GIÁO HỘI HIỆN THẾ

Tháng 9/2004

Ý Chỉ Ðức Thánh Cha

 

Ý Chung: “Xin cho thành phần cao niên được coi như là vốn liếng cho việc phát triển của xã hội về tinh thần cũng như về nhân bản”.

 

Ý Truyền Giáo: “Xin cho việc hợp tác huynh đệ thực sự ở Phi Châu được phát triển nơi tất cả mọi thành phần hoạt động cho việc phát triển các cộng đồng giáo hội”.  

 

__________________

 NGÀY 26 CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN NĂM C

  

CHÚA NÓI TRONG TÂM HỒN


- Tôi mà nghe Chúa bảo tôi phải chết, tôi cũng sẵn lòng chết.
- Tôi mà được Chúa gọi tôi, thì chân trời, góc biển nào tôi cũng tới.
- Tôi mà được nghe Chúa gọi, thì vợ con, nhà cửa, địa vị, và mọi thứ tôi cũng bỏ hết.

Đó là những lời mà nếu thực hành cách đầy đủ có thể tạo nên những vĩ nhân, anh hùng, và các vị thánh. Còn gì cao quí và giá trị hơn được Chúa nói, được tâm sự và đàm đạo với Ngài; nhất là hiểu được Ngài muốn ta làm gì, và thực hành những điều Ngài muốn. Được một linh mục, Giám Mục, Hồng Y, nhất là Giáo Hoàng nói truyện, và nhờ cậy đã là một vinh dự lớn lao, nói chi đến việc được nghe Chúa nói và nói với Ngài. Những trường hợp ấy, dù có chết cũng vui lòng.

Nhưng sự thật lại hoàn toàn khác. Trong đời sống tâm linh, trong cõi siêu hình, sự tương phản ấy vẫn thường xuyên xẩy ra mọi ngày trong đời sống của nhiều người. Thiên Chúa không những đã nói với họ không phải một lần, mà có khi ngàn lần, vạn lần nhưng những người này vẫn coi thường, và vẫn xem như không hề có Ngài.

Nhà phú hộ được Thánh Luca ghi lại cách rất tỷ mỷ trong trích đoạn Tin Mừng, đã cho chúng ta một hình ảnh về những con người tuy trong tâm hồn lời Chúa vẫn ẩm ỷ, rên rỉ cảnh giác, mà bề ngoài họ vẫn cứ tỉnh bơ như không nghe, hoặc không biết. Thánh Luca ghi lại mẩu đối thoại giữa nhà phú hộ đó trong hỏa ngục và Tổ Phụ Abraham, một hình ảnh phản ảnh cuộc sống của nhiều người. Đó là, chúng ta muốn thử thách Thiên Chúa, muốn Thiên Chúa phải đích thân hiện ra dậy dỗ thì chúng ta mới nghe. Nhưng như Tổ Phụ Abraham đã trả lời cho nhà phú hộ, Thiên Chúa cũng sẽ nói với chúng ta: “Nếu chúng không chịu nghe Maisen và các tiên tri, thì dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu” (Lc 16:31). Và chúng ta có thể thêm vào mà không sợ phạm thượng câu này: “Cho dù cả Thiên Chúa hiện ra bảo chúng, chúng vẫn không nghe”.

Trong khi kiểm điểm lương tâm và thái độ sống của mình đối với việc lắng nghe Lời Chúa, bất ngờ tôi nhận được thư của một người bạn từ Kentucky gửi qua, trong đó cũng có những nhận xét hợp với những gì mà Thánh Luca đã kể lại, cũng như phản ảnh lương tâm con người trước tiếng nói của Thiên Chúa:

“Cuộc sống trên đất Mỹ mới nhìn thấy đơn giản, nhưng càng đi sâu vào càng thấy rắc rối và phức tạp. Về đời sống tâm linh, thì sự phức tạp này lại càng rắc rối hơn nữa. Thí dụ, một vấn đề khá nghiêm trọng đang âm ỷ trong các cộng đồng người Việt nói chung và riêng cộng đồng Công Giáo Việt Nam, đó là “vấn đề thề gian” trong việc vợ chồng giả, HO giả, con lai giả để được qua Mỹ. Bên cộng đoàn bên này cũng có vài vụ. Tuy nhiên, các cha sở, quản nhiệm vẫn coi sự việc “gian dối” này là do “hoàn cảnh” bất đắc dĩ.

