GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

Tháng 2/2004

Ý Chung: “Xin cho Kitô hữu, những người Do Thái và Hồi Giáo biết chung sống hòa bình với nhau ở Thánh Ðịa”.

Ý Truyền Giáo: “Xin cho các Giáo Hội địa phương ở Ðại Dương Châu đặc biệt lưu ý đến các ơn gọi linh mục và tu sĩ lo việc truyền bá phúc âm hóa”.

 

___________________________________________

 22-29/02/2004

Giovanni Paolo II

 

29/2 Chúa Nhật I Mùa Chay

Sống không nguyên bởi bánh là trả về cho thế gian những gì của thế gian

Kể từ Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta đã chính thức bước vào Mùa Chay Thánh, một thời gian 40 ngày, với sáu tuần lễ liền, một thời gian biểu hiệu cho 40 ngày chay tịnh của Chúa Kitô trong hoang địa, cho 40 ngày tiên tri Êlia hành trình lên núi Chúa ở Hôreb (xem 1Kgs 19:8), cũng như cho 40 năm Dân Do Thái băng qua sa mạc để tiến vào Đất Hứa. Với Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay, chúng ta lại cùng Giáo Hội bắt đầu cử hành Mầu Nhiệm Khổ Nạn của Chúa Kitô, một mầu nhiệm được mở màn bằng việc Chúa Giêsu ăn chay 40 đêm ngày trong hoang địa và bị cám dỗ, một biến cố đau thương tiên báo Cuộc Khổ Nạn và sẽ đạt đến tuyệt đỉnh của mình nơi Mầu Nhiệm Tử Giá của Chúa Kitô trong Tuần Thánh.

Thế nhưng, vào dịp cử hành Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, mở màn cho Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh, nếu vấn đề đã được đặt ra là tại sao Chúa Kitô vô tội lại phải chịu phép rửa, thì vào Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay này, vấn đề tương tự cũng lại được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu không có tội hay đam mê nhục dục như con người đã bị hư đi theo nguyên tội chúng ta mà Người cũng cần phải ăn chay 40 đêm ngày và bị ma quỉ cám dỗ trong hoang địa?

Vấn đề của bài Phúc Âm được đặt ra về việc Chúa Giêsu chay tịnh và bị cám dỗ đặc biệt liên quan đến ma quỉ hay liên quan đến chính vấn đề cám dỗ cũng thế. Thật vậy, như chúng ta đã nghe bài Phúc Âm theo Thánh Luca Chúa Nhật tuần thứ nhất Mùa Chay thuật lại, Chúa Giêsu đã ăn chay “40 ngày”, đến độ, như Phúc Âm nói rõ “Người cảm thấy đói”. Đúng thế, bấy giờ Người chắc chắn là đói lắm rồi, đói quặn lên rồi, vì Người cũng thực sự là người như chúng ta, nghĩa là Người cũng cần phải ăn uống. Nếu nhịn một ngày đã đủ đói rồi, chẳng hạn như Ngày Thứ Tư và Thứ Sáu Tuần Thánh hằng năm chúng ta vẫn buộc phải ăn chay theo Luật Hội Thánh, thì nhịn đến 40 ngày “không ăn gì” như Phúc Âm cho biết, sẽ đói đến chừng nào! Và chỉ sau khi ấy, tức sau khi Người cảm thấy đói, như Phúc Âm ghi nhận, ma quỉ mới mò đến, mới xuất đầu lộ diện để cám dỗ Người.

Như vậy, cảm giác đói tự nó có phải là một chước cám dỗ hay không? Tức là có cần bị ma quỉ thực sự cám dỗ con người xác thịt tự nhiên của chúng ta mới cảm thấy thèm ăn hay chăng? Mà nếu đói đến độ làm cho chúng ta thèm ăn thực sự là một chước cám dỗ, và một khi đã là một chước cám dỗ thì phải tránh xa, không được phép làm, như chúng ta vẫn cầu ở cuối Kinh Lạy Cha, “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”? Vậy nếu Giáo Hội buộc chúng ta phải ăn chay, tức là phải nhịn đói vào những ngày ấn định trong năm, như Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh, thì phải chăng Giáo Hội đã gián tiếp đẩy con người vốn yếu đuối của chúng ta vào chỗ nguy hiểm, chỗ liều mình sa chước cám dỗ, nghĩa là liều mình phạm tội mất lòng Chúa là sự dữ về luân lý mà chúng ta cũng cầu xin cho được thoát khỏi ở cuối Kinh Lạy Cha: “nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen”?

Theo tôi, vấn đề cốt lõi ở đây là căn do tại sao ma quỉ đã cám dỗ Chúa Giêsu. Nếu biết được lý do đích xác ma quỉ cám dỗ Người thì mọi sự sẽ được sáng tỏ, cả về vấn đề đói tự nó có phải là một chước cám dỗ của ma quỉ hay chăng, cũng như vấn đề thời điểm ma quỉ phải chờ cho đến lúc Chúa Giêsu thực sự cảm thấy đói mới đến cám dỗ Người, và vấn đề luật buộc chúng ta phải giữ chay một số ngày trong năm.

Thật vậy, về căn do tại sao ma quỉ đã không đến cản đường Chúa Giêsu cho Người khỏi vào hoang địa ăn chay, một việc ăn chay hết sức lành thánh, hoàn toàn trái ngược lại với bản tính tự nhiên của con người đã bị hư đi theo nguyên tội, mà hắn chỉ đến cám dỗ Chúa Giêsu sau khi Người đã ăn chay 40 ngày và nhất là sau khi thấy Người thực sự đã cảm thấy đói, thì bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay đã cho chúng ta thấy rõ ý định của hắn. Ý định của hắn là ở chỗ hắn hết sức muốn biết Người là ai, Người có thực sự là Con Thiên Chúa hay chăng, thế thôi! Đó là lý do chúng ta thấy Thánh Ký Luca thuật lại trong Phúc Âm sự kiện ma quỉ đã tấn công Chúa Giêsu ba chưởng, chưởng thứ nhất vào bụng: đói ăn, chưởng thứ hai vào mắt: tham của, và chưởng thứ ba vào ngay ngực: tự phụ, cốt ý để làm sao có thể biết được đích xác chân dung của Người: “Nếu ngươi là Con Thiên Chúa thì hãy biến đá thành bánh mà ăn”; hay “nếu ngươi là Con Thiên Chúa thì hãy gieo mình xuống”.

Qua câu nhử mồi này, chúng ta thấy, trước hết, ma quỉ nghi rằng nhân vật Giêsu Nazarét tầm thường trước mặt loài người đây, nhân vật đã bị dân làng Nazarét chống đối và mưu sát Người ngay từ ban đầu ấy, như chính Phúc Âm Thánh Luca nhắc tới trong Chúa Nhật Thứ Bốn Mùa Thường Niên, có một cái gì khác thường và phi thường, còn hơn cả trường hợp Gioan Tẩy Giả mặc áo da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng nữa (xem Mathêu 3:4). Do đó, hắn muốn theo dõi sát nút xem Người làm những gì và làm ra sao để có thể, một khi ra tay hạ độc thủ, chắc chắn hắn lập tức sẽ đánh gục được đối phương ghê gớm của hắn ngay, một đối phương trong cả 4000 năm Cựu Ước hắn chưa từng gặp trong vương quốc tội lỗi đầy chết chóc của hắn.

Vậy thì tại sao có những lần Phúc Âm đã thuật lại là ma quỉ đã nhận ra Chúa Giêsu là ai nên van xin Người đứng khu trừ hắn, điển hình là sau khi Người bị dân làng Nazarét của Người phủ nhận và tính sát hại thì ma quỉ, như Phúc Âm Thánh Luca ghi nhận, lại đã tự động nhận ra Người ở trong một hội đường ở Capernaum: “Trong hội đường có một người bị thần ô uế ám đang rên xiết lớn tiếng: ‘Hãy mặc kệ chúng tôi mà! Hỡi Giêsu Nazarét, ông muốn làm gì chúng tôi đây. Chẳng lẽ ông lại đến để hủy diệt chúng tôi hay sao. Tôi biết ông là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Lk 4:33-34). Ở đây chúng ta thấy một nhân vật “Giêsu Nazarét” vừa mới bị dân làng Nazarét bác bỏ và mưu sát ở đoạn Phúc Âm cách đó mấy câu (x Lk 4:28-30), lại là một nhân vật được ma qủi nhận diện và tuyên xưng “là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, tức là Đấng Thiên Sai, vì chỉ có Vị này mới mang sứ mệnh “hủy diệt” các việc làm của ma qủi (x 1Jn 3:8) mà thôi, đúng như bản án hắn đã bị Thiên Chúa phán xử ngay sau nguyên tội của loài người là hình phạt bị “đạp dập đầu” (x Gen 3:15).

Đúng thế, ma quỉ quả thực đã nhận ra Chúa Giêsu là ai, nhưng, phải, nhưng chỉ khi nào hắn thấy Người tỏ ra uy quyền của Người, như những lần Người ra tay trừ khử chúng mà thôi. Tuy nhiên, với đầu óc kiêu căng của mình, hắn vẫn không thể nào hiểu được, nếu không muốn nói là bị confused theo kiểu Mỹ, hay bị tẩu hỏa nhập ma theo kiểu nói của phim Tầu, khi thấy một Vị Thiên Chúa gì mà phải lẩn thoát lúc bị con người ta ra tay sát hại, Thiên Chúa gì mà lại quì xuống rửa chân cho các môn đệ, Thiên Chúa gì mà lại đau buồn đến đổ mồ hôi máu, Thiên Chúa gì mà lại bị bắt nhốt và bị khạc nhổ vào mặt, hay Thiên Chúa gì mà lại phải lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền Hô, mà lại đi ăn chay hãm xác như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này thuật lại v.v. Thế nhưng, chỉ cho tới khi hắn thấy Người có thể ăn chay đến 40 ngày, quá sức tự nhiên của con người ta là loài đang ở dưới quyền kiểm soát và cai trị của hắn, hắn mới hồ nghi Người là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa Nhập Thể, là đối tượng mà hắn đã dám hy sinh cả số phận đời đời của mình để triệt hạ, như Sách Khải Huyền thị kiến thấy ở đoạn 12, câu 4, 7-8, cho thấy: “Bấy giờ con rồng đứng trước người nữ sắp sinh con để rình ruốt đứa trẻ khi bé được sinh ra… Thế rồi chiến tranh bùng nổ trên trời… Con rồng và các thần của hắn bị mất chỗ của mình trên trời ”.

Nếu thực sự đứa trẻ từ ban đầu ấy chính là nhân vật Giêsu đã ăn chay 40 ngày này thì quả thực Người là Thiên Chúa Nhập Thể. Mà nếu nhân vật Giêsu chính là Thiên Chúa Nhập Thể thì vương quốc của hắn sắp sửa bị tiêu diệt đến nơi rồi, khi Người chịu khổ nạn và tử giá. Do đó, biết được nhân vật Giêsu có phải là Con Thiên Chúa không là một vấn đề vô cùng hệ trọng và cấp thời đối với hắn. Bởi vì, một khi biết được nhân vật Giêsu ấy thực sự là Con Thiên Chúa rồi, hắn sẽ tận dụng mọi nỗ lực tinh ma quỉ quái nhất của mình để nhất định ngăn cản việc Người có thể cứu độ loài người, chẳng hạn, sau này hắn sẽ không xui bẩy Giuda bán Thày, không thúc động lòng căm hờn của đám lãnh đạo dân Do Thái đòi giết Người, nhờ đó Philatô sẽ không bị áp lực đến ra lệnh đóng đanh Giêsu Nazarét.

Thế nhưng, tiếc thay, sau ba chưởng chí tử quyết liệt một thắng một thua này, những chưởng mà hắn chỉ sử dụng khi gặp một đối phương thượng thặng như nhân vật Giêsu, một nhân vật vốn không có tên trong chốn giang hồ mà không ngờ lại là một tay cao thủ hầu như vô địch như vậy, hắn chẳng những đã hoàn toàn bị thảm bại, mà nhất là còn không biết được cả thân phận của địch thủ vô cùng lợi hại của mình nữa. Tuy nhiên, dù có bị nội công thâm hậu của đối phương làm cho hắn bị dội lại đến choáng váng gần như mất hết chưởng lực như thế, ma quỉ vẫn nhất định không chịu thua, đến nỗi, bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay đã kết thúc như sau: “Sau khi đã tìm đủ cách cám dỗ, ma quỉ đã rút lui để chờ dịp khác”.

Phải, sau đó, ma quỉ lại càng theo sát từng cử động của nhân vật Giêsu có một không ai này hơn nữa, đến nỗi, hắn đã thử thách đức nhẫn nại chịu đựỉng của Người xem sao, qua những chống đối liên lỉ và kịch liệt đến sắt máu của dân Do Thái. Bất hạnh thay, gậy ông đập lưng ông, hắn có ngờ đâu chính những việc hắn sử dụng thành phần tay sai đắc lực của mình để thử thách Người lại chính là những việc Người muốn trải qua và cần chịu đựng để hoàn tất Thánh Ý Cứu Độ của Đấng đã sai Người. Để rồi, cho đến khi ma quỉ biết được đối phương của mình thực sự là ai thì đã hoàn toàn không còn kịp nữa, đã muộn mất rồi: “Người này quả thực là Con Thiên Chúa”, đúng như lời viên đại đội trưởng Rôma tuyên xưng trên đồi tử giá ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 27, câu 54, hoàn toàn ứng nghiệm lời tiên báo của Đấng Tử Giá ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 12 câu 32: “Khi nào Tôi bị treo lên, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi”, hay ở đoạn 8 câu 28: “Khi nào quí vị treo Con Người lên, quí vị sẽ biết Tôi là ai”.

Qua những nhận định trên đây về những gì liên quan đến việc ma qủi cám dỗ Chúa Giêsu, chúng ta thấy việc chay tịnh nhịn đói về thể xác không phải là việc liều mình sa chước cám dỗ theo nghĩa tiêu cực, cho bằng là một dấu hiệu tỏ ra mình khao khát một cái gì đó cao quí hơn, vĩnh cửu hơn. Đó là lý do Chúa Giêsu đã trả lời cho ma quỉ biết rằng: “Người ta không sống nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Tuy nhiên, để có thể làm cho cái đói thể xác biến thành cái no thỏa tâm linh như thế, con người cần phải làm theo ơn Chúa. Đó cũng là lý do Chúa Giêsu, như Phúc Âm hôm nay thuật lại ngay ở câu mở đầu: “Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Dược Đăng, và được Thánh Thần đưa vào hoang địa, ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỉ cám dỗ”. Nếu chúng ta làm theo ơn Chúa thúc đẩy, chúng ta chẳng những không sợ phạm tội làm mất lòng Chúa (x 1Jn 3:9; Jn 1:13), mà còn có thể thắng vượt được chước cám dỗ nữa, như Chúa Giêsu đã thắng mọi mưu chước ma quỉ cám dỗ vì đã làm tất cả theo Thánh Linh hướng dẫn vậy.

Thật ra, khi đói, con người được phép ăn, thậm chí buộc phải ăn, vì việc ăn uống lúc bấy giờ không phải là tội, song là một nhu cầu thiết yếu liên quan đến sự sống, đến nỗi, nếu đói mà không ăn, khiến không có sức chu toàn nhiệm vụ của mình, hay đến bị yếu liệt hoặc thậm chí bị chết đói, thì việc nhịn ăn thay vì lập công tích đức đã hóa thành việc tội lỗi đáng phạt. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm cho thấy, chỉ vì đói mà ăn, thì tự nhiên sẽ dễ dàng đưa đến chỗ chẳng những kén ăn, chỉ ăn những gì ngon miệng, hợp khẩu vị, chê những gì dở, đi đến chỗ bỏ thừa, phí phạm, mà còn ăn tham nữa, đến độ cắn cấu nhau vì miếng ăn. Không phải hay sao, người ta không còn ăn để mà sống nữa, song sống để mà ăn, để giành ăn, một trong những hình thức này là mẹ giết con ngay từ trong bụng mình, nước giầu viện trợ nhân đạo cho nước nghèo theo chính sách tân thực dân hóa về kinh tế v.v. Nếu ăn chỉ vì đói người ta sẽ dễ sa chước cám dỗ thế nào, thì nếu người ta sống bởi bánh lời Chúa trước, tức vì Chúa mà ăn, thì có chết đói vì anh em nữa cũng cam lòng.

