiên Chúa trên thế giới này, nơi Ngài có thể tự
do ngự trị nhờ đó thế giới này trở nên “Vương Quốc” của Ngài. Sự thánh thiện
là điều cao cả hơn phẩm chất luân lý. Nó là sự hiện diện của Thiên Chúa nơi
loài người, của loài người với Thiên Chúa; nó là “chiếc lều” của Thiên Chúa
được cắm nơi loài người ở giữa chúng ta (x Jn 1:14). Nó là một cuộc tái sinh,
không phải bởi huyết nhục mà bởi Thiên Chúa (Jn 1:13). Hướng chiều về sự thánh
thiện cũng là một thứ hướng chiều về sự cánh chung. Bắt nguồn từ sứ điệp của
Chúa Giêsu, nó là nền tảng đối với Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu là để trở nên
nơi Thiên Chúa ngự trị trên thế gian này, là để trở nên “thánh thiện”. Đây là
lý do duy nhất Giáo Hội cần phải tranh đấu, chứ không phải vấn đề tiền hữu hay
vấn đề chiếm được chỗ nhất. Tất cả những vấn đề này đã được lập lại và tổng
hợp ở chương cuối cùng của Hiến Chế về Giáo Hội, chương giành cho Người Mẹ của
Chúa Kitô.
Như mọi người đều biết, vấn đề giành hẳn một văn kiện đặc biệt cho Mẹ Maria đã
được tranh luận rất nhiều. Dù sao tôi cũng tin rằng việc đưa yếu tố Thánh Mẫu
trực tiếp vào tín lý về Giáo Hội là điều thích hợp. Có thế, khởi điểm của vấn
đề chúng ta cân nhắc đây một lần nữa được sáng tỏ hơn: ở chỗ, Giáo Hội không
phải là một thứ thiết bị, cũng không phải là một tổ chức xã hội trong nhiều tổ
chức xã hội khác. Giáo Hội là một con người. Giáo Hội là một người nữ. Giáo
Hội là một Người Mẹ. Giáo Hội sống động. Kiến thức Thánh Mẫu về Giáo Hội hoàn
toàn phản lại với quan niệm về Giáo Hội như là một thứ chế độ quan liêu phong
kiến hay chỉ là một thứ tổ chức thuần túy. Chúng ta không thể tạo nên Giáo
Hội, chúng ta cần phải là Giáo Hội. Chúng ta là Giáo Hội, Giáo Hội ở trong
chúng ta chỉ ở tại chỗ đức tin của chúng ta hơn là hành động của chúng ta
khuôn đức hữu thể của chúng ta. Chỉ bằng việc trở thành Thánh Mẫu chúng ta mới
có thể trở thành Giáo Hội. Ngay từ khởi nguyên của mình, Giáo Hội đã không
được tạo thành nên mà là được hạ sinh ra. Giáo Hội hiện hữu nơi linh hồn của
Mẹ Maria từ lúc Mẹ thốt lên lời xin vâng. Đây là ý muốn sâu xa nhất của Công
Đồng, đó là Giáo Hội phải được thức tỉnh nơi tâm hồn của chúng ta. Mẹ Maria
chỉ cho chúng ta thấy con đường này.