Chúng ta phải nghĩ sao khi một cặp vợ chồng ghép hôn nhân giả ra trước phái đoàn INS giơ tay thề “nói sự thật và chỉ sự thật” là họ là vợ chồng với nhau, nhưng thực chất là không phải. Hai vợ chồng “xin” hay “mua” một đứa con lai, rồi ra trước đại diện INS giơ tay thề rằng vợ mình đã ngoại tình với một binh sĩ Hoa Kỳ và đã sinh ra đứa trẻ này, nhưng sự thât cũng không phải là thế. Hoặc một người chưa từng đi lính 1 ngày, nhưng đã mua tên, căn cước, lý lịch của một sĩ quan HO đã chết, hay không muốn đi Mỹ. Người này “gian dối” 2 lần: Lúc giơ tay thề rằng mình đã có đi học cải tạo trên 3 năm, và thề gian rằng người góa phụ của ông HO thật là vợ của mình. Để rồi khi qua đến Mỹ, lĩnh tiền trợ cấp xã hội, trợ cấp sức khỏe, tiền già cho đến chết.

Sự nghịch lý là ở chỗ nhiều người trong số họ lại được coi là gương mẫu, kính nể trong các cộng đoàn, và cộng đồng. Họ là những thừa tác viên Thánh Thể, giảng viên giáo lý, thừa tác viên lời Chúa. Họ ngày ngày lên bục giảng đọc Sách Thánh, cầm chén Máu Thánh, đĩa đựng Mình Thánh trao cho người khác. Nhưng điều khó hiểu hơn nữa, là nhiều chủ chăn tuy biết nhưng vì lý do nào đó vẫn “làm ngơ” không nói.

Nếu cẩn thận xét lại thái độ của chúng ta đối với việc đáp trả tiếng phán dậy của Chúa trong tâm hồn mình, chúng ta phải thật sự cảm thấy sợ hãi. Nếu chúng ta là những vị có trách nhiệm tinh thần kia, nhưng vì quyền lợi riêng tư, vì muốn tránh né những va chạm đành nhắm mắt làm ngơ cho sự dữ xuất hiện, thì chắc chắn khó tìm được câu trả lời suông sẻ khi đến trước tòa phán xét của Thiên Chúa. Làm sao có câu trả lời hợp lý cho sự “im lặng” mang tính cách đồng lõa ấy? Còn như nếu chúng ta là những người thật sự nghe tiếng Chúa nói trong lòng, nhưng lại cố tình như không nghe và không biết, thì liệu chúng ta có thể dùng của cải, tiền bạc “phi nghĩa” kia để mua được Thiên Đàng hay không. Liệu chúng ta có thể “hối lộ” được Thiên Chúa không?!”.

Chúa nói trong tôi và với tôi. Nhưng không phải bằng việc Ngài hiện ra với tôi. Cũng không bằng cách Ngài sai những thiên thần, hoặc người chết về để nói. Ngài nói với tôi trong tâm hồn bằng tiếng nói của Chúa Thánh Thần. Ngài nói với tôi bằng tri thức và hiểu biết của tôi khi đọc và suy ngắm lời Ngài. Ngài nói với tôi qua cặp mắt của chính tôi khi ngắm nhìn những kỳ công của Ngài, cũng như gương sống đạo của những người công chính khác. Ngài nói với tôi bằng những âm điệu và lời ca tiếng hát, bằng những tiếng cười đùa trong sạch của trẻ thơ, cũng như những tiếng khóc thương nghẹn ngào của những người bất hạnh, nghèo khổ. Ngài nói với tôi qua mọi cảnh ngộ và mọi khó khăn như những lời nhắc nhở về số phận mỏng dòn của thân phận con người. Và nhất là Ngài nói với tôi qua Thánh Kinh, qua những lời giảng huấn của Giáo Hội, qua những người có trách nhiệm tinh thần. Bằng ấy cách thức và chắc là còn nhiều hơn nữa, Ngài đã nói với tôi khiến tôi thật khó lòng mà chối bỏ rằng tôi không bao giờ được nghe tiếng Ngài. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là tôi có sẵn sàng mở rộng lòng mình và trí khôn mình để đón nhận, yêu mến, và thực hành những gì Ngài nói: “Nếu hôm nay bạn nghe tiếng ngài. Đừng cứng lòng nữa” (Ps 95:7-8).
 