Tóm lại, vấn đề sống đạo ở đây là Kitô hữu chúng ta làm gì cũng phải làm theo thúc động của ân sủng, hơn là theo bản năng tự nhiên hay ý thích hoặc ý riêng của mình thì sẽ tránh được sa chước cám dỗ.

Nhìn vào thế giới hôm nay, vào chính thời điểm của Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay Năm C này, (29/2/2004), chúng ta (nhất là những người ở Hoa Kỳ, cách riêng ở California) thấy gì? Nếu không phải một thế giới loài người (ở San Francisco chẳng hạn, nơi đã cấp hôn thú cho cả 3 ngàn cặp đồng tính luyến ái, nơi tòa án cũng không dám đưa ra những phán quyết công minh theo chân lý) đang sống để mà ăn hơn là ăn để mà sống, một thế giới loài người tự cho mình là văn minh mà lại sống phản thiên nhiên, sống đồng tính luyến ái, sống đồng tính hôn nhân, một hành động không hề xẩy ra nơi loài thú!

Tại sao thế? Tại sao loài người có lý trí lại đi đến chỗ không còn biết đâu là phải đâu là trái, đâu là lành đâu là dữ nữa như vậy? Phải chăng tại vì họ không biết sống theo chiều kích thực sự làm người của họ là chiều kích sống theo lề luật Thiên Chúa, theo những lời bởi miệng Thiên Chúa phán ra nữa (x Mt 4:4; Deut 8:3). Bởi thế, chính vì “thần trí mới làm cho sống, xác thịt chẳng có ích gì” (Jn 6:63) mà để giải quyết tất cả mọi vấn đề rắc rối về luân lý, những vấn đề liên quan trực tiếp với các lãnh vực về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, con người chỉ cần thực hiện nguyên tắc về nguồn là xong, đó là hãy trả về cho thế gian những gì thuộc về thế gian và hãy trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa (x Lk 20:25), tức là hãy tôn trọng mọi giá trị chân thực của trần gian theo đúng như ý định tối cao của Thiên Chúa, để Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự (x 1Cor 15:28).

Đúng thế, con người chỉ tìm thấy tầm vóc trọn hảo của mình nơi Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô, vì Người thực sự đã trả cho thế gian những gì thuộc về thế gian và trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Ở chỗ, đối với thế gian, Người đã đến để tìm kiếm cả những gì đã hư trầm (x Lk 19:10), đến không phải để luận phạt nhưng để thế gian nhờ Người mà được sự sống (x Jn 3:17), và đối với Thiên Chúa, Người đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (x Jn 6:38), đến nỗi đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (x Phil 2:8), để trở nên căn nguyên cứu độ đời đời cho những ai tín phục Người (x Heb 5:9). Người quả thực là Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (x 1Tim 2:5).

Như thế, theo tinh thần Chúa Kitô, phải chăng Mùa Chay là thời đoạn Kitô hữu trả về cho thế gian những gì thuộc về thế gian, và Tuần Thánh là thời điểm họ trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa? Một khi con người trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa là họ thực hiện được dự án nguyên thủy của Ngài khi Ngài tạo dựng nên tất cả mọi sự, trong đó có con người, dự án con người phải làm chủ trái đất chứ (x Gen 1:28) chứ không phải làm nô lệ cho trái đất. Việc con người chay tịnh là một hành động chứng tỏ con người không khinh thường những gì (chẳng hạn thực phẩm và thân xác con người) đã được Thiên Chúa  tạo dựng và ban cho họ mà còn thăng hóa chúng theo ý định của Thiên Chúa, ở chỗ họ chỉ sử dụng chúng theo ý Đấng đã ban chúng cho họ chứ không phải theo ý nghĩ, ý thích và ý muốn của họ thường thiên về gian ác và tư lợi.

Qua hành động chay tịnh, họ chẳng những chứng tỏ họ làm chủ sự vật và thân xác của mình, đúng hơn làm chủ cả thế gian lẫn con người của họ, mà còn nhờ đó họ có thể biến thân xác và cả con người của họ trở thành dụng cụ phục vụ tha nhân. Thân xác chay tịnh 40 đêm ngày của Chúa Kitô đây, một thân xác phục sinh vinh hiển, đã không trở thành Bí Tích Thần Linh ban sự sống đời đời trong Bí Tích Thánh Thể hay sao? Ngoài ra, cũng qua hành động chay tịnh, con người tỏ ra mình sẵn sàng chấp nhận khổ đau và có khả năn g chịu đựng khổ đau, giống như hạt lúa miến mục nát đi trong lòng đất để trổ sinh muôn vàn hoa trái (x Jn 12:24).

Lạy Chúa Giêsu Kitô là hạt lúa miến mục được gieo xuống đất để chịu mục nát đi, Chúa đã vào sa mạc 40 đêm ngày để sống chay tịnh và chịu cám dỗ. Nhờ lời Mẹ Maria chuyển cầu, Xin Chúa cho Kitô hữu chúng con biết sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi những lời ban sự sống của Chúa, để chúng con chẳng những có thể thắng được các chước cám dỗ và sự dữ là tội lỗi, mà còn có thể như Mẹ Maria trung thành theo Chúa cho tới chân thập tự giá. Amen.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

28/2 Thứ Bảy

Fatima: Chân Trời Cứu Ðộ

(Tiếp Thứ Bảy hai tuần liên tiếp vừa qua)

2) Bí Mật Fatima – Dự Án Cứu Độ

Bí Mật Fatima: Một Bí Mật có 3 phần

Đúng thế, chỉ có một Bí Mật Fatima duy nhất, nhưng bí mật này lại có 3 phần, hay được chia thành 3 phần, như 3 Thiếu Nhi Fatima là Lucia (bấy giờ 10 tuổi), Phanxicô (bấy giờ 9 tuổi) và Giaxinta (bấy giờ 7 tuổi) được Mẹ Maria tỏ cho biết vào lần hiện ra thứ ba 13/7/1917.

Chính chị Lucia đã xác nhận Bí Mật Fatima là một bí mật duy nhất nhưng có 3 phần trong Hồi Ký Thứ Ba của chị, phần hồi ký được viết xong ngày 31/8/1941, với lời lẽ như sau:

• “Giờ đây con sẽ tiết lộ hai trong ba phần này ra. Phần thứ nhất là thị kiến hỏa ngục... Phần thứ hai liên quan đến việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria”.

Nói chung, phần đầu và phần cuối của Bí Mật Fatima là hai thị kiến, phần giữa là một sứ điệp.

Bí Mật Fatima - phần thứ nhất: Thị Kiến Hỏa Ngục

Riêng phần thứ nhất của Bí Mật Fatima là thị kiến hỏa ngục, chị Lucia đã thuật lại trong Hồi Ký của chị là thị kiến này xẩy ra sau khi Mẹ Maria nhắn nhủ 3 Thiếu Nhi Fatima về việc hy sinh cầu nguyện cho các tội nhân:

• “Các con hãy nhớ đến đây hằng tháng. Tới tháng 10, Ta sẽ nói cho chúng con biết Ta là ai và Ta muốn gì, Ta cũng sẽ làm một phép lạ cho mọi người thấy mà tin... Hãy hy sinh cầu cho các tội nhân và sau mỗi một hy sinh các con hãy nói: (Con dâng hy sinh này) ‘Lạy Chúa Giêsu, vì yêu Chúa và để cầu cho tội nhân ăn năn thống hối cũng như để đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ’. Nói xong, Đức Mẹ lại mở tay ra như hai lần trước. Lần này tia sáng thấu qua trái đất làm cho 3 Thiếu Nhi Fatima thấy một biển lửa, ma qủi và các linh hồn dưới hình người cháy đen và đỏ rực như những cục than hồng, đang ngoi ngóp và phập phồng, rên rỉ và nghiến răng”.

Bí Mật Fatima - phần thứ hai: Sứ Điệp Cứu Độ

Phần thứ hai của Bí Mật Fatima là một sứ điệp liên hệ tới phần bí mật về thị kiến hỏa ngục này. Đó là lý do, như Hồi Ký Lucia thuật lại, vì có phần bí mật thứ nhất mới có phần bí mật thứ hai như sau:

• “Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn rơi xuống. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu những điều Mẹ dạy được thi hành thì nhiều linh hồn được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình. Chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng nếu người ta không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong đời Đức Piô XI. Khi các con thấy ánh sáng lạ lùng chiếu giữa ban đêm, thì các con hãy biết rằng đó là điềm lạ vĩ đại Thiên Chúa muốn cho các con hay Ngài sắp sửa trừng phạt thế giới tội lỗi, bằng chiến tranh, đói khát và việc bắt bớ Giáo Hội cùng Đức Thánh Cha. Để ngăn ngừa điều này, Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng. Nếu người ta nghe lời Ta yêu cầu, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình. Bằng không, Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Nhiều người lành bị giết, Đức Thánh Cha sẽ khổ; nhiều nước sẽ biến mất, nhưng cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được ban cho một thời gian hòa bình. Ở Bồ Đào Nha tín điều về Đức Tin vẫn luôn được bảo vệ v.v. Con đừng nói với ai, có thể cho riêng Phanxicô biết. Mỗi khi lần hạt, các con hãy đọc lời nguyện sau đây: ‘Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem mọi linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn’".

Bí Mật Fatima - phần thứ ba: Thị Kiến Tử Đạo

Phần thứ ba của Bí Mật Fatima là thị kiến tử đạo, chị Lucia đã viết xong vào ngày 3/1/1944 theo lời yêu cầu của Đức Giám Mục địa phương Da Silva, giáo phận Lieria, vị đã giữ bản văn này trong công hàm của giáo phận cho tới ngày 4/4/1957 thì gửi về Tòa Thánh. Đức Thánh Cha Gioan XXIII nhận được bản văn Bí Mật Fatima phần thứ ba này ngày 17/8/1959, nhưng đợi mấy ngày sau mới đọc với sự hiện diện của cha linh hướng. Tuy nhiên, Ngài đã không tiết lộ gì, như Tòa Thánh công bố quyết định giữ kín phần bí mật này vào ngày 8/2/1960. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đọc bản văn bí mật này vào ngày 27/3/1965, song cũng quyết định không tiết lộ gì. Mãi cho đến Đại Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mới cho phép tiết lộ, vì theo Ngài, phần bí mật còn lại này có liên quan đến biến cố Ngài bị ám sát ngày 13/5/1981, như Đức Hồng Y Angelo Sodano tiết lộ ngày 13/5/2000 vào cuối Thánh Lễ phong chân phước cho Phanxicô và Giaxinta ở Linh Địa Fatima:

• “Trong dịp trọng đại ngài đến Fatima này, Đức Thánh Cha đã chỉ thị cho tôi việc công bố cho anh chị em biết. Như anh chị em đã rõ, mục đích của việc ngài viếng thăm Fatima là để phong chân phước cho hai ‘mục đồng nhỏ’. Tuy nhiên, ngài cũng muốn cuộc hành hương của ngài đây là một cử chỉ lập lại lòng ngài tri ân cảm tạ Đức Mẹ về việc Mẹ đã phù trì giáo triều của ngài trong những năm qua. Việc phù trì này của Mẹ dường như được dính liền với chi tiết được gọi là ‘phần thứ ba’ của bí mật Fatima”.

Về lý do tại sao trong khi các vị tiền nhiệm của mình không muốn tiết lộ Bí Mật Fatima phần thứ ba thì Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II lại quyết định làm điều này, là vì, căn cứ vào những lời ngài chia sẽ trong buổi triều kiến chung ngày thứ tư hằng tuần 17/5/2000 tại Đại Thính Đường Phaolô VI, chúng ta có thể khẳng định là, theo ngài, đã đến lúc phần còn lại của Bí Mật Fatima cần phải được công bố để cảnh tỉnh thế giới, tức để làm cho thế giới nhận biết là thực sự có một bàn tay từ mẫu đã bí mật song hiển nhiên nhúng vào để léo lái lịch sử loài người hiện đại, (từ thế kỷ 20 của cuối thiên niên thứ 2 sang thế kỷ 21 mở đầu thiên niên thứ 3), nhờ đó, lời kêu gọi của trời cao vang vọng ở Fatima về việc loài người hãy ăn năn cải thiện đời sống sẽ được đáp ứng nhiều hơn. Nguyên văn lời Vị Giáo Hoàng đương nhiệm như sau:

• “Tôi cảm thấy đã đến lúc thích hợp cần phải công khai tiết lộ những gì được chất chứa trong phần được gọi là thứ ba của bí mật này. ... Tôi dâng lời cảm tạ tình thương Thiên Chúa đã tỏ hiện qua việc can thiệp từ mẫu của Đức Maria trong thế kỷ 20. Các biến cố của một giai đoạn lịch sử với đầy những khủng hoảng ấy đã được đặc biệt sáng tỏ theo chiều kích của những lần Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Bởi thế, cũng không khó hiểu cho lắm về tất cả những gì Thiên Chúa tình thương đã tỏ cho Giáo Hội cũng như cho loài người thấy qua Đức Maria”. (Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 17/5/2000, đoạn 3)

Ở phần cuối Lời Giới Thiệu của Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano cho văn kiện Bí Mật Fatima phần thứ ba này, chúng ta cũng thấy được lý do tại sao Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã quyết định cho tiết lộ Bí Mật Fatima phần thứ ba ấy, đó là vì Ngài mong muốn con người nhận biết tình yêu thương của Thiên Chúa qua dấu chỉ thời đại hiện lên nơi lịch sử của họ.

• “Quyết định của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong việc cho công bố phần thứ ba của ‘bí mật’ Fatima chấm dứt một giai đoạn lịch sử mang dấu vết con người bi thảm tham lam tìm kiếm quyền lực và sự dữ, song lại là một giai đoạn lịch sử được thấm đẫm tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa cùng với việc chuyên tâm chăm sóc của Mẹ Chúa Giêsu cũng là Mẹ của Giáo Hội”.

Sau đây là nguyên văn nội dung của Bí Mật Fatima phần thứ ba liên quan đến thị kiến tử đạo Kitô giáo:

• “Sau hai phần con đã diễn tả, thì ở bên trái của Đức Mẹ và cao hơn một chút, chúng con thấy có một vị Thiên Thần cầm một lưỡi gươm cháy lửa nơi tay trái; thanh gươm chớp chớp phát ra những ngọn lửa như muốn thiêu đốt thế giới; tuy nhiên, những ngọn lửa ấy đã bị tắt mất trước ánh quang sáng ngời từ bàn tay phải của Đức Mẹ phát ra chiếu về phía vị Thiên Thần, bởi thế, lấy bàn tay phải của mình mà chỉ xuống trái đất, vị Thiên Thần đã kêu lớn tiếng rằng: ‘Hãy ăn năn đền tội, hãy ăn năn đền tội, hãy ăn năn đền tội!’. Rồi chúng con thấy một vị Giám Mục mặc Áo Trắng, ‘mà chúng con có cảm nhận đó là Đức Thánh Cha’, trong một vùng sáng mênh mông là Thiên Chúa, ‘giống như người ta thấy mình đi ngang qua trước một tấm gương soi’. Các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ khác đang tiến lên một ngọn núi dốc đứng, trên đỉnh có một cây Thập Giá lớn, được làm bằng những thân cây nứt nẻ như loại thân cây điên điển còn vỏ; trước khi tiến lên tới đỉnh núi, Đức Thánh Cha đã băng qua một thành phố lớn, một nửa đã bị tàn rụi, còn nửa kia thì đang lẩy bẩy dừng bước, với đầy những đớn đau và buồn khổ, Ngài đã cầu nguyện cho các linh hồn của những thi thể Ngài gặp thấy trên quãng đường đi; tiến tới đỉnh núi rồi thì khi đang quì ở dưới chân cây Thập Giá lớn, Ngài đã bị ám sát bởi một nhóm lính bắn tới bằng những viên đạn và mũi tên, cũng lần lượt bị sát hại như thế có cả các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ cùng với thành phần giáo dân ở các tầng lớp và vai trò khác nhau. Dưới đôi cánh Thập Giá có hai Thiên Thần, mỗi vị cầm trong tay mình một bình nước thánh bằng pha lê để chứa đựng máu của các vị Tử Đạo và hai vị dùng máu ấy vẩy trên những linh hồn đang tìm đường đến cùng Thiên Chúa”.

Chính vì tầm quan trọng của Bí Mật Fatima phần thứ ba này mới có Bản Văn Kiện dẫn giải 40 trang của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, được chính thức phổ biến trong cuộc họp báo vào trưa ngày Thứ Hai 26/6/2000. Để chính thức cắt nghĩa phần Bí Mật Fatima thứ ba này, trong bản dẫn giải thần học được chia làm ba phần của mình ấy, Đức Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Ratzinger đã đi từ vấn đề “vị trí thần học của Mạc Khải Chung và các mạc khải riêng”, sang vấn đề “cấu trúc nhân loại học của các mạc khải tư”, tới vấn đề “cố gắng để giải thích ‘bí mật’ Fatima”. Theo Đức Hồng Y Tổng Trưởng, như “việc cứu các linh hồn” là ý chính của phần Bí Mật Fatima thứ nhất và thứ hai thế nào, thì cũng vậy, “ý chính của phần thứ ba này là tiếng kêu ba lần: ‘Hãy Ăn Năn Đền Tội, Ăn Năn Đền Tội, Ăn Năn Đền Tội!’... Đó là đáp ứng xác đáng với giây phút lịch sử mang những đặc điểm hiểm nguy được tóm gọn nơi những hình ảnh sau đó”.

Tóm lại, ở đoạn kết trong bản dẫn giải của Tòa Thánh về Bí Mật Fatima phần thứ ba này, Đức Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đã nhận định rằng nội dung và cốt lõi của toàn bộ Bí Mật Fatima chính là vấn đề cứu độ.

• “Toàn thể ‘bí mật’ Fatima (cả ba phần) có ý nghĩa gì? Trước hết, chúng ta phải cùng với Đức Hồng Y Sodano xác nhận rằng: ‘... các biến cố được phần bí mật Fatima thứ ba nói đến giờ đây đã thuộc về quá khứ’. Ở chỗ những biến cố riêng rẽ được nói đến chúng đã thuộc về quá khứ. Những ai mong đợi đọc thấy những mạc khải thị kiến hào hứng về ngày tận thế hay về tương lai của giòng lịch sử đành phải ôm hận. Fatima không làm thỏa mãn óc tò mò của chúng ta là ở chỗ đó, như đức tin Kitô Giáo nói chung không thể nào bị giảm xuống thành một đối tượng cho óc tò mò thuần túy. Điều còn lại, khi chúng ta bắt đầu suy nghĩ về bản văn của ‘bí mật’, đã rõ ràng đó là việc huấn dụ nguyện cầu như con đường ‘cứu độ các linh hồn’, cùng với những lời kêu gọi ăn năn đền tội và cải thiện đời sống...”


Bí Mật Fatima: Dự Án Cứu Độ

Thật thế, cứu độ chính là dự án đã được chất chứa nơi Bí Mật Fatima, một dự án là cốt lõi của riêng Bí Mật Fatima và của chung Biến Cố Fatima. Tất nhiên, dự án cứu độ là cốt lõi của Bí Mật Fatima nói riêng và của chung Biến Cố Fatima đây không phải là chính Dự Án Cứu Độ theo Mạc Khải Thánh Kinh. Vì Dự Án Cứu Độ theo Mạc Khải Thánh Kinh là dự án Thiên Chúa muốn cứu độ loài người sa phạm nơi Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô Vượt Qua. Còn dự án cứu độ ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima đây chỉ là một thứ mạc khải hoàn toàn tư riêng!

Tuy nhiên, nếu nói đến dự án cứu độ là nói đến một mình Thiên Chúa, chứ không phải nói đến bất cứ một tạo vật nào, cho dù là Đệ Nhất Tạo Vật về ân sủng là Mẹ Maria, vì chỉ có một mình Thiên Chúa mới là Vị Thần Linh Tối Cao chẳng những nhân hậu ở chỗ bao giờ cũng muốn cứu độ loài người mà còn toàn năng ở chỗ có thể hoàn toàn cứu độ loài người khỏi tội lỗi và sự chết, thì dự án cứu độ ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima cũng hội đủ yếu tố thần linh này. Nghĩa là, cũng phát xuất từ chính Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu và toàn năng, Đấng đã thực hiện Dự Án Cứu Độ (Plan of Salvation) theo Mạc Khải Thánh Kinh Công Cuộc Cứu Độ (Economy of Salvation) bằng chính Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Con Ngài, Đấng mà giờ đây, ở vào thời điểm con người đã và đang tiến đến một thời điểm lịch sử văn minh hầu như tột đỉnh về vật chất cũng như về nhân bản, song chính họ lại hết sức phập phồng lo sợ bị hủy diệt ngay bởi những gì họ sáng chế ra (như bom đạn thời Thế Chiến Thứ I là lúc xẩy ra Biến Cố Fatima), nhất là bởi chính những luật lệ về nhân quyền (chẳng hạn luật được quyền ly dị và phá thai sau Thế Chiến Thứ II), Ngài lại tỏ rõ ý muốn cứu độ của Ngài hơn nữa, bằng việc chỉ cho con người văn minh song lại hết sức yếu đuối từ thế kỷ 20 một con đường có thể dẫn họ đến với ơn cứu độ.

Con đường đó là gì và như thế nào, đã được Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu và toàn năng này rõ ràng tỏ cho con người biết từ đầu thế kỷ 20, vào chính thời điểm gần kết thúc Thế Chiến Thứ I, thời điểm con người ghen ghét nhau hết cỡ, đến chỗ nhào vô sát hại nhau đại thể ở tầm mức quốc tế như chưa bao giờ có trong giòng lịch sử loài người trước đấy, đó là Con Đường Maria! Thật vậy, vào lần hiện ra thứ ba, lần hiện ra có thể nói là quan trọng nhất trong toàn Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, lần hiện ra mà ngay trước đó em Thiếu Nhi Fatima lớn nhất là Lucia đã phải cấp báo cho hai em Phanxicô và Giaxinta biết rằng em không thể đến địa điểm Đức Mẹ hẹn hiện ra hằng tháng với 3 em vào ngày 13 được, bởi em bấy giờ đang bị cám dỗ trầm trọng về mối nghi ngờ liên quan đến tính cách đích thực của Biến Cố Fatima, vì lần này Mẹ Maria đã tỏ cho 3 em biết toàn bộ Bí Mật Fatima, một bí mật chất chứa Dự Án Fatima, một Bí Mật cho thấy Dự Án Cứu Độ thời đại của Thiên Chúa. Dự án cứu độ ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, một dự án cứu độ quả thực đáng được gọi là một Bí Mật, đó là ai tôn sùng Mẹ Maria thì được cứu độ. Chính Mẹ Maria đã tiết lộ Dự Án Cứu Độ ở Fatima trong phần thứ hai của Bí Mật Fatima:

• “Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn rơi xuống. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu những điều Mẹ dạy được thi hành thì nhiều linh hồn được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình”.

Phải, tất cả Bí Mật Fatima là ở chỗ này. Ở chỗ: “tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ”. Và Tất cả dự án cứu độ ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima là như thế, là “nhiều linh hồn được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình”. Thật ra, việc tôn sùng Mẹ Maria chỉ là một bí mật đối với chung loài người mà thôi, nhưng lại là một bí mật đã được Thiên Chúa tỏ cho các linh hồn bé mọn là các thánh nhân biết (x Lk 10:21), như đã được Đức Thánh Cha Piô XII xác nhận trong Thông Điệp về Phụng Vụ Thánh Mediator Dei ban hành ngày 20/11/1947 của Ngài: “Việc tôn sùng Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, một dấu hiệu được ‘tiền định’ theo ý nghĩ của những vị thánh…” (khoản 176). Điển hình nhất là Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort), trong Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của mình, thánh nhân đã dám khẳng định là dấu hiệu hư mất hay dấu hiệu không được tiền định cứu độ đó là “khinh khi và dửng dưng với Đức Mẹ… vì họ là những tên Esau” (số 30); “Chúng ta cần phải nhận định rằng, theo các thánh Giáo Phụ và các nhà giải thích Thánh Kinh thì Giacóp là hình ảnh Chúa Giêsu Kitô và là thành phần được tiền định, còn Esau là hình ảnh của thành phần hư mất” (số 185).

Ở đây, qua những lời Mẹ Maria mở đầu phần thứ hai Bí Mật Fatima vừa được trích dẫn, chúng ta thấy Vị Thiên Chúa nhân hậu và toàn năng đã cứu độ con người khỏi tội lỗi và sự chết qua Cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô, từ đầu thế kỷ 20, đã chẳng những ngỏ ý muốn cứu các linh hồn về phương diện cá nhân, mà còn muốn cứu toàn thể nhân loại về phương diện toàn cầu thế giới nữa. Thế nhưng, dù là cá nhân hay thế giới, việc Ngài cứu độ vào thời điểm Ngài “ấn định” (x Gal 4:4), một thời điểm có thể được gọi là Thời Điểm Maria đây, đều liên quan đến Mẹ Maria, liên quan đến lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Nghĩa là, nếu cá nhân cũng như thế giới không nhận biết và yêu mến Mẹ, không tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ thì còn các linh hồn còn hư đi và thế giới còn chiến tranh loạn lạc, như Mẹ đã cảnh giác ngay sau câu vừa được trích dẫn trên đây ở trong phần thứ hai của Bí Mật Fatima:

• “Chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng nếu người ta không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong đời Đức Piô XI. Khi các con thấy ánh sáng lạ lùng chiếu giữa ban đêm, thì các con hãy biết rằng đó là điềm lạ vĩ đại Thiên Chúa muốn cho các con hay Ngài sắp sửa trừng phạt thế giới tội lỗi, bằng chiến tranh, đói khát và việc bắt bớ Giáo Hội cùng Đức Thánh Cha. Để ngăn ngừa điều này, Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng. Nếu người ta nghe lời Ta yêu cầu, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình. Bằng không, Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Nhiều người lành bị giết, Đức Thánh Cha sẽ khổ; nhiều nước sẽ biến mất……”.

Tuy nhiên, chính trong lời cảnh báo đầy kinh hoàng này, chúng ta cũng thấy được Vị Thiên Chúa nhân hậu và toàn năng muốn dùng hết cách để cứu độ con người, kể cả trong trường hợp họ không chịu nghe theo và áp dụng Bí Mật Fatima, tức dự án cứu độ Ngài tỏ ra ở Fatima là tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, là nhận biết và yêu mến Mẹ. Trong Lịch Sử Cứu Độ trong Cựu Ước xưa đối với dân Do Thái cũng thế, nếu Vị Thiên Chúa của Giao Ước Yêu Thương đầy đọa dân mình, thậm chí đầy ải họ sang Babylon, vì tội lỗi bất trung và gian dâm ngẫu tượng của họ, là để họ tỉnh ngộ trở về với Ngài thế nào, thì Ngài cũng vẫn sử dụng cùng một đường lối cứu độ và phương pháp sư phạm ấy với loài người nói chung, nhất là với dân Tân Ước của Ngài là Giáo Hội Chúa Kitô nói riêng. Ở chỗ, Ngài để cho họ (một Âu Châu hầu như thuần Kitô giáo, nơi có Tòa Thánh Vatican, thủ phủ của Giáo Hội Công Giáo) chẳng những chém giết nhau giữa thành phần dê mà còn bị bách hại nơi thành phần chiên nữa. Cho tới khi, đúng thế, cũng cho tới “thời điểm ấn định” của mình, Ngài đã ra tay cứu dân Cựu Ước thế nào, Ngài cũng ra tay cứu thế giới con người ở thế kỷ 20 nói riêng và của lịch sử hậu thế kỷ 20 nói chung. Đó là lý do, ngay sau những lời cảnh giác đầy kinh hoàng trên đây, Mẹ Maria đã tự động kết thúc bằng những lời lẽ phấn khởi đầy hy vọng hết sức bất ngờ:

• “… nhưng cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được ban cho một thời gian hòa bình”.

Phần thứ ba của Bí Mật Fatima đã cho 3 Thiếu Nhi Fatima thấy lời tiên tri cuối cùng này của Mẹ Maria sẽ được thực hiện như thế nào trong tương lai (thế kỷ 20). Đó là Mẹ đã ngăn cản việc Thiên Chúa hủy hoại hay tiêu diệt thế giới, một thế giới đẫm máu tử đạo của Kitô hữu, trong đó có cả máu của chính vị đại diện Chúa Kitô, vị thừa kế Thánh Phêrô, những giọt máu đức tin đổ ra dưới chân cây thập giá cứu độ của Chúa Kitô, một thế giới nhờ đó những tâm hồn thiện chí tìm kiếm Thiên Chúa cuối cùng đều được lãnh nhận ơn cứu độ.

Thế nhưng, tại sao Thiên Chúa không “thiết lập lòng tôn sùng” nào khác để cứu độ con người từ đầu thế kỷ 20, như lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu hay tôn sùng Thánh Thể hoặc tôn sùng Chúa Thánh Linh, mà là lòng tôn sùng “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria”? Vấn đề này sẽ được chia sẻ trong phần tiếp theo “Sứ Điệp Fatima: Linh Đạo Cứu Độ”.

 

Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Trò Chơi Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay A và C

 
“Nếu ngươi là Con Thiên Chúa”

 Phúc Âm

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá nầy biến thành bánh đi”. Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa”. Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước nầy, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tùy ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!” Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi”. Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giêrusalem, để Người trên góc tường cao đền thờ và bảo rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!” Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.

Hướng Dẫn

Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy ít là năm điều chính yếu sau đây:
• Thứ nhất, Chúa Giêsu được Thần Linh đưa vào sa mạc với mục đích là để Người chịu cám dỗ.
• Thứ hai, Người đã chống lại chước cám dỗ và thắng tên cám dỗ bằng việc ăn chay 40 đêm ngày.
• Thứ ba, ma quỉ tinh khôn đã đợi đến khi Người đói mới đến cám dỗ để dễ thắng được Người hơn.
• Thứ bốn, chước cám dỗ đánh vào ba yếu điểm của con người là nhục dục, ảo tưởng và tham lam.
• Thứ năm, ma quỉ muốn cám dỗ Người để xem Người có phải là Con Thiên Chúa hay chăng?
Vậy chúng ta hãy cùng nhau sinh hoạt trò chơi “Nếu ngươi là Con Thiên Chúa thì hãy…”.

Sinh Hoạt

Một người đóng vai tên cám dỗ hay ma quỉ; một người đóng vai Chúa Giêsu.

1. Để tấn công nhục dục của Chúa Giêsu, ma qủi đưa tay lên miệng, cử chỉ cám dỗ Chúa Giêsu hóa đá thành bánh mà ăn;

2. Chúa Giêsu chống lại bằng cách lấy bàn tay che miệng lại rồi hất ra phía trước, cử chỉ biểu hiệu con người còn sống bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

3. Để tấn công ảo tưởng của Chúa Giêsu, ma quỉ lấy bàn tay chỉ xuống đất, cử chỉ xui Người cứ việc từ trên nóc đền thờ nhẩy xuống;

4. Chúa Giêsu chống lại bằng cách lấy bàn tay lắc lắc như chối từ theo ý nghĩa chữ “đừng” trong câu Thánh Kinh được Người trích dẫn “Đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi”.

5. Để xem Chúa Giêsu có tham lam không, ma quỉ quì xuống, cử chỉ thách Chúa Giêsu làm như thế để được hắn ban tất cả vinh hoa phú quí trần gian cho;

6. Chúa Giêsu chống lại bằng cách lấy tay chỉ thẳng vào hắn, cử chỉ đuổi hắn đi hắn quá phạm thượng.

7. Nếu ma quỉ làm cử động cám dỗ này mà Chúa Giêsu lại tỏ cử chỉ chống trả không đúng thì người đó không phải là Con Thiên Chúa, vì Con Thiên Chúa chỉ thắng chứ không bao giờ bị thua ma quỉ.
 

Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,  gợi ý

 

27/2 Thứ Sáu

ĐTC GPII với tân lãnh sự Mễ Tây Cơ về vấn đề chính phủ phải bảo đảm quyền tự do tôn giáo

Hôm Thứ Ba 24/2/2004, ĐTC GPII đã tiếp nhận vị tân lãnh sự của Nước Mễ Tây Cơ là ông Javier Moctezuma Barragan. Trong diễn từ của mình ngỏ cùng vị tân lãnh sự này, ĐTC đã nhắc lại chuyến tông du đầu tiên giáo triều của Ngài là đến Mễ Tây Cơ 25 năm trước. Ngài cũng ghi nhận là vào Tháng 10/2004, Hội Nghị Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 48 sẽ được tổ chức tại Guadalajara nước này. ĐTC cũng nhấn mạnh đến việc tái thiết lập bang giao giữa Mễ Tây Cơ và Tòa Thánh vào tháng 9/1992, với nhận định như sau:

“Qua những tháng năm này, những năm tháng được đánh dấu bằng những đổi thay nhanh chóng và sâu xa nơi những lãnh vực về chính trị, xã hội và kinh tế của xứ sở này, Giáo Hội Công Giáo, trung thành với sứ mệnh mục vụ riêng của mình, đã tiếp tục cổ võ công ích của nhân dân Mễ Tây Cơ, tìm cách đối thoại và hiểu biết những tổ chức công khác nhau cũng như tìm cách bênh vực quyền lợi của mình trong việc tham sự vào đời sống của quốc gia. Hy vọng rằng Giáo Hội ở Mễ Tây Cơ có thể hoàn toàn được hưởng tự do trong tất cả mọi lãnh vực đang được Giáo Hội phát triển về sứ vụ mục vụ và xã hội của mình. Giáo Hội không tìm kiếm những đặc ân đặc sủng cũng như không muốn pha mình vào những lãnh vực không hợp với mình, thế nhưng Giáo Hội muốn hoàn thành sứ vụ của mình liên quan đến thiện ích về thiêng liêng cũng như về nhân bản của nhân dân Mễ Tây Cơ mà không bị trở ngại hay ngăn cấm. Bởi thế, các tổ chức của Quốc Gia cần phải bảo toàn quyền tự do tôn giáo của con người cũng như của các đoàn thể, tránh đi tất cả những hình thức bất dung hay kỳ thị. Có thế, hy vọng rằng trong một tương lai không bao lâu nữa,… sẽ có những tiến triển trong các lãnh vực như lãnh vực giảng dạy tôn giáo ở các môi trường khác nhau, lãnh vực hỗ trợ thiêng liêng nơi ngành chăm sóc sức khỏe, nơi những trung tâm xã hội và an sinh của quần chúng cũng như nơi các phương tiện truyền thông đại chúng.

“Người ta không bao giờ được bỏ cuộc trước những lừa bịp của những ai, vì có quan niệm sai lầm về nguyên tắc về vấn đề phân biệt giữa Giáo Hội với Quốc Gia cũng như về tính chất trần thế của Quốc Gia, có ý biến tôn giáo thành một phạm vi hoàn toàn riêng tư đối với cá nhân con người, không nhìn nhận Giáo Hội được quyền giảng dạy tín lý của mình và đưa ra những phán quyết về luân lý đối với những vấn đề liên quan tới lãnh vực xã hội”.

Sang vấn đề “xây dựng một nền văn hóa dân chủ và củng cố một Quốc Gia có luật lệ”, ĐTC nhận định là “gần đây các vị Giám Mục Mễ Tây Cơ, … đã thiết tha kêu gọi việc hiệp nhất quốc gia và việc đối thoại nơi những vị lãnh đạo sinh hoạt xã hội”. Ngài nhấn mạnh tới “vấn đề nghèo khổ buồn thảm và bao rộng”, cho đó là “một thách đố khẩn trương đối với các chính trị gia cũng như với những vị lãnh đạo lãnh vực quần chúng. Việc nhổ tận gốc tình trạng bần cùng nghèo khổ này đòi phải có những phương tiện có tính cách kỹ thuật cũng như chính trị”, thế nhưng, “người ta không bao giờ được quên rằng những phương tiện này sẽ không đủ nếu chúng không được tác động bởi những thứ giá trị đạo lý chân thực…. Một thứ phát triển không cương quyết đối đầu với những sự chênh lệch về xã hội không thể nào phát triển trong tương lai được”.

ĐTC, trong phần kết thúc, đã không quên đề cập tới vấn đề dân bản xứ ở Mễ Tây Cơ, yêu cầu hãy đặc biệt chú trọng tới họ “vì họ thường bị tẩy chay ở trong một lãnh giới của thành phần bị quên lãng”. Ngài cũng bày tỏ mối quan tâm đến “hiện tượng di dân của dân chúng Mễ Tây Cơ lan tràn tới các quốc gia khác, nhất là sang Hoa Kỳ”, thành phần sẽ chịu những ảnh hưởng tiêu cực. “Cần phải khám phá và chữa trị” những nguyên nhân của việc di dân, và “những người Mễ sống ở hải ngoại không bao giờ lại cảm thấy rằng mình là thành phần bị các nhà lãnh đạo quốc gia bỏ quên”.

 

Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay: Ánh Sáng Vui Mừng Và Hy Vọng

Chúng ta không lấy gì làm lạ khi thấy giới truyền thông luôn lợi dụng những sơ hở hay lầm lỡ của Kitô hữu Công giáo chúng ta, dù chỉ một cá nhân, như vụ tố cáo ĐTC Piô XII là không chịu lên tiếng chống lại Đảng Nazi làm cho bao nhiêu triệu người Do Thái bị chết vào giai đoạn Thế Chiến I, một vụ đã được sử sách và chứng tích cho thấy là sai lầm, hay chỉ là một thiểu số, chẳng hạn như thiểu số linh mục Hoa Kỳ lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên.

Bishop William Franklin announces the results of the investigation in Davenport, Iowa, on Ash Wednesday.

Tuy nhiên, vấn đề ở đây là, Giáo Hội Công Giáo ở Hoa Kỳ, tuy xấu hổ vì con sâu làm rầu nồi canh, nhưng vẫn can đảm nhận lỗi và sửa lỗi. Chính vì không muốn thấy tình trạng gương mù gương xấu này xẩy ra nữa, một tệ trạng chẳng những làm thiệt hại đến vật chất của Giáo Hội, mà còn đến uy tín hoạt động cùng thế giá truyền giáo của Giáo Hội nữa, cả đối nội cũng như đối ngoại, Giáo Hội Công Giáo ở Hoa Kỳ đã không ngần ngại thực hiện một cuộc tìm hiểu cho tường tận vấn đề trầm trọng này để đề phòng tương lai và sửa chữa hiện tại. Việc tìm hiểu này đã thực hiện bởi John Jay College ở Nữu Ước chuyên về Công Lý Tội Ác, căn cứ vào hồ sơ của các giáo phận ở toàn quốc, và được phổ biến vào ngày 27/2/2004, với những chi tiết sau đây:

Về phía phạm nhân, có 4.450 vị linh mục bị tố cáo trong vòng 52 năm, từ năm 1950 đến 2002, tức 4% trong tổng số 110 ngàn vị. Hơn 50% vị linh mục bị tố cáo 1 lần duy nhất, 25% hay 1.112 vị bị tố cáo từ 2 đến 3 lần, gần 13% hay 578 vị từ 4 đến 9 lần, và gần 3% hay 133 vị bị tố cáo 10 lần hay hơn. Trong 11 ngàn vụ tố cáo chỉ có 6.700 vụ là được điều tra và có chứng cớ, 1 ngàn vụ không có chứng cớ, và 3300 vụ không điều tra được vì các vị linh mục bị tố cáo đã chết. Về phía nạn nhân, có 78% ở vào tuổi giữa 11 và 17, 16% từ 8 đến 10, và gần 6% từ 7 tuổi trở xuống. Về những yếu tố góp phần vào cuộc khủng hoảng này có thể kể đến là vì không cho vấn đề này là quan trọng, quá nhấn mạnh đến việc tránh dấu gương mù gương xấu, sử dụng các trung tâm trị liệu không đủ phẩm chất, sẵn lòng tha thứ một cách lầm lẫn và không đủ uy tín. Riêng tại TGP Boston, có 162 vị linh mục, trong vòng 52 năm đã bị tố cáo lạm dụng tình dục 815 vị thành niên. Hiện nay có trên 44 ngàn vị linh mục đang phục vụ tại Hoa Kỳ. Về tiền bồi thường, tổng số đã lên tới 533.4 triệu Mỹ kim. Riêng TGP Boston chiếm 120.6 triệu, tức gần 20.5%.

Riêng Giáo Phận Orange, một giáo phận đã tách khỏi TGP Los Angeles từ năm 1976 và được thành lập ngày 18/6/1976. Trong số 102 vị linh mục được chịu chức từ năm 1978, trong đó có 19 vị là Việt Nam (tức 20%), đã có 14 trên 16 vị đã bị chính thức treo chén vì vụ này. Vào ngày 15/1/2004, qua các vị chủ chiên của mình là ĐGM Tod Brown, ĐGM Jaime Soto và ĐGM Mai Thanh Lương đã công bố 7 điểm hứa quyết với Cộng Đồng Dân Chúa như sau:

1) Chúng tôi sẽ làm hết sức mình để thực hiện việc chữa lành cho tất cả những nạn nhân bị lạm dụng tình dục bởi hàng giáo sĩ hay bởi thành phần viên chức trong giáo hội.

2) Chúng tôi sẽ hoàn toàn áp dụng Bản Hiến Chương Về Việc Bảo Vệ Trẻ Em và Thanh Thiếu Niên, cũng như sẽ thực hiện những đường lối khôn khéo để làm sao cho Giáo Hội trở thành một môi trường an toàn cho tất cả mọi người, nhất là cho thành phần trẻ em và thanh thiếu niên.

3) Chúng tôi sẽ hàn gắn vết tổn thương nơi hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân là những người cảm thấy hổ thẹn, nhục nhã và bị khinh bỉ bởi những hành động của các kẻ có những hành vi lạm dụng tình dục cũng như bởi các vị lãnh đạo đã bao che cho những hành động này.

4) Chúng tôi sẽ cộng tác làm việc với tất cả mọi phần tử của Giáo Phận về những ý nghĩ quan tâm đến vấn đề cải tiến Bản Hứa Quyết này và làm theo những lời đề nghị nào hay nhất.

5) Chúng tôi sẽ cởi mở, thành thực và chính xác nơi những lời phát biểu công khai của chúng tôi với giới truyền thông, cùng truyền đạt một cách minh bạch và thường xuyên với cộng đồng dân Chúa trong Giáo Phận.

6) Chúng tôi sẽ, bằng những gì chúng tôi làm, chứ không phải chỉ ở những gì chúng tôi nói, phục hồi niềm tin tưởng nơi cộng đồng dân Chúa, để cùng nhau chúng ta trở thành Khâm Sai thật sự của Tình Yêu Thiên Chúa.

7) Chúng tôi sẽ tỏ hiện Tình Yêu này ra trong cuộc sống hằng ngày của mình đối với tất cả mọi người ở Orange County, nhất là đối với thành phần nghèo khổ và bị hất hủi trong cộng đồng của chúng ta.

Dầu sao, qua biến cố đau thương ở Giáo Hội Hoa Kỳ cũng cho chúng ta thấy những điểm chính yếu sau đây: Trước hết, Giáo Hội có hai chiều kích, hữu hình và vô hình, thần linh và nhân thế, toàn hảo và bất toàn. Thế nhưng, chính yếu tố bất toàn về nhân thế liên quan đến phần thể của Giáo Hội lại càng làm sáng tỏ yếu tố thần linh của Giáo Hội, ở chỗ, Giáo Hội đầy những yếu đuối như thế, nhưng Giáo Hội chẳng những vẫn đứng vững mà còn phát triển hơn bao giờ hết. Bởi vì có Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế, thì cho dù cả hỏa ngục có vùng lên đi nữa cũng không thể nào làm gì được con thuyền Giáo Hội có Chúa đang ngủ ở đằng lái.

Vì là một cơ cấu hữu hình, Giáo Hội dù không thuộc về thế gian song vẫn thực sự ở trong thế gian, với tư cách là ánh sáng muôn dân, Lumen Gentium, mang vui mừng và hy vọng, Gaudium et Spes, đến cho con người qua mọi thời đại, nhất là cho thế giới tân tiến ngày nay.

Đó là lý do lịch sử thế giới đã chứng kiến thấy Giáo hội Công Giáo đã thăng hóa văn hóa con người bằng văn minh yêu thương qua vô vàn dịch vụ xã hội và giáo huấn về luân lý liên quan đến các lãnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa.

Về lãnh vực phục vụ xã hội, dù có chê bai Giáo Hội về một thiểu số tiêu cực lầm lỗi đi nữa, theo công tâm, người ta vẫn không thể phủ nhận được Giáo Hội Công Giáo đã phục vụ xã hội loài người, ở khắp mọi nơi trên thế giới, qua các học đường, bệnh viện, trại cùi, cô nhi viện v.v. Đến nỗi, dù là con cái của đảng viên cộng sản hay của các vị cầm quyền tai to mặt lớn trong nước cũng muốn cho con mình học ở các trường Công Giáo, chẳng hạn vào trường Talbert của các sư huynh dòng Lasan ở Sài Gòn Việt Nam trước 1975. Hiện nay, trên 120 quốc gia trên thế giới, kể cả các nước Cộng Sản, đã mời hội dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêsa đến cứu giúp họ giải quyết vấn đề thành phần cùng khốn của họ.

Về phương diện chính trị, các nhà lãnh đạo khắp nơi trên thế giới đã tìm đến gặp Vị Thủ Lãnh của Thế Giới Công Giáo, kể cả tổng thống đệ nhất cường quác Hoa Kỳ, hay Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, thậm chí cả những nhà lãnh đạo các tôn giáo lớn trên thế giới. Đặc biệt nhất là vị lãnh đạo cuối cùng của Khối Cộng Sản Liên Bang Ngô là Mikhail Gorbachev ngày 1/12/1989, thời điểm ngay sau biến cố Khối Cộng Sản Đông Âu tự động sụp đổ một cách đột ngột trước đôi mắt hết sức bàng hoàng kinh ngạc của cả thế giới tư bản lẫn cộng sản. Chính vị này đã phải công khai cộng nhận là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đóng một vai trò quan trọng trong biến cố đông âu sụp đổ.

Cho tới nay, có cả 180 quốc gia trên thế giới có liên hệ ngoại giao với Tòa Thánh Vatican, và Tòa Thánh Vatican là quan sát viên chính thức ở Liên Hiệp Quốc. Tuy không làm chính trị, nhưng Giáo Hội đã lợi dụng việc sống trong môi trường trần thế để làm cho ba đấu bột chính trị, kinh tế và văn hóa dậy lên men Phúc Âm Chúa Kitô, bằng những giáo huấn của mình, những giáo huấn chẳng những chống cộng sản mà còn chống cả tư bản thái quá, tư bản đến phi nhân bản, tư bản duy hưởng thụ và duy thực dụng, tư bản tân thực tân đế quốc.

Nếu đối với những kẻ thành tâm thiện chí và tìm chân thiện mỹ thì Giáo Hội chính là lương tâm của thế giới, luôn nhắc nhở thế giới làm lành lánh dữ, thì đối với những kẻ chuộng tối tăm hơn ánh sáng như lời vị sáng lập nhận định Giáo Hội là cái gì chướng tai gai mắt nhất, cần phải triệt hạ và thủ tiêu. Đúng như Đấng Sáng Lập Giáo Hội đã tiên báo: Nếu thế gian đã bắt bớ Thày thì họ cũng bắt bớ các con. Sở dĩ thế gian ghen ghét các con là vì các con không thuộc về họ (xem Jn 15:19-20). Bởi thế, càng bị thế gian tấn công, càng chứng tỏ cho thấy chúng ta là ánh sáng, vì tối tăm rất kỵ ánh sáng.