Trần Mỹ Duyệt

 

Không Bác Ái Không Được Cứu Độ

Nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XXV Mùa Thường Niên Năm C tuần trước Chúa Giêsu nói với các môn đệ về việc các vị cần phải có tinh thần trung tín như một người quản gia hết mình phục vụ Nhà Chúa, không làm tôi hai chủ, thì bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI tuần này, Người nói với nhóm Pharisiêu về dụ ngôn người phú hộ và Lazarô. Tại sao Chúa Giêsu không nói dụ ngôn này với các môn đệ của Người, hay với chung dân chúng, hoặc với thành phần thượng tế và kỳ lão lãnh đạo dân Do Thái, mà lại nói riêng với nhóm Pharisiêu?

Để trả lời cho vấn đề vừa được đặt ra ở đây, cũng như nhờ đó để hiểu rõ hơn bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cần đọc lại đoạn Phúc Âm Giáo Hội không muốn cho đọc, đoạn Phúc Âm giữa bài Phúc Âm lần trước và lần này. Chúng ta nhớ lại là bài Phúc Âm tuần trước được kết thúc ở câu Chúa Giêsu khuyên các môn đệ: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”. Bởi thế, ngay sau câu này, Phúc Âm Thánh Luca viết tiếp là: “Những người Pharisiêu, thành phần tham lam, nghe thấy tất cả những điều ấy thì cười nhạo Người”. Như thế, sở dĩ Chúa Giêsu nói dụ ngôn này cho riêng nhóm Pharisiêu chẳng những vì họ là “thành phần tham lam”, mà còn vì họ đã “cười nhạo Người”, nghĩa là không tin lời Người khẳng định “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”, vì họ cho rằng, dù cho họ có thực sự tham lam đi nữa, nhưng, như dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện trong Phúc Âm Thánh Luca cho thấy, họ vẫn giữ đủ mọi luật lệ dâng cúng theo lề luật, tức là họ vẫn có thể được rỗi, được nên công chính.

Như thế, nói với nhóm Pharisiêu dụ ngôn người phú hộ và Lazarô này, Chúa Giêsu như muốn chỉnh lại cái ảo tưởng vô cùng nguy hại này của họ, Người như muốn ngầm nói với họ rằng: Thế thì các người hay nghe dụ ngôn sau đây và hãy suy nghĩ cho kỹ, chứ đừng có mà tưởng bở, kẻo sẽ bị lãnh số phận vô cùng bất hạnh như người phú hộ trong dụ ngôn đó.

Vâng, nếu Chúa Giêsu nói với nhóm Pharisiêu dụ ngôn này thì nhà phú hộ trong dụ ngôn chính là hình ảnh sống động của họ, và Lazarô trong dụ ngôn còn ai hơn là hạng người tội lỗi, được hiện thân nơi người thu thuế trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, hạng người thu thuế đáng khinh bỉ dưới con mắt ngạo mạn của người Pharisiêu cũng đang cầu nguyện trong đền thờ bấy giờ. Qua dụ ngôn của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, chúng ta thấy hai cảnh hoàn toàn trái ngược nhau, chẳng những ở đời này, một người giầu sang phú quí là người phú hộ, và một người thì cùng cực khổ đau là Lazarô, mà còn ở đời sau nữa, người phú hộ thì bị muôn đời trầm luân khốn nạn, còn Lazarô thì được ngàn thu vinh phúc. Tại sao người phú hộ trong dụ ngôn bị hư đi và Lazarô cùng khổ được cứu độ? Phải chăng chỉ vì người phú hộ giầu sang phú quí đến nỗi đã phũ phàng hất hủi Lazarô khi còn sống? Và phải chăng Lazarô được cứu độ chỉ vì cảnh cùng khổ của Lazarô trên trần thế?