Dầu sao, trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta cũng cần phải tự kiểm xem mình đã thực sự là ánh sáng thế gian chưa? Vẫn biết thế gian không thể nào tránh khỏi gương mù, nghĩa là không thể nào không có bóng tối, nhưng cũng chính vì vậy mà thế gian mới cần phải có ánh sáng chiếu soi để đánh tan bóng tối tội lỗi và sự chết. Là ánh sáng thế gian, nếu chưa soi sáng đủ, theo đúng bản chất Kitô giáo của mình, với hết khả năng và thiện chí của mình, chúng ta đừng vội trách móc thế gian sao mà tội lỗi quá, tận thế đến nơi rồi, cái gì mà nam nam lấy nhau, nữ nữ lấy nhau, cái gì mà tạo sinh sao bản cloning con người, không cần đến việc ân ái vợ chồng, cái gì mà động một tí là ly dị, cái gì mà hưởng lạc cho đã rồi phá thai v.v.

Chúng ta hãy nhớ lại lời ĐTC đã nói với giới trẻ Bulgaria vào chiều Chúa Nhật 26/5/2002 tại Vương Cung Thánh Đường Plovdiv là: “Quí bạn trẻ thân mến, quí bạn đừng bao giờ quên rằng một khi đấu bột không dậy men, thì không phải là do lỗi của đấu bột mà là của men. Khi ngôi nhà bị tối tăm tức là ánh sáng đã bị tắt mất”. Bởi vậy, để cứu vãn tình thế, để xua tan bóng tối của màn đêm văn hóa sự chết đang bao trùm lịch sử loài người từ sau Thế Chiến Thứ II tới nay càng ngày càng dầy đặc và chập chùng ma quái, cùng với nỗ lực truyền bá Phúc Âm Hóa của chung Giáo Hội hoàn vũ, mỗi Kitô hữu chúng ta cần phải “chiếu sáng trước mắt con người để họ nhìn thấy các việc lành của các con mà tôn vinh Cha các con trên trời’” (Mt 5:16). Amen.

Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Bài chia sẻ cho phần sống đạo của Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 182, 7/3/2004
 

26/2 Thứ Năm

ĐTC GPII chủ sự Lễ Nghi Xức Tro: Mùa Chay là một hành trình cầu nguyện, thống hối và khổ chế

Thứ Tư Lễ Tro, mở màn cho Mùa Chay 2004, vào lúc 10 giờ 30 sáng, tại Đền Thờ Thánh Phêrô, ĐTC đã chủ sự Cử Hành Lời Chúa và lễ nghi làm phép tro rồi xức tro. Sau phần Lời Chúa, ĐTC đã giảng về ý nghĩa Mùa Chay, bài giảng thay cho bài giáo lý hằng tuần thường được ĐTC huấn dạy vào các buổi triều kiến chung ở mỗi ngày Thứ Tư hằng tuần. Sau đây là những ý tưởng chính yếu trong bài giảng của Ngài:

1.- “Cha các con là Đấng thấy trong kín đáo sẽ thưởng công cho các con” (Mt 6:4,18). Những lời này của Chúa Kitô được ngỏ với mỗi một người trong chúng ta khi mở màn cuộc hành trình Mùa Chay này. Chúng ta bắt đầu bằng bằng việc xức tro, một tác động thống hối thanh đạm được truyền thống Kitô giáo hết sức kính chuộng. Tác động này nhấn mạnh đến việc con người nhận thức được mình là một tội nhân trước Thiên Chúa uy nghi và thánh hảo. Đồng thời tác động ấy còn cho thấy con người tỏ ra muốn ôm ấp Phúc Âm và chuyển dịch việc gắn bó với Phúc Âm này thành những chọn lựa đặc biệt.

Những công thức được kèm theo việc xức tro này hết sức ý nghĩa. Công thức thứ nhất, được trích từ Sách Khởi Nguyên: “Hãy nhớ rằng các ngươi là bụi đất thì các ngươi sẽ trở về với đất bụi” (3:19), nhắc nhở thân phận hiện tại của con người mang dấu hiệu chuyển tiếp và giới hạn. Công thức thứ hai trích từ những lời Phúc Âm: ‘Hãy ăn năn hối cải và tin vào Phúc Âm” (Mk 1:15), những lời khẩn trương kêu gọi cải đổi cuộc sống của con người. Cả hai công thức đều kêu gọi chúng ta hãy tiến vào Mùa Chay bằng một thái độ lắng nghe và chân thành trở lại.

2. Phúc Âm nhấn mạnh là Chúa “thấy trong kín đáo”, tức là Ngài thấu suốt cõi lòng. Những cử chỉ thống hối bên ngoài chỉ có giá trị khi nó bộc lộ một thái độ nội tâm, khi nó thể hiện một ý muốn mạnh mẽ muốn tránh lánh sự dữ và đi vào con đường ngay nẻo chính. Đó mới là ý nghĩa sâu xa của việc khổ chế Kitô giáo.

‘Khổ chế’, tự mình, từ ngữ này gợi lên một hình ảnh vươn tới những mục đích cao cả hơn. Hình ảnh này cần phải bao gồm hy sinh và bỏ mình. Thật vậy, người ta cần phải biến hành lý thành những gì chính yếu để cuộc hành trình khỏi bị kéo lê, để sẵn sàng đối diện với bất cứ một khó khăn nào cũng như để thắng vượt tất cả mọi chướng ngại vật hầu đạt tới mục tiêu ước mong. Để trở thành những người môn đệ chân thực của Chúa Kitô, cần phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Người. Đó là con đường khổ công nên thánh hết mọi người đã lãnh nhận phép rửa đều được kêu gọi tiến bước.

3. Giáo Hội luôn đề ra một số những phương tiện hữu ích để tiến bước trên đạo lộ này. Trước hết, đó là việc khiêm hạ và chân thành gắn bó với ý muốn của Thiên Chúa, được kèm theo bằng việc không ngừng nguyện cầu; những cách thức ấy là những thói lệ thống hối quen thuộc theo truyền thống Kitô giáo, như hãm mình, chay tịnh, phạt xác và từ bỏ những sự vật tự bản chất vốn được phép sử dụng; những cử chỉ đặc biệt gắn bó với tha nhân được bài Phúc Âm hôm nay đề cập tới bằng chữ ‘bố thí’. Tất cả những việc này lại được đề ra một cách mạnh mẽ hơn trong thời đoạn Mùa Chay là thời đoạn tiêu biểu cho một ‘thời gian tha thiết’ với việc thao luyện thiêng liêng và quảng đại phục vụ anh chị em của chúng ta.

4. Để đạt mục đích này, trong Sứ Điệp cho Mùa Chay, Tôi đã muốn đặc biệt chú trọng tới những tình trạng khốn khó của rất nhiều trẻ em sống trên thế giới này, bằng cách nhắc lại những lời của Chúa Kitô: “Ai tiếp nhận một con trẻ nào như con trẻ này nhân danh Thày là tiếp nhận Thày” (Mt 18:5). Thật vậy, còn ai cần phải được bênh vực và bảo vệ hơn một đứa bé bất lực và mỏng dòn?

Những vấn đề hành khổ thế giới trẻ em thì nhiều và phức tạp. Tôi hy vọng rằng chúng ta, bằng việc đoàn kết với nhau, sẽ cống hiến việc chăm sóc cần thiết cho những người anh chị em nhỏ bé nhất của chúng ta, thành phần thường bị bỏ mặc. Đó là một cách thức đặc biệt theo chiều hướng nỗ lực sống Mùa Chay vậy.

Anh Chị Em thân mến, với những cảm thức như thế, chúng ta bắt đầu Mùa Chay, một cuộc hành trình nguyện cầu, thống hối và khổ hạnh theo tinh thần Kitô giáo đích thực. Xin Mẹ Maria, Mẹ Chúa Kitô, đồng hành với chúng ta. Chớ gì mẫu gương của Mẹ và lời chuyển cầu của Mẹ giúp chúng ta hân hoan tiến đến Lễ Phục Sinh.

Sau bài giảng của ĐTC là lễ nghi xức tro, trong khi các tín hữu nhận tro từ các vị linh mục thì ĐTC nhận tro từ ĐHY Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ tài liệu của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 25/2/2004
 

ĐTC GPII với tân lãnh sự Thổ Nhĩ Kỳ

về mối liên hệ giữa Giáo Hội và Quốc Gia và về Liên Hiệp Quốc


Thứ Bảy 21/2/2004, ĐTC GPII đã tiếp nhận vị tân lãnh sự Thổ Nhĩ Kỳ là Osman Durak. Trong bài diễn từ của mình ngỏ với vị tân lãnh sự này, ĐTC đã nhấn mạnh đến vấn đề liên hệ giữa Giáo Hội và Quốc Gia. Sau đây là nguyên văn toàn bài diễn từ của Ngài.


Thưa Ông Lãnh Sự,

Tôi hân hoan tiếp nhận ông khi chấp nhận Bổ Nhiệm Thư về việc ông làm Lãnh Sự của Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ ở Tòa Thánh. Một trong những cuộc tông du đầu tiên của Giáo Triều của mình Tôi đã đến xứ sở của ông, “như là một sứ giả của hòa bình và như là một thân hữu” (Lời Tạ Biệt ở Smyrna, 30/11/1979). Với những hồi niệm về cuộc hành trình lịch sử còn đậm nét trong tâm trí mình, Tôi xin cám ơn ông về những lời chào hỏi của Tổng Thống Ahmet Necdet Sezer được ông chuyển tới Tôi, và Tôi cũng hân hoan gửi những lời cầu chúc tất đẹp của Tôi tới các vị thẩm quyền cùng nhân dân xứ sở của ông. Tôi xin ông bảo đảm với họ về việc Tôi nguyện cầu cho họ.
Ông đã đề cập tới tình trạng của Thổ Nhĩ Kỳ như là một Quốc Gia dân chủ được hành trị theo qui tắc luật pháp là những gì làm cho tất cả mọi người công dân đều được hưởng những quyền lợi tương đương nhau. Thật vậy, qui tắc luật pháp và mức quân bình về các thứ quyền lợi là những đặc tính thiết yếu đối với bất cứ một xã hội tân tiến nào muốn thực sự tìm cách bảo toàn và cổ võ công ích. Để hoàn thành công việc này, việc phân biệt rõ ràng giữa lãnh vực dân sự và tôn giáo giúp cho mỗi một phạm vi này có thể thực thi các trách nhiệm xứng hợp của mình được hiệu nghiệm, bằng sự tương kính cũng như bằng việc được hoàn toàn tự do theo lương tâm.

Tôi hân hoan nhận thấy rằng Hiến Pháp của Nước Cộng Hòa này nhìn nhận quyền tự do theo lương tâm này, cũng như quyền tự do tôn giáo, thờ phượng và giảng dạy. Những việc bảo đảm theo hiến định này, một khi chúng được trở thành một phần của lập pháp phổ thông nhờ đó cũng trở thành một phần của cơ cấu sống động của xã hội, là những gì khiến cho tất cả mọi người công dân, bất kể niềm tin hay liên hệ về đạo giáo có thể góp phần vào việc xây dựng xã hội Thổ Nhĩ Kỳ. Nhờ đó, quốc gia này có thể được hưởng phúc lợi từ niềm hy vọng cũng như từ những tính chất luân lý làm nên sức mạnh phát xuất từ những xác tín sâu xa về tôn giáo của dân chúng.

Theo chiều hướng ấy, khi Thổ Nhĩ Kỳ đang sửa soạn thiết lập những mối liên hệ mới với Âu Châu, thì hợp cùng dân chúng Công Giáo, Tôi mong ước được thấy các thẩm quyền cùng tổ chức Thổ Nhĩ Kỳ nhìn nhận tình trạng pháp lý của Giáo Hội nơi xứ sở của ông. Giáo Hội không hề muốn tìm kiếm nhựng đặc ân riêng hay việc đối xử thiện cảm với mình; trái lại, Giáo Hội chỉ chú trọng tới những quyền lợi căn bản của các phần tử của mình cần phải được tôn trọng và những người Công Giáo được tự do thực hiện các quyền lợi ấy.

Như Tôi đã có dịp vạch ra vào đầu năm nay, trong một xã hội đa dạng thì tính cách trần thế của Quốc Gia là những gì giúp vào “việc thông đạt giữa các chiều kích thiêng liêng khác nhau với quốc gia” (Diễn Từ với Phái Đoàn Ngoại Giao với Tòa Thánh ngày 12/1/2004, đoạn 3). Bởi thế, Giáo Hội và Quốc Gia không phải là đối phương mà là đồng bạn, ở chỗ, qua cuộc đối thoại lành mạnh với nhau, họ có thể góp phần vào việc phát triển nhân bản toàn diện cũng như vào việc hòa hợp xã hội. Chính vì ý hướng này Tôi muốn bày tỏ niềm hy vọng của Tôi là Tiểu Ban Quốc Hội về Nhân Quyền thuộc Hội Đồng Quốc Gia Thổ Nhĩ Kỳ sẽ biết được phải làm sao để đáp ứng một cách đầy đủ cho thỉnh nguyện đơn được đệ trình hồi Tháng Chín năm ngoái liên quan tới những nhu cầu chung về tôn giáo và mục vụ của thành phần thiểu số Kitô hữu và không phải tín đồ Hồi giáo sống ở Thổ Nhĩ Kỳ.

Như Vị Tiền Nhiệm của Tôi cũng là Vị Đại Diện Tòa Thánh ở xứ sở của ông là Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII đã nhận định trong Thông Điệp “Hòa Bình Dưới Thế” của ngài, thì vấn đề hòa bình không thể tách khỏi vấn đề nhân phẩm cũng như vấn đề nhân quyền. Nói cách khác, những vấn đề khó với thuộc lãnh vực sự vụ trần thế này không thể nào được giải quyết một cách xứng hợp nếu không giải quyết những vấn đề về luân lý cũng như về hành vi đạo lý. Như thế, vấn đề hòa bình và hòa hợp trong đất nước cũng như giữa các dân tộc và Quốc Gia đòi việc thi hành quyền bính chính trị bao gồm và được tham dự hơn nữa, thậm chí ở cả phạm vi quốc tế, một việc thi hành quyền bính chính trị minh bạch và khả tín hơn nữa ở mọi lãnh vực sinh hoạt quần chúng.

Khi nêu lên sự thật, công lý, yêu thương và tự do như là bốn trụ cột của hòa bình, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã kêu gọi thẩm quyền dân sự có một nhãn quan cao cả hơn và “mạnh bạo thách đố thế giới hãy phóng ý nghĩ vượt ra ngoài hiện trạng lệch lạc của mình đến những hình thức mới của một trật tự quốc tế đặt phẩm giá con người lên trên hết” (Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2003, đoạn 6).

Một trong những phương tiện chính yếu để bảo đảm trật tự thế giới này, nhờ đó để theo đuổi vấn đề hòa bình, đó là luật pháp quốc tế, một thứ luật pháp được gọi để mỗi ngày một trở thành một thứ luật pháp hòa bình trong công lý và kết đoàn. Như thế, cộng đồng quốc tế nói chung có một vai trò đặc biệt trong việc cổ võ nhân phẩm, duy trì tình trạng tự do của các dân tộc và sửa soạn cho các nền văn hóa cùng với các cơ cấu trong vấn đề thực hiện công việc cần thiết xây dựng hòa bình. Giáo Hội Công Giáo dồn tất cả mọi việc hỗ trợ vào các hoạt động nhắm đến chỗ phục hồi hòa bình và mang lại hòa giải. Vì lý do này, Tôi hoan hỉ nghe thấy tin về việc tiến triển đang đạt được đối với việc ổn định chính đáng vấn đề Cyprus. Tôi thành thực khuyến kích đôi bên trong cuộc hãy hết sức nỗ lực để mau chóng tiến đến chỗ tái thống nhất và hòa bình cho hải đảo này.

Trong cộng đồng quốc tế rộng lớn hơn, Liên Hiệp Quốc đóng một vai trò đặc biệt. Cho dù cần phải thực hiện “một cuộc cải cách giúp cho Tổ Chức LHQ này hoạt động một cách hiệu năng trong việc theo đuổi những mục đích ấn định của mình” (Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2004, đoạn 7), cơ cấu quốc tế này vẫn là một cơ quan xứng hợp nhất trong việc đương đầu với những thách đố trầm trọng trước mắt gia đình nhân loại trong thế kỷ 21 này. Trong số những thách đố đó có nạn khủng bố chết chóc là tiêu biểu cho một vấn đề đặc biệt độc hại: vì nó hay coi thường lý lẽ truyền thống của một hệ thống pháp lý được phác họa để điều hợp những mối liên hệ giữa các Quốc Gia chủ quyền. Bởi thế, trong cuộc chiến đấu đang diễn tiến để chống khủng bố này, luật pháp quốc tế cần phải được phác họa những dụng cụ pháp luật đa dạng có khả năng hiệu lực trong việc thanh tra, đương đầu và ngăn ngừa loại tội ác ghê gớm này. Ở đây Tôi xin lập lại lời bày tỏ đoàn kết nguyện cầu của Tôi với quốc gia của ông vừa mới bùng lên những cuộc khủng bố tấn công.

Ông Lãnh Sự, Tôi tin tưởng rằng sứ vụ của ông với Tòa Thánh sẽ làm củng cố những mối giây hiểu biết và cộng tác giữa chúng ta. Ông cứ tin tưởng là các văn phòng của Tòa Thánh Rôma bao giờ cũng sẵn sàng hỗ trợ ông trong việc ông thực thi các nhiệm vụ cao cả của ông. Tôi xin Thiên Chúa Toàn Năng ban muôn vàn phúc lộc xuống trên ông và nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ thân yêu.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 23/2/2004.
 

25/2 Thứ Tư, Lễ Tro Ðầu Mùa Chay

“Ai vì Thày tiếp nhận một con trẻ nào như con trẻ này là tiếp nhận Thày” (Mt 18:5)

Sứ Điệp Mùa Chay Năm 2004 của ĐTC GPII

Anh Chị Em thân mến!

1.-     Nghi thức đầy ý nghĩa của việc bỏ tro mở màn cho mùa Chay thánh, thời đểm Phụng Vụ lại kêu gọi tín hữu hãy thật lòng hoán cải và tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa.

Đề tài cho năm nay là “Ai vì Thày tiếp nhận một con trẻ nào như con trẻ này là tiếp nhận Thày” (Mt 18:5) là đề tài kêu mời chúng ta hãy suy nghĩ về thân phận của trẻ nhỏ. Ngày nay Chúa Giêsu vẫn tiếp tục kêu gọi chúng đến với Người và lấy chúng làm gương mẫu cho tất cả những ai muốn làm môn đệ của Người. Những lời của Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy để ý xem trẻ em đang được đối xử ra sao trong gia đình của chúng ta, trong xã hội dân sự của chúng ta cũng như trong Giáo Hội. Những lời của Người cũng là một động lực thúc đẩy chúng ta tái nhận thức được tính cách đơn sơ và lòng tin tưởng tín hữu cần phải vun trồng theo gương của Con Thiên Chúa, Đấng đã chia sẻ thân phận với những kẻ bé nhỏ và nghèo khổ. Thánh Clara Assisi thích nói rằng Chúa Kitô “nằm trong máng cỏ, sống nghèo nàn trên thế gian và đã chết trần trụi trên Thập Giá” (Testament, Franciscan Sources, No. 2841).

Chúa Giêsu đặc biệt yêu thương trẻ em vì “tính chất đơn sơ của chúng, niềm vui sống của chúng, tính cách ngây thơ của chúng, và lòng tin tưởng đầy lạ lùng của chúng” (Angelus Message, 18 December 1994). Bởi thế Người muốn cộng đồng nhân loại hãy mở rộng cánh tay và tấm lòng cho chúng, thậm chí Người đã nói: “Ai vì Thày tiếp nhận một con trẻ nào như con trẻ này là tiếp nhận Thày” (Mt 18:5). Bên cạnh trẻ em, Chúa Giêsu còn nói đến thành phần “bé mọn nhất trong anh em”, đó là thành phần đau khổ, thiếu thốn, đói khát, xa lạ, trần trụi, yếu đau và tù phạm. Khi chúng ta tiếp nhận họ và yêu mến họ, hay khi chúng ta đối xử với họ một cách dửng dưng và khinh thường họ, là chúng ta tỏ thái độ với Người, bởi Người đặc biệt hiện diện nơi họ.

2.     Phúc Âm đã trình thuật lại cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu ở ngôi nhà giản dị Nazarét, nơi Người đã tỏ ra vâng lời cha mẹ của mình và “lớn lên trong khôn ngoan và tuổi tác, đầy ơn nghĩa Chúa và loài người” (Lk 2:52). Khi trở nên một con trẻ, Người muốn chia sẻ cảm nghiệm nhân loại của chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Người đã tự hủy ra như không, mặc lấy thân phận của một người tôi tớ, sinh ra theo hình ảnh con người. Và với thân phận làm người, Người đã tự hạ và vâng lời cho đến chết, dù chết trên thập tự giá” (Phil 2:7-8). Vào năm 12 tuổi, Người đã ở lại trong Đền Thờ Giêrusalem và nói với cha mẹ đang lo lắng tìm Người rằng: “Cha mẹ tìm kiếm con làm chi? Cha mẹ không biết rằng con cần phải ở trong nhà Cha của con hay sao?” (Lk 2:49). Thật vậy, tất cả đời sống của Người được đánh dấu bằng việc tin tưởng tuân phục thảo hiếu đối với Cha trên trời. Người đã nói: “Lương thực của Thày đó là làm theo ý Đấng đã sai Thày và hoàn tất công việc của Ngài” (Jn 4:34).

Trong những năm của cuộc sống công khai, Chúa Giêsu thường nhấn mạnh là chỉ có những ai trở nên như trẻ em mới được được vào Nước Trời mà thôi (x Mt 18:3; Mk 10:15; Lk 18:17; Jn 3:3). Nơi giáo huấn của Người, trẻ em là một hình ảnh nổi bật trước mắt thành phần môn đệ được kêu gọi theo Vị Thần Sư bằng tinh thần dễ dạy như trẻ thơ: “Ai hạ mình xuống như con trẻ này là kẻ lớn nhất trên Nước Trời” (Mt 18:4).

“Trở nên” một trong thành phần hẹn mọn nhất và “tiếp nhận” những kẻ nhỏ bé nhất: đó là hai khía cạnh của cùng một giáo huấn Chúa Giêsu muốn lập lại với thành phần môn đệ của Người trong thời đại của chúng ta đây. Chỉ có người nào biến mình thành một trong những kẻ “hèn mọn nhất” mới có thể yêu thương kẻ “hèn mọn nhất” trong anh chị em của chúng ta mà thôi.

3.     Nhiều tín hữu đã cố gắng trung thành sống theo những lời Chúa giáo huấn này. Ở đây Tôi muốn đề cập đến những phụ huynh vui lòng gánh nhận trách nhiệm coi sóc một gia đình đông đảo, những người làm cha làm mẹ thay vì chú trọng tới thành đạt về nghề nghiệp của mình như một giá trị đệ nhất thì lại dồn nỗ lực vào việc truyền đạt cho con cái mình những giá trị nhân bản và đạo đức làm nên ý nghĩa đích thực của cuộc đời.

Tôi cũng nghĩ đến với đầy lòng cảm phục tất cả những ai dấn thân chăm sóc cho những trẻ em bất hạnh, cũng như những ai đến xoa dịu các trẻ em cùng gia đình của các em những vết thương đau gây ra bởi chiến tranh và bạo lực, bởi thiếu thức ăn và nước uống, bởi việc di dân ngoài ý muốn cũng như bởi nhiều hình thức bất công đang xẩy ra trên thế giới.

Tuy nhiên, ngoài những tấm lòng đầy quảng đại như thế, cũng cần phải nói đến lòng vị kỷ của những ai không “tiếp nhận” trẻ em. Có những thành phần giới trẻ đã bị xúc phạm nặng nề bởi hành động bạo lực của người lớn: như việc lạm dụng tình dục, bắt làm gái điếm, dính dáng đến việc buôn bán và sử dụng thuốc nghiện; bị bắt lao động và gia nhập hàng ngũ chiến đấu; luôn phập phồng về tình trạng gia đình bị đổ vỡ; bị lọt vào việc buôn bán các bộ phận con người và con người. Còn thảm cảnh hội chứng liệt kháng AIDS cùng với các hậu quả tàn hại của nó ở Phi Châu nữa thì sao? Người ta nói rằng hằng triệu người hiện nay đang bị cơn khổ nạn này hành hạ, nhiều người đã bị lây nhiễm từ khi mới sinh. Nhân loại không thể nhắm mắt làm ngơ trước một thảm cảnh hết sức thượng tâm này!

4.     Những trẻ em này đã làm xấu nào mà lại phải gánh chịu khổ đau như thế? Theo quan điểm nhân loại thì không dễ gì, thật sự là không thể, giải đáp vấn nạn nhức nhối này. Chỉ có đức tin mới khiến chúng ta bắt đầu hiểu được vực thẳm rất sâu xa của khổ đau mà thôi. Bằng việc “vâng lời cho đến chết cho dù chết trên thập giá” (Phil 2:8), Chúa Giêsu đã gánh chịu khổ đau nơi bản thân mình và đã chiếu tỏ nó bằng ánh sáng rạng ngời của việc Người phục sinh. Người đã hoàn toàn chiến thắng tử thần bằng cái chết của Người.

Trong Mùa Chay, chúng ta sửa soạn để sống lại Mầu Nhiệm Vượt Qua, một mầu nhiệm chiếu tỏa ánh sáng hy vọng trên tất cả cuộc sống của chúng ta, thậm chí cả những khía cạnh phức tạo nhất và đau thương nhất. Tuần Thánh lại diễn ra trước mắt chúng ta mầu nhiệm cứu độ này nơi những nghi thức sống động của Tam Nhật Thánh.

Anh Chị Em thân mến, chúng ta hãy tin tưởng bắt đầu hành trình Mùa Chay của chúng ta, bằng việc sốt sắng cầu nguyện, bằng việc thống hối ăn năn cũng như bằng việc quan tâm đến những ai đang thiếu thốn. Chớ gì Mùa Chay này đặc biệt trở thành một thời gian quan tâm hơn nữa đến các nhu cầu của trẻ em, nơi riêng gia đình của chúng ta cũng như nơi chung xã hội, vì chúng là tương lai của nhân loại.

5.     Chúng ta hãy hướng về Thiên Chúa bằng tinh thần đơn sơ như con trẻ và kêu cầu Ngài như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta trong kinh “Lạy Cha”, “Abba”, “Cha ơi”.

Lạy Cha chúng con! Chúng ta hãy năng lập lại lời nguyện này trong Mùa Chay; chúng ta hãy hết lòng cảm mến lập lại lời nguyện này. Khi gọi Thiên Chúa là “Cha của chúng con”, chúng ta sẽ nhận thức hơn nữa chúng ta là con cái của Ngài và cũng sẽ cảm thấy rằng chúng ta đều là anh chị em với nhau. Nhờ đó chúng ta sẽ dễ mở lòng mình ra cho những ai nhỏ bé như lời kêu gọi của Chúa Giêsu: “Ai vì Thày tiếp nhận một con trẻ nào như con trẻ này là tiếp nhận Thày” (Mt 18:5).

Trong niềm hy vọng này, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Mẹ của Lời Chúa làm người và là Mẹ của toàn thể nhân loại, Tôi xin phúc lành của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên mỗi một người.

Tại Vatican ngày 8/12/2003

JOHN PAUL II


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 29/1/2004.

 

Tiểu Ban Hỗn Hợp Công Giáo và Hồi Giáo Gặp Nhau ở Rôma

Tiểu Ban Hỗn Hợp Công Giáo và Hồi Giáo, hay giữa Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Đối Thoại Liên Tôn và Tiểu Ban Thường Trực của al-Ahzar Đặc Trách Đối Thoại với Các Tôn Giáo Độc Thần, được thiết lập tại Rôma ngày 28/5/1998, sẽ gặp nhau ở Rôma ngày 24-25/2/2004, về đề tài “Tránh Vơ Đũa Cả Nắm khi Nói Về Tôn Giáo hay Cộng Đồng Khác, Khả Năng Tự Kiểm”.

Mục đích của Tiểu Ban Hỗn Hợp này, theo ĐTGM Michael Fitzgerald, chủ tịch hội đồng tòa thánh đặc trách đối thoại liên tôn, “là để nuôi dưỡng việc tìm kiếm những giá trị chung, để hoạt động cổ võ công lý và hòa bình cũng như cổ võ việc tôn trọng tôn giáo. Nó trở thành một diễn đàn để trao đổi những vấn đề lợi ích chung, như vấn đề bênh vực phẩm giá của con người cũng như bênh vực các quyền lợi của con ngươiụi, và cổ võ việc hiểu biết nhau cùng tôn trọng nhau nơi thành phần Công Giáo và Hồi Giáo. Tiểu Ban này chú trọng tới vai trò của các vị lãnh đạo tôn giáo trong việc cổ võ những thứ giá trị ấy”.

ĐTGM Fitzgerald và Sheikh Fawzy al-Zafzaf, chủ tịch của tiểu ban bên Hồi Giáo là hai vị đồng chủ tịch của Tiểu Ban Hỗn Hợp này. Các phần tử khác của Tiểu Ban Hỗn Hợp này bao gồm vai trò đồng bí thư và tối đa là 3 phần tử mỗi bên. Các chuyên gia được mời tham dự khi cần. Tiểu Ban này họp nhau ít là 1 năm 1 lần, thay phiên nhau, năm ở Cairô Ai Cập, năm ở Rôma. Cuộc họp thường diễn ra vào chính ngày hay trước ngày 24/2, để tưởng niệm ngày ĐGH GPII thăm viếng al-Azhar vào tháng ấy trong năm 2000.
 

Tiến Trình Trao Nhượng Chủ Quyền cho tới ngày hạn định vẫn chưa thích thuận…
 

Hôm Thứ Năm 19/2/2004, ông Tổng Thư Ký LHQ Kofi Annan đã cho biết những cuộc tuyển cử trực tiếp ở thể thực hiện được vào hạn chót 30/6/2004, nhưng ngày trao nhượng quyền bính cho Iraq vẫn cần phải được tôn trọng.

“Như chúng tôi đã tiến hành, chúng tôi hy vọng chúng tôi sẽ có thể làm việc với những người Iraq và lực lượng liên minh để tìm ra một đường lối thiết lập một chính phủ lâm thời cho tới lúc tổ chức những cuộc tuyển cử”.

Ông TTK/LHQ đã cho biết như thế tại LHQ sau khi gặp một nhóm người Iraq được gọi là Nhóm Thân Hữu Iraq gồm 46 đại biểu, khi họ nghe những điểm chính yếu trong bản tường trình của nhóm LHQ do ông Lakhdar Brahimi lãnh đạo về tình hình Iraq liên quan đến việc có nên tổ chức tuyển cử vào trước ngày 30/6/2004 hay chăng.

“Chúng tôi đã chia sẻ với họ về vị thế hiện tại của chúng tôi, về những gì chúng tôi hy vọng sẽ làm tiếp theo và cắt nghĩa cho họ về tình hình của màn kịch”.

Bản tường trình về việc bầu cử trực tiếp này được hoàn tất hôm Thứ Sáu, 20/2, và được gửi cho ông TTK vào Thứ Bảy ở Nhật để được chấp thuận, rồi được phổ biến vào ngày đầu tuần sau đó.

Ông Paul Bremer, vị quản trị dân sự của Hoa Kỳ ở Iraq nhấn mạnh rằng hạn định 30/6/2004 không có nghĩa là ngày chấm dứt việc Hoa Kỳ (với cả 100 ngàn quân nhân đang ở Iraq) dính dáng với Iraq.
 

Trước lời nhận định của TTK/LHQ trên đây, có những phản ứng khác nhau như thế này:

Phản ứng thuận được bộc lộ từ vị phát ngôn viên thuộc văn phòng Samir Shakeer Mahmud, một người Ả Rập giáo phái Hồi Giáo Sunni, một phần tử của tộc Al-Sumaidi và có chân trong Hội Đồng Quản Trị Iraq cho biết: “Chúng tôi đồng ý rằng những cuộc tuyển cử cần phải được trì hoãn cho đến khi chúng tôi cải tiến tình hình an ninh ở xứ sở này, hầu tránh việc gian lận cũng như tránh cho khỏi cảnh nội chiến bùng nổ”.