Về số phận hư đi đời đời của người phú hộ đã được xác định rõ trong dụ ngôn, ở câu: “Người phú hộ chịu cực hình trong chốn kẻ chết, ngước mắt lên thấy Abraham từ xa và Lazarô đang nghỉ ngơi trong lòng ông… Abraham đáp lời hắn: Giữa ngươi và chúng ta có một vực sâu thăm thẳm ngăn cách, không ai có thể từ đây sang đó hay không ai có thể từ đó sang đây”. Thế nhưng, số phận bị đời đời hư đi “trong chốn kẻ chết” đây của người phú hộ chẳng lẽ, như lời Abraham nói với hắn, là vì “hỡi con, con hãy nhớ rằng con đã được may lành trong cuộc sống”. Như thế, số phận “may lành trong cuộc sống” nói chung chẳng lẽ lại chính là cớ làm cho con người hư đi đời đời hay sao?

Đúng thế, cũng chính vì thế Chúa Giêsu đã khẳng định trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 6 câu 24 về cái khốn đầu tiên trong tứ khốn là: “Khốn cho các người là những kẻ giầu có, vì giờ đây các người đã được an ủi rồi”. Như thế thì đúng là cái khốn của thành phần giầu có là ở chỗ “được an ủi”, “được may lành trong cuộc sống”! Tại sao? Nếu không phải vì tình trạng “được an ủi”, “được may lành trong cuộc sống” này sẽ dễ làm cho lòng tham vô đáy của con người nơi họ chỉ nghĩ đến hưởng thụ mà thôi.

Thái độ “chỉ nghĩ đến hưởng thụ” này của thành phần tham lam giầu có cũng được Chúa Giêsu đề cập đến ở một dụ ngôn Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm Thánh Luca Chúa Nhật Thường Niên XVIII Năm C, cách đây 9 tuần, đó là trường hợp của “một người giầu có được mùa” liền nghĩ cách tích chứa những gì thặng dư của mình, sau đó anh ta tự nhủ mình như sau: “Hãy sống thoải mái! Ăn cho ngon, uống cho đã. Hoan hưởng cuộc đời”. Người phú hộ “ăn mặc lụa là gấm vóc, hằng ngày yến tiệc linh đình” trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI Thường Niên tuần này cũng thế, chỉ biết hưởng thụ, đến nỗi, như lời Chúa Giêsu diễn tả, không hề biết đến Lazarô là một kẻ cùng khổ ngồi ngay “trước cổng nhà của mình”, nghĩa là ở ngay trước mắt người phú hộ. Bởi thế, cho dù người phú hộ chẳng hề ra mặt khinh khi và phũ phàng hất hủi hay tống cổ Lazarô đi cho khuất mắt, trái lại, chỉ vì ông đã neglect, đã không để ý đến Lazarô thôi, ở chỗ ông đã không chịu ra tay giúp đỡ khi có thể, mà bị đời đời hư đi vậy.

Như thế, số phận hư đi đời đời ở đây còn liên quan đến một vấn đề sâu xa hơn nữa, hay nói cách khác, liên quan đến một nguyên nhân sâu xa khiến cho chung người giầu có, điển hình là người phú hộ trong dụ ngôn Chúa Giêsu nói với nhóm Pharisiêu ở bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, chỉ biết sống hưởng thụ, ngoài ra không còn biết đến, hay không hề nghĩ đến, tha nhân cùng khổ chung quanh mình nữa.