Theo chiều hướng này, ông Hewa Mahmud Othman, người con và là phát ngôn viên cho Tiến Sĩ Ali Othman, một người Kurd thuộc giáo phái Hồi Giáo Sunni ở Sulamaniya cũng có chân trong hội đồng này, đã nêu lên nhận định của mình như sau: “Chúng ta cần phải trì hoãn những cuộc bầu cử vì nếu thực hiện bây giờ sẽ tạo cơ hội cho một cuộc nội chiến. Điều này đã từnmg xẩy ra vào năm 1992, khi những người Kurds vội vã bầu cử đến nỗi đã đi đến cuộc xung đột cả 4 năm trời và hiện nay vẫn còn chia làm hai nhóm”.

Tuy nhiên, cũng có phản ứng bất thuận từ một phần tử khác trong cunụng hội đồng này là ông Mowaffak al-Rubaie, một người Ả Rập Hồi Giáo thuộc phái Shiite: “Chúng tôi cần phải có một ngày nhất định. Quyên hành cần phải được trao lại cho một cơ cấu vô tư để có thể thực hiện một quyết định giúp vào tình trạng liên tục. Chúng tôi không thể làm như thế theo kiểu của Hoa Kỳ, như khi George W. Bush thay thế Bill Clinton thì cả guồng máy bị đổi thay làm chúng tôi không thể có được cái liên tục này”.

 

 

24/2 Thứ Ba

ĐTC GPII với Học Viện Giáo Hoàng Đặc Trách Sự Sống về Việc Tránh Những Lạm Dụng Sự Sống

Thứ Bảy 21/2/2004, ĐTC đã tiếp các tham dự viên Đại Công Nghị lần thứ 10 của Học Viện Tòa Thánh Đặc Trách Sự Sống được tổ chưa tại Rôma để hội luận về chủ đề sản sinh nhân tạo, và Ngài đã chia sẻ nhận định kèm theo những lời huấn dụ của Ngài như sau:

“… Những giá trị căn bản đang gặp nguy hiểm, những giá trị chẳng những đối với các Kitô hữu tín trung mà còn đối với nhân loại nữa.

“(Những tác động ân ái vợ chồng) bằng việc trao tặng bản thân cho nhau làm cho họ trở thành những cộng tác viên của Đấng Hóa Công trong việc mang một con người mới vào trần gian, một con người được kêu gọi sống đời đời. Tác động tuyệt vời siêu việt hóa sự sống của cha mẹ này không thể bị thay thế bởi phương thức thuần kỹ thuật là những gì làm mất đi giá trị nhân bản cũng như không thể lệ thuộc vào những sai khiến của khoa học và kỹ thuật.

“Nhiệm vụ của các khoa học gia là nhiệm vụ tái tìm kiếm những nguyên do tại sao gây ra tình trạng cằn cỗi nơi nam cũng như nữ… Chính vì lý do này Tôi muốn khích lệ việc nghiên cứu khoa học để thắng vượt tình trạng tự nhiên bị son sẻ nơi các cặp vợ chồng, và Tôi cũng xin các chuyên gia hãy tin tưởng vào những phương thức mang lại công hiệu liên quan đến mục đích này. Điều Tôi mong muốn đó là trên con đường tiến đến việc thực sự ngăn ngừa cũng như đến việc trị liệu chân thực, cộng đồng khoa học, nhất là các khoa học gia là thành phần tin tưởng, có thể đạt được một tiến bộ an ủi.

ĐTC yêu cầu Học Viện Tòa Thánh Về Sự Sống phải làm hết sức để phát động những sáng kiến làm sao có thể tránh được “những lợi dụng nguy hiểm trong tiến trình sản sinh nhân tạo”. Ngài đã kết thúc những lời huấn từ bằng việc xin tất cả mọi Kitô hữu “hãy dấn thân làm cho dễ dàng hóa những đường lối nghiên cứu thực sự, chống lại những giây phút quyết liệt muốn chiều theo các thứ gợi ý của một thứ kỹ thuật muốn thay thế tính cách làm cha và làm mẹ chân thực, nhờ đó, tác hại cho phẩm giá của cả cha mẹ lẫn con cái”.

Một cuốn sách mới về vấn đề linh mục lạm dụng tình dục vị thành niên

Trong khi ở Hoa Kỳ đang chờ đợi bản tường trình vào ngày 27/2/2004 tới đây về vấn đề tìm hiểu nạn linh mục Mỹ làm dụng tình dục vị thành niên, thì ở Rôma, hôm Thứ Hai 23/2/2004, Học Viện Tòa Thánh Đặc Trách Sự Sống đã ra mắt 1 cuốn sách mới bao gồm những câu vấn đáp theo khoa học về hiện tượng linh mục lạm dụng tình dục vị thành niên trong Giáo Hội. Cuốn sách này mang tựa đề “Việc Lạm Dụng Tình Dục trong Giáo Hội Công Giáo: Những Khía Cạnh Pháp Lý và Khoa Học”, trong đó có cả những biên bản về cuộc hội nghị học hỏi về “Những Việc Linh Mục Và Tu Sĩ Lạm Dụng Trẻ Em và Giới Trẻ” do Học Viện này của Tòa Thánh tổ chức vào Tháng 4/2003. Cuốn sách được Vatican Press phát hành với sự cộng tác của các chuyên gia Mandred Lutz, Karl Hanson và Friedemann Plafflin, và sẽ phổ biến trên thị trường vào cuối Tháng 3/2004, sau khi đã được phân phối cho các vị giám mục khắp thế giới.

Ông Lutz, một thần học gia kiêm bác sĩ tâm thần người Đức và là thành viên của học viện này, đã giúp tổ chức cuộc hội nghị học hỏi được đề cập đến trên đây ở Vatican. Ông nói rõ trong buổi ra mắt cuốn sách hôm nay là cuốn sách này không phải là một bản tường trình của học viện này, mà là một tổng hợp các bản viết của các khoa học gia (trong số đó có 8 vị không phải là người Công Giáo) được tham khảo ý kiến về vấn đề cần được giải quyết hiện nay.

Ông này đã nói trên Đài Phát Thanh Vatican rằng “Theo tự nhiên thì vấn đề này không phải chỉ chi phối các thừa tác viên thánh mà thôi. Chúng ta biết, chẳng hạn, nó ảnh hưởng 10% các nhà tâm lý trị liệu khi họ dính dáng tới lãnh vực thân mật về nhân sự, do đó mối nguy cơ làm dụng đã tăng lên”. Tuy nhiên, ông nói rõ cuốn sách này không cung cấp “những câu giải đáp chắc chắn”, vì khoa học “không có khả năng bảo đảm chắc chắn 100% trong việc giải quyết vấn đề”. Ông cũng cảnh giác về chính sách “bất dung nhượng “zero tolerance”, vì làm cho tội nhân giấu diếm không dám xưng thú tội lỗi của mình.



Chủng sinh là tương lai và là niềm hy vọng của Giáo Hội

Thứ Bảy 21/2/2004, vào lúc 6 giờ chiều, tại Sảnh Đường Phaolô VI, ĐTC GPII đã gặp gỡ 7 ngàn phần tử của cộng đồng Đại Chủng Viện Tòa Thánh ở Rôma (đại chủng viện Capranica, đại chủng viện Mẹ Chúa Cứu Thế Redemptoris Mater và đại chủng viện Tình Yêu Thiên Chúa Divine Love) nhân dịp lễ Đức Mẹ của Lòng Tin Tưởng Cậy Trông, quan thày của họ. Mở màn cho buổi gặp gỡ này là phần trình diễn của ca đoàn và ban hòa tấu thuộc giáo phận Rôma theo Thi Tập Roman Triptych của ĐTC GPII được phát hành năm ngoái. Sau đó, ĐTC đã chia sẻ và huấn dụ các đại chủng sinh thuộc ba đại chủng viện này như sau:

“Tôi mắc một món nợ với Chủng Viện Rôma về việc trình diễn tuyệt vời anh em đã cống hiến cho chúng tôi theo cảm hứng của Thi Tập ‘Roman Triptych’, một thi tập đã được nhiều người viết về nó. Nhưng đây có lẽ là lần đầu tiên Tôi được nghe dẫn giải nó bằng âm nhạc.

“Tôi xin cho anh em biết rằng sáng nay Tôi đã dâng lễ theo những ý chỉ của Đại Chủng Viện Tòa Thánh ở Rôma. Tôi mắc nợ ‘debitor factus sum’ và Tôi cần phải trang trải… có thể đó là một trả giá xứng đáng. Tôi sẽ cố gắng làm như thế.

“(Các chủng sinh) đặc biệt là tương lai và là niềm hy vọng của Giáo Hội; việc họ hiện diện ở chủng viện đã chứng thực cho sức mạnh cuốn hút phát xuất từ Chúa Kitô tác dụng trên tâm hồn của giới trẻ. Một mãnh lực không làm mất đi quyền tự do, trái lại, còn làm cho nó hoàn toàn triển nở bằng việc chọn sự thiện tốt nhất đó là Thiên Chúa, Đấng chúng ta vĩnh viễn hiến thân phụng sự.

“Vĩnh viễn! Ở thời đại này, trước những dấn thân tận cùng và trọn vẹn, giới trẻ dường như cảm thấy lưỡng lự sao ấy. Họ như sợ phải thực hiện những quyết định kéo dài suốt cả cuộc đời của họ. Tạ ơn Chúa, trong giáo phận Rôma có nhiều con người trẻ trung đang tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa và anh em của mình nơi thừa tác vụ linh mục. Tuy nhiên, chúng ta cần phải không ngừng cầu nguyện cùng Chủ ruộng để Ngài sai những tay thợ mới đến làm mùa cho Ngài, cũng như để Ngài bảo trì họ trong việc dấn thân gắn bó với những đòi hỏi của Phúc Âm”.

ĐTC cũng không quên liên kết ơn gọi linh mục với gương mẫu của Mẹ Maria, vị được ba đại chủng viện giáo hoàng này nhận làm quan thày dưới tước hiệu đặc biệt: “Không khiêm nhượng phó thác cho ý muốn của Thiên Chúa là những gì làm cho tiếng ‘xin vâng’ tuyệt vời nẩy nở trong tâm hồn của Mẹ Maria, thì ai có thể lãnh trách nhiệm của thiên chức linh mục được? Điều này cũng quan trọng đối với cả thành phần giới trẻ đang sửa soạn lập gia đình nữa”.

Giáo Hội Công Giáo Rôma và Chính Thống Nga xích lại gần nhau

Sau đây là bản thông cáo của ĐHY Walter Kasper, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo, vị đã đến Nga hôm 16/2/2004.

“Vào ngày 19/2/2004, ở Moscow, đã có một cuộc họp giữa vị Chủ Tịch của Phân Bộ Đặc Trách Liên Hệ Ngoại Vụ Giáo Hội của Tòa Thượng Phụ Moscow là ĐTGM Kirill ở Smolensk và Kaliningrad, và Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo, ĐHY Walter Kasper. Trong những cuộc nói chuyện với nhau, hai bên đã xét đến những vấn đề rắc rối giữa Giáo Hội Chính Thống Nga và Giáo Hội Công Giáo Rôma, nhất là ở Nga và ở Ukraine. Đặc biệt ĐHY Kasper đã xác nhận là Tòa Thánh có nhận được một hồi đáp của Giáo Hội Chính Thống Nga về việc khả dĩ thiết lập một Tòa Thượng Phụ Công Giáo Hy Lạp ở Ukraine, cũng như những phản ứng của tất cả các Giáo Hội Chính Thống địa phương về vấn đề ấy.

“ĐHY Kasper đã cho biết là chủ trương đồng loạt của tất cả mọi Giáo Hội Chính Thống đã khiến cho thẩm quyền của Giáo Hội Công Giáo phải thận trọng cân nhắc. Bên phía Công Giáo đã bảo đảm với bên Chính Thống rằng Tòa Thánh muốn bảo trì và củng cố hơn nữa những mối liên hệ tích cực với các Giáo Hội Chính Thống. Cả hai bên đều đồng ý là để giải quyết những vấn đề đặc biệt nơi mối liên hệ giữa Giáo Hội Chính Thống Nga và các Giáo Hội Công Giáo Rôma thì cần phải thiết lập một nhóm hoạt động chung với nhau, bao gồm những vị đại diện của cả hai Giáo Hội, những người sẽ cứu xét những vấn đề ấy và nêu lên những nghị trình để giải quyết vấn đề.

“Tham dự trong buổi gặp gỡ lần này có ĐTGM Antonio Mennini, đại diện của Tòa Thánh ở Liên Bang Nga, ĐGM Brian Farrell, Thư Ký của Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo, Cha Jozef M. Maj, viên chức của cùng phân bộ này, Phó Chủ Tịch của Phân Bộ Liên Hệ Ngoại Giao Giáo Hội của Tòa Thượng Phụ Moscow, ĐGM Mark Egoryevsk, và Tổng Linh Mục Vsevolod Chaplin, và Cha Igor Vyzhanov, thư ký xử lý của Liên Kitô Giáo Vụ”.


Do Thái trước Tòa Án Quốc Tế LHQ về việc thiết dựng các thứ rào cản khủng bố của họ
 

Theo đúng hạn định, Tòa Công Pháp Quốc Tế Liên Hiệp Quốc này ở Hòa Lan hôm Thứ Hai 23/2/2004 đã xử vụ Palestine tố cáo việc thiết dựng các thứ rào cản của Do Thái là bất hợp pháp. Bên Do Thái cho là tòa án này không có thẩm quyền xử việc họ làm, vả lại việc họ làm là vì để ngăn chặn nạn khủng bố của Palestine. Điển hình là mới ngày hôm trước, Chúa Nhật 22/2, Palestine lại tự sát khủng bố ở 1 trạm xe buýt làm thiệt mạng 8 người và gây thương tích cho 50 người. Đảng Al Aqsa Martyrs Brigades phát xuất từ phong trào Fatah của nhà lãnh đạo Palestine Yasser Arafat đã lên tiếng nhận trách nhiệm về hành động khủng bố tấn công ấy.

Ngoài ra, hôm Thứ Tư 18/2 Do Thái cũng đã thâu hồi giới hạn về vấn đề thăm viếng của thành phần hành hương đến những khu vực thuộc quyền kiểm soát của Palestine, như ở Giải Gaza, ở Giudea và Samaria. Với lệnh thu hồi này, các phái đoàn hành hương được thăm viếng Giudea và Samaria, miễn là tuân giữ các qui định vốn có. Tuy nhiên, Giải Gaza vẫn không được đề cập tới trong bản thông báo ấy, vì là nơi mới xẩy ra những vụ khủng bố tấn công.
 

Tòa Công Pháp Quốc Tế LHQ này được thành lập từ năm 1946 để xử các vụ tranh cãi giữa các quốc gia. Về vụ Do Thái và Palestine lần này, bên Palestine tố bên Do Thái là những thiết dựng rào cản khủng bố của Do Thái đã lấn vào các phần đất của Palestine chứ không theo đúng ranh giới của Do Thái ở vùng Tây Ngạn trước Cuộc Chiến Sáu Ngày 1967. Ông Nasser al-Kidwa, quan sát viên của Palestine ở Liên Hiệp Quốc, đã vội lên án việc làm của Do Thái như sau:

”Bức tường này không phải là về vấn đề an ninh. Nó nhắm đến việc củng cố việc chiếm đóng và việc thực sự muốn sát nhập những miền đất rộng lớn của Palestine. Nếu hoàn tất, bức tường này sẽ lưu lại cho dân chúng Palestine chỉ còn một nửa vùng Tây Ngạn bị cô lập, những vùng đất lọt vào giữa các vách ngăn cách nhau. Nó làm cho việc giải quyết trở thành bất khả trên thực tế về vấn đề xung khắc giữa hai nước Do Thái và Palestine.