Vâng, nguyên nhân sâu xa khiến con người sống vị kỷ trên đời này, cũng là nguyên nhân khiến họ hư đi đời đời đó là gì, nếu không phải chỉ vì họ đã không sống đức tin, hay có đức tin mà không áp dụng, một đức tin phải được thể hiện qua việc thực thi bác ái, như nguyên tắc được Thánh Phaolô đề ra trong Thư gửi Giáo Đoàn Galata đoạn 5 câu 6: “Đức tin hoạt động qua đức ái”. Đó là lý do, để trả lời cho lời yêu cầu của người phú hộ xin cho người chết hiện về báo cho 5 người anh em của hắn biết về số phận vô cùng khốn nạn để họ khỏi bị chung số phận đời đời trầm luân như hắn, vị tổ phụ đã trả lời với hắn là: “Họ đã có Moisen và các tiên tri… Nếu họ không nghe Moisen và các tiên tri thì dù kẻ chết có hiện về họ cũng không tin”. Mà toàn bộ luật Moisen và lời các tiên tri dạy gì, nếu không phải được tóm gọn trong tinh thần mến Chúa yêu người, đúng như Chúa Giêsu đã xác nhận trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 22 câu 40: “Toàn thể lề luật và lời các tiên tri được dựa vào hai giới răn này”.

Vậy thành phần hư đi nói chung chính là thành phần không mến Chúa yêu người. Áp dụng lời Chúa vào trường hợp người phú hộ trong dụ ngôn hôm nay thì sở dĩ hắn có bị vĩnh viễn hư đi cũng chỉ vì hắn không mến Chúa yêu người. Mà lòng mến Chúa được thể hiện qua đức bác ái yêu thương, tức không biết yêu nhau thì không thể nào mến Chúa, trái lại, “họ chỉ là kẻ nói dối”, như Thánh Gioan xác nhận Thư Thứ Nhất của ngài ở đoạn 4 câu 20. Vậy người phú hộ, hiện thân của nhóm Pharisiêu, dù có giữ lề luật tỉ mỉ, những việc liên quan đến lòng mến Chúa, song không tỏ lòng yêu thương tha nhân trong tầm tay của mình, trái lại, còn ra mặt khinh bỉ những người tội lỗi, thì thực sự họ không sống trong chân lý, sống giả tạo trước nhan Thiên Chúa.

Nếu người phú hộ bị muôn đời trầm luân vì không sống đức tin, được thể hiện qua việc mến Chúa yêu người, thì Lazarô được rỗi chắc chắn cũng phải có đức tin, cũng phải mến Chúa yêu người, chứ không phải chỉ ở trong cảnh cùng khổ là tự nhiên hay tất nhiên sẽ được cứu độ.

Thật thế, hình ảnh Lazarô ngồi trong lòng tổ phụ Abraham là cha của những kẻ tin tưởng cũng đủ chứng tỏ Lazarô đã sống đức tin trên đời này rồi. Tuy Phúc Âm không kể lại rõ ràng những cách thức Lazarô chứng tỏ đức tin của anh ta, chứng tỏ lòng mến Chúa yêu người của anh ta, ngoại trừ cho thấy hình ảnh của một Lazarô âm thầm chịu đựng nỗi cùng cực khổ đau của anh ta về phần xác, như bị chó đến liếm tấm thân ghẻ lở cùng mình, mà còn chấp nhận cả những bất hạnh, nhục nhã bởi cùng khổ mà ra, như bị đồng loại khinh bỉ, bỏ rơi, quên lãng, song anh vẫn hoàn toàn không hề than thân, trách phận, oán trời, hận đời v.v.

Thế nhưng, trong bài Phúc Âm theo Thánh Luca Chúa Nhật XXVI Mùa Thường Niên Năm C tuần này Chúa Giêsu không quan trọng hóa số phận của Lazarô cho bằng của người phú hộ. Vì Người cố ý nói dụ ngôn này với thành phần Pharisiêu là thành phần chẳng những tham lam, chỉ biết sống cho mình, mà còn bị mù tối bởi ảo tưởng về việc tự công chính hóa của họ, đến nỗi, đã tỏ ra không tin tưởng Người, ở chỗ, cười nhạo lời Người khẳng định với các môn đệ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, đó là: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”. Phúc Âm Thánh Luca không thuật lại cho chúng ta biết phản ứng của những người Pharisiêu sau khi nghe dụ ngôn người phú hộ này ra sao, nhưng theo thực tế sống đời và kinh nghiệm sống đạo, ai trong chúng ta dám phủ nhận lời Chúa Giêsu, hay dám chứng minh ngược lại những gì Chúa nói không còn công hiệu hay giá trị nữa, như lời Người phán quyết: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”.

Nếu quả thực người phú hộ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI Mùa Thường Niên theo Thánh Luca Năm C hôm nay bị hư đi đời đời chỉ vì ông ta không có đức ái với tha nhân, ở chỗ, có khả năng mà không chịu ra tay giúp người, chứ không phải lỗi phạm đức ái với tha nhân, như hiếp dâm, sát nhân hay trộm cắp v.v., thì phải chăng, chỉ cần loài người chúng ta nói chung, và Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô chúng ta nói riêng, không có bác ái, như không có hay không mặc áo cưới khi được mời đến dự tiệc cưới Nước Trời (xem Mt 22:11-12), họ sẽ bị trầm luân muôn kiếp, như thành phần dê không chịu phục vụ Chúa nơi đồng loại của mình trong ngày chung thẩm (xem Mt 25:42-43)?

Qua ý nghĩa sâu xa của dụ ngôn trong bài Phục Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu muốn dạy con người ba điều rất quan hệ đến phần rỗi đời đời của mỗi người.

Điều thứ nhất, đó là phần rỗi đời đời không phải ở chỗ làm sao để đừng trực tiếp phạm đến tha nhân, song ở chỗ phải tích cực tỏ ra yêu thương và giúp đỡ phục vụ tha nhân theo nhu cầu của họ. Bởi thế mà người phú hộ không hề tỏ ra khinh bỉ hay chửi rủa con người bần cùng khốn khổ Lazarô ngồi ở ngay cổng trước mắt ông, song ông cũng vẫn bị sa phạt đời đời trong hỏa ngục, chỉ vì đã không chịu ra tay giúp đỡ khi có dư đủ phương tiện trong tay.

Điều thứ hai, đó là phần rỗi đời đời ở tại đức tin của mình chứ không phải ở tại những dấu chứng và điềm lạ, vì nếu không có đức tin thì điềm lạ và dấu chứng chẳng những không sinh lợi mà còn tác hại, khi làm cớ cho kẻ thiếu đức tin vấp phạm nữa. Điển hình là có một số người Pharisiêu, khi chứng kiến thấy Chúa Giêsu trừ quỉ, đã cho rằng Người lấy quyền của quỉ cả mà trừ quỉ con (x Mathêu 12:22-24). Bởi thế mà người phú hộ trong hỏa ngục mới được nghe thấy tổ phụ Abraham cho biết rằng: “Nếu chúng không chịu nghe Abraham và các tiên tri, thì cho dù keœ chết có sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe họ đâu”.

Điều thứ ba đó là mối liên hệ chặt chẽ giữa đức tin và đức mến, ở chỗ, ai có đức tin nội tâm phải được tỏ ra bằng hoạt động bác ái, và những việc bác ái bề ngoài là dấu chứng tỏ mức độ đức tin nội tâm của họ. Sở dĩ người phú hộ giầu sang phú quí không làm việc bác ái giúp đỡ Lazarô vô cùng khốn khó là vì ông không có đức tin. Đó là lý do trong cuộc chung thẩm Vị Thẩm Phán Cánh Chung sẽ phán xét cả đức tin của con người nữa, một đức tin được tỏ ra bằng những hành động bác ái đối với thành phần anh em hèn mọn nhất của Người (x Mathêu 25:31-46).


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


“Đức Tin Hoạt Động Qua Đức Ái”

 
Trò Chơi Phúc Âm Chúa Nhật XXVI Thường Niên (26/9/2004)


Phúc Âm Lc 16:19-31

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người Biệt phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Lazarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xẩy ra là người hành khất đó chết và được các Thiên Thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hỏa ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có Abraham và Lazarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng: “Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa nầy”. Abraham nói lại: “Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Lazarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Lazarô được an ủi ở chốn nầy, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn từ đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ bên đó qua đây được”. Người đó lại nói: “Đã vậy, tôi nài xin cha sai Lazarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình nầy”. Abraham đáp rằng: “Chúng đã có Môisen và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài”. Người đó thưa: “Không đâu, lạy cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong cõi chết hiện về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải”. Nhưng Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không chịu nghe Abraham và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu”.