Hôm Thứ Tư 18/2 Tiểu Ban Hồng Thập Tự Quốc tế đã cho biết việc thiết dựng những thứ rào cản của Do Thái lấn vào các vùng đất của Palestine là vi phạm đến luật nhân đạo quốc tế. Do Thái đã bắt đầu phá gỡ một khoảng rào cản (chừng 5 dặm hay 8 cây số) ở vùng Tây Ngạn cô lập hóa tỉnh Baka al-Sharqiya của 7 ngàn người Palestine.
 

Cuộc điều trần hay xử án này kéo dài trong vòng 3 ngày. Tuy nhiên, như đã tỏ thái độ, Do Thái đã không đến tham dự cuộc điều trần. Có 43 quốc gia tỏ ra đồng ý với lập luận của Do Thái cho rằng Tòa Án Công Pháp LHQ không có thẩm quyền xử vụ này. Các viên chức Do Thái không nghĩ rằng tòa án này đã nghiêm chỉnh cứu xét vấn đề của bên họ. Tuy nhiên, họ cũng đã nộp giấy tờ nói rằng những thứ rào cản chỉ là tạm thời để ngăn chặn khủng bố mà thôi. Việc làm của Do Thái hiện nay trong việc chống khủng bố tấn công của Palestine tương tự như việc chính phủ Ngô Đình Diệm, theo chính sách của cố vấn Ngô Đình Nhu, đã thiết lập các thứ hàng rào ấp chiến lược để chiến đấu với nạn du kích tấn công do phong trào giải phóng Miền Nam của Việt Cộng thực hiện vậy.

Các đại diện của một số quốc gia và tổ chức có ý định lên tiếng trước tòa án vào những ngày tới đây để hỗ trợ cho chủ trương của Palestine. Chính hôm Thứ Hai là ngày mở đầu đã có nước Algeria, Saudi Arabia và Nam Phi lên tiếng.

Phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Do Thái là ông Daniel Shek cũng đã lên tiếng bênh vực cho việc làm của Do Thái trong việc thiết dựng những thứ rào cản này như sau: “Hầu hết những gì đã được nói về hàng rào cản an ninh này, một hàng rào cản khủng bố, ở Do Thái đều là những gì hoàn toàn không có nền tảng. Hàng rào cản này là một biện pháp bất vi phạm, không gây chết chóc, tự vệ, bất lay chuyển và tạm thời mà tôi cần phải thêm rằng có hiệu nghiệm rất nhiều. Nếu chúng tôi có hàng rào cản này ở chung quanh Giêrusalem hôm qua chúng tôi đã không phải chôn táng 8 đứa nhỏ của chúng tôi hôm nay”.

Ở bên ngoài ngôi tòa án ở Hague, những người Do Thái đã cho đậu một chiếc xe buýt đã bị Palestine dùng bom hủy hoại hôm Tháng Giêng vừa rồi, sát hại 11 người. Nhiều ngàn người Do Thái đã xuống đường, họ cầm những bức hình chết chóc do khủng bố Palestine gây ra. Ngược lại, đám người Palestine cũng xuống đường, trong số đó có những nông gia nói rằng việc Do Thái làm đã chiếm mất đất đai ruộng vườn của họ. Do Thái đã bồi thường cho những nông gia bị mất rộng đất ấy nhưng họ không nhận vì cho rằng nếu nhận là họ công nhận việc làm của Do Thái.

Nữ phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Do Thái là Miri Eisin đã cho CNN biết rằng chính phủ của chị đã tháo phá hàng rào cản ở một số nơi sau khi nói chuyện với những người Palestine. Theo chị, việc thiệt dựng những thứ rào cản này “theo chiều hướng an ninh, chứ không dính dáng gì tới một thứ bức tường chính trị cả”. Chị nói đã không có những thứ bom nỗ ở những thành phố gần bức tường rào cản đã được thiết dựng này. “Bức tường này sẽ không ngăn cản được tất cả mọi kẻ khủng bố lọt vào, nhưng nó rất hiệu nghiệm trong việc gây khó khăn cho những tay ôm bom tự sát len lỏi vô… Chúng tôi đang cố gắng để cứu nhiều mạng sống”.

Phán quyết của Tòa Công Pháp Quốc Tế LHQ là những gì không buộc phải tuân hành, nhưng những người Palestine cho rằng phán quyết ấy sẽ dẫn đến chỗ làm cho quốc tế chấp nhận việc chống lại hành động của Do Thái, cũng như làm cho thế giới thấy được rằng những lý lẽ của Palestine là đúng.

 

23/2 Thứ Hai

Vấn đề đồng tính lấy nhau ở Hoa Kỳ vẫn sôi nổi và bất ổn định - Chủ trương của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề đồng tính luyến ái và lấy nhau ra sao?

Theo Mabel Teng, người có quyền ký hôn thú dân sự cho các đôi hôn phối ở tòa thị sảnh San Francisco, cho biết, bình thường mỗi ngày chỉ có khoảng 30 đôi lập gia đình và làm hôn thú với nhau ở đó thôi. Tuy nhiên, kể từ ngày ông tân thị trưởng Gavin Newsom ra lệnh cấp giấy hôn thú cho các cặp đồng tính thì tất cả đã khác hẳn. Từ ngày Thứ Năm 12/2 tới tối ngày Thứ Hai, 16/2, tức tới trước ngày tòa án California phán quyết về vụ này, con số đồng tính lấy nhau tại tòa tỉnh sảnh này đã lên tới 2464 cặp. Mỗi đơn xin giấy hôn thú là 82 Mỹ kim chưa kể 13 Mỹ kim trả cho lệ phí lấy tờ hôn thú. Sở dĩ con số lên nhanh và cao như vậy là vì ông thị trưởng ra lệnh mở cửa cả cuối tuần, thậm chí cả Ngày Lễ Tổng Thống vốn là ngày nghỉ toàn quốc hôm Thứ Hai 16/2. Động lực thúc đẩy tòa thị sảnh này nói chung và một số cá nhân làm việc tại đây nói riêng làm việc cật lực như vậy, theo Teng, “chỉ vì yêu thương và dấn thân cho các thứ quyền lợi bình đẳng”. Vì việc cấp giấy hôn thú không đòi hỏi nơi ở, do đó, khắp nơi trên nước Mỹ (20 tiểu bang), thậm chí từ Âu Châu, kéo về đây làm giấy hôn thú, dĩ nhiên đông nhất vẫn là 85% ở vùng Bay Area thuộc San Francisco.
 

Vào lúc 11 giờ sáng ngày Thứ Ba 16/2/2004, Thẩm Phán của Tòa Thưởng Thẩm San Francisco là Kevin McCarthy đã nghe một nhóm chống vấn đề đồng tính lấy nhau, và vào lúc 2 giờ chiều cùng ngày, Thẩm Phán James Warren cũng nghe một vụ khác tương tự. Nhưng cuối cùng người ta vẫn không biết hai vị thẩm phán này quyết định ra sao, về việc hiệu thành của các tờ hôn thú đã được cấp phát, hay về việc có được tiếp tục làm điều này hay chăng? Đó là lý do khiến cho tòa thị xảnh San Francisco thừa thắng xông lên cấp phát hôn thú tiếp cho tới ngày Thứ Sáu, thời điểm của phiên tòa thứ hai về vụ này.
 

Thẩm Phán James Warren đã xử vụ kiện liên quan tới Proposition 22 Legal Defense and Education Fund. Đầu tiên vị thẩm phán này tỏ ra hướng chiều về việc để cho vụ này tiếp tục xẩy ra cho đến khi những vấn đề về hiếp pháp được giải quyết. Thế nhưng, sau khi nghe thấy những nguyên cáo cho rằng ông thị trưởng không có thẩm quyền theo hiến định ban quyền cho nhân viên thị xã của ông cấp phát hôn thú cho các cặp hôn nhân đồng tính cũng như trong việc sử dụng ngân quĩ của thành phố để làm điều này, vị thẩm phán đã nhìn nhận là thành phố này đã vi phạm luật tiểu bang khi làm như thế, song ông để tùy thành phố quyền muốn ngưng ngay việc làm ấy hay cứ tiếp tục làm cho tối khi các vị luật sư của thành phố ra hầu tòa vào ngày 29/3/2004 về lý do tại sao ông thị trưởng lại cho phép như vậy.

Trước đó cùng ngày, Thẩm Phán Tòa Thượng Thẩm Ronald Quidachay đã xử một vụ tương tự, nguyên cáo là tổ chức The Campaign for California Families and the Alliance Defense Fund, một nhóm thuộc tiểu bang Arizona. Vị thẩm phán này trì hoãn phán quyết cho tới Thứ Sáu, vì có hai vấn đề khác nhau liên quan đến việc phiền trách được tổ chức nêu lên. Ông khuyên các vị luật sư của thành phố và hai nhóm bảo thủ này cùng nhau làm việc để trình bày những văn kiện chính xác vào Thứ Sáu trong tuần.

Vị giám đốc điều hành tổ chức the Campaign for California Families nhận định: “Luật của tiểu bang California nói rằng hôn nhân chỉ giành cho một người nam và một người nữ mà thôi. Ông thị trưởng San Francisco phá giới đang vi phạm luật tiểu bang. Ông ta làm như mình là một tay độc tài. Ông ta đang áp đặt những thứ giá trị riêng của ông trên tư cách làm người công dân, ông ta thật là lệch lạc”.

Trong khi đó, vào hôm tòa xử Thứ Ba, 17/2, thị trưởng thành phố này nói với chương trình “Good Morning” của đài truyền hình CNN rằng việc hôn nhân giữa các cặp đồng tính là điều “không thể nào tránh được… Cũng có một thứ hiến pháp ở tiểu bang California mà tôi đã thề chấp nhận mới 39 ngày trước đây. Vấn đề chính yếu ở đây là tôi đã tuyên thệ nhận chức và đã đọc bản hiến pháp đó, và không có nơi nào trong đó nói rằng tôi được kỳ thị cả”.

Hôm Thứ Tư 20/2/2004, Tổng Thống Bush đã tỏ ra cảm thấy “rắc rối / bối rối” (troubled) về vụ hôn nhân đồng tính ở San Francisco và những quyết định pháp lý ở tiểu bang Massachusetts về cùng vấn đề, nhưng ông không dứt khoát tỏ ra có ủng hộ việc cấm đoán theo hiến pháp vấn đề này hay chăng.

“Tôi tỉ mỉ theo dõi những gì đang xẩy ra ở San Francisco là nơi đang cấp phát hôn thú, cho dù luật lệ của tiểu bang định khác. Tôi vốn nói rằng tôi sẽ ủng hộ luật bảo vệ vấn đề hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Hiển nhiên là những biến cố này đang chi phối đến vấn đề quyết định của tôi. Tôi đang theo dõi rất cẩn thận những tôi cảm thấy rắc rối về những gì tôi đã thấy”.

Tổng thống Hoa Kỳ nói với Tổng thống Tunisie là Zine El Abidine Ben Ali ở Tòa Bạch Ốc là “Tôi cảm thấy rắc rối bởi những vị thẩm phán hăng máu đang ấn định vấn đề hôn nhân. Dân chúng cần phải được tham dự vào vấn đề quyết định này. Hôn nhân là vấn đề do dân chúng ấn định chứ không phải là các tòa án. Tôi đang cẩn thận theo dõi vấn đề này đây”.

Tân Thống Đốc California Arnold Schwarzenegger nói trên màn điện toán toàn cầu của ông rằng những giấy hôn thú do thành phố San Francisco cấp cho thành phần hôn nhân đồng tính là bất hợp pháp: “Những chứng chỉ hôn nhân được thành phố và quản hạt San Francisco nộp cho Phân Bộ Sức Khỏe không hội đủ tiêu chuẩn”.
 

Thánh Bộ Tín Lý Ðức Tin về “Những Cân Nhắc Liên Quan Đến Những Dự Thảo Công Nhận Hợp Pháp Các Thứ Hiệp Nhất Giữa Những Người Đồng Phái Tính”.

Trong văn kiện mang tựa đề trên đây do Thánh Bộ Tín Lý Ðức Tin đề ngày 3/6/2003 và đã được ÐTC GPII phê chuẩn ngày 28/3/2003, Giáo Hội Công Giáo đã chủ trương dứt khott về vấn đề đồng tính luyến ái và đồng tính lấy nhau như sau:

Nhập đề:

“Trong những năm gần đây có một số vấn nạn khác nhau liên quan đến vấn đề đồng tính luyến ái được đặt ra, một số bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng như bởi các phân bộ liên hệ của Tòa Thánh. Đồng tính luyến ái là một hiện tượng rắc rối về luân lý và xã hội, ngay cả nơi những xứ sở không có những vấn đề pháp lý quan trọng. Hiện tượng này càng cần phải được quan tâm hơn nơi những xứ sở đã hay đang có ý định hợp thức hóa những cuộc hiệp nhất đồng phái tính, những cuộc hiệp nhất có thể bao gồm cả cơ hội nhận con nuôi.

“Những Điều Cân Nhắc ở đây không chứa đựng những yếu tố tín lý mới; Những Điều Cân Nhắc ấy thật ra chỉ nhắm đến việc lập lại những điểm thiết yếu về vấn đề này và đưa ra những lập luận theo lý trí các vị Giám Mục có thể sử dụng trong việc sửa soạn cho những can thiệp đặc biệt hơn, thích hợp với những hoàn cảnh khác nhau trên khắp thế giới, nhắm đến việc bảo vệ và cổ võ phẩm giá hôn nhân, nền tảng của gia đình, cũng như việc bảo vệ và cổ võ sự bền vững của xã hội do yếu tố gia đình hình thành.

“Những Điều Cân Nhắc đây cũng nhắm đến việc hướng dẫn các chính trị gia Công giáo, bằng cách nêu lên những phương cách đối với việc phác họa dự luật về vấn đề này làm sao cho hợp với lương tâm Kitô giáo. Vì vấn đề này liên quan đến luật luân lý tự nhiên, những lập luận sau đây được ngỏ chẳng những với những ai tin vào Chúa Kitô, mà còn với tất cả những người dấn thân cổ võ và bênh vực công ích của xã hội.

“I.- Bản Chất của Hôn Nhân và Những Đặc Tính Bất Khả Đoạt

“Giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân cũng như về tính chất hỗ tương phái tính nhắc lại một sự thật hiển nhiên đối với lý trí đứng đắn cũng như đã được tất cả mọi nền văn hóa chính trên thế giới nhìn nhận. Hôn nhân không phải chỉ là bất cứ một liên hệ nào giữa loài người với nhau…. Không một ý hệ nào có thể xóa mất nơi tâm linh con người niềm tin tưởng là hôn nhân chỉ xẩy ra giữa một người nam và một người nữ, những người, bởi việc trao ban cho nhau, một việc xứng hợp với họ và chỉ giành cho họ, hướng đến việc hiệp thông ngôi vị của họ. Nhờ đó, họ làm cho nhau nên trọn hảo, để cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh sản và nuôi dưỡng những sự sống con người mới.

“Sự thật tự nhiên về hôn nhân được Mạc Khải xác nhận trong trình thật về tạo dựng của thánh kinh…. Con người nam nữ bình đẳng về ngôi vị và bổ khuyết về phái tính. Tính dục là những gì liên quan tới lãnh vực thể lý và sinh lý, và được nâng lên một cấp độ mới, cấp độ cá thể, cấp độ hiệp nhất giữa bản tính tự nhiên và tinh thần…. Thiên Chúa muốn làm cuộc hiệp nhất của con người nam nư õđược đặc biệt tham dự vào công việc tạo dựng của Ngài…. Hơn nữa, việc hiệp nhất giữa con người nam nữ còn được Chúa Kitô nâng lên phẩm vị của một phép bí tích.

“Hoàn toàn không có một nền tảng nào trong việc coi các cuộc hiệp nhất hôn nhân đồng phái tính một cách nào đó giống như hay thậm chí hợp với dự án của Thiên Chúa về vấn đề hôn nhân và gia đình. Hôn nhân là một vấn đề thánh hảo, còn các tác động đồng tính luyến ái là những gì phản lại với lề luật luân lý tự nhiên. Các tác động đồng tính luyến ái ‘ngăn chặn tác động tính dục mang lại tặng ân sự sống. Chúng không phát xuất từ tính