Hướng Dẫn

Qua ý nghĩa sâu xa của dụ ngôn trong bài Phục Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu muốn dạy con người ba điều rất quan hệ đến phần rỗi đời đời của mỗi người.

Điều thứ nhất, đó là phần rỗi đời đời không phải ở chỗ làm sao để đừng trực tiếp phạm đến tha nhân, song ở chỗ phải tích cực tỏ ra yêu thương và giúp đỡ phục vụ tha nhân theo nhu cầu của họ.

Bởi thế mà người phú hộ không hề tỏ ra khinh bỉ hay chửi rủa con người bần cùng khốn khổ Lazarô ngồi ở ngay cổng trước mắt ông, song ông cũng vẫn bị sa phạt đời đời trong hỏa ngục, chỉ vì đã không chịu ra tay giúp đỡ khi có dư đủ phương tiện trong tay.

Điều thứ hai, đó là phần rỗi đời đời ở tại đức tin của mình chứ không phải ở tại những dấu chứng và điềm lạ, vì nếu không có đức tin thì điềm lạ và dấu chứng chẳng những không sinh lợi mà còn tác hại, khi làm cớ cho kẻ thiếu đức tin vấp phạm nữa. Điển hình là có một số người Pharisiêu, khi chứng kiến thấy Chúa Giêsu trừ quỉ, đã cho rằng Người lấy quyền của quỉ cả mà trừ quỉ con (x Mathêu 12:22-24).

Bởi thế mà người phú hộ trong hỏa ngục mới được nghe thấy tổ phụ Abraham cho biết rằng: “Nếu chúng không chịu nghe Abraham và các tiên tri, thì cho dù keœ chết có sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe họ đâu”.

Điều thứ ba đó là mối liên hệ chặt chẽ giữa đức tin và đức mến, ở chỗ, ai có đức tin nội tâm phải được tỏ ra bằng hoạt động bác ái, và những việc bác ái bề ngoài là dấu chứng tỏ mức độ đức tin nội tâm của họ.

Sở dĩ người phú hộ giầu sang phú quí không làm việc bác ái giúp đỡ Lazarô vô cùng khốn khó là vì ông không có đức tin. Đó là lý do trong cuộc chung thẩm Vị Thẩm Phán Cánh Chung sẽ phán xét cả đức tin của con người nữa, một đức tin được tỏ ra bằng những hành động bác ái đối với thành phần anh em hèn mọn nhất của Người (x Mathêu 25:31-46).

Vậy hôm nay chúng ta cùng nhau sinh hoạt trò chơi “Đức Tin Hoạt Động Qua Đức Ái” (Galata 5:6).

Sinh Hoạt

1. Tất cả được chia thành hai nhóm. Nếu có 4 nhóm thì cứ hai nhóm đấu với nhau theo phiên. Mỗi nhóm cử ra số người đồng đều. Đứng cách nhau khoảng từ 10 đến 15 feet.

2. Hai nhóm này, một nhóm đóng vai đức tin và một nhóm đóng vai đức mến. Nhóm đóng vai đức tin cầm sẵn trong tay một trái banh (tennis chẳng hạn), và nhóm đóng vai đức mến cầm sẵn chiếc vợt chơi tennis (tennis racquet).

3. Ở giữa hai nhóm có một cái cột được đặt trên đầu bằng một cái loong rỗng tiêu biểu cho thành phần bần cùng nghèo khổ như Lazarô cần được thương giúp. Cái ống loong rỗng này là mục tiêu (target) nhắm đến của đức tin và đức ái.

4. Khi nghe hiệu còi, thành phần đóng vai đức tin liền ném trái banh tennis cho thành phần đóng vai đức ái, để thành phần đóng vai đức ái này quật trái banh làm sao trúng vào mục tiêu là cái loong cho nó rớt xuống.

5. Nhóm nào đánh trúng mục tiêu và làm cho nhiều cái loong rớt xuống đất là thắng giải “Đức Tin Hoạt Động Qua Đức Ái”.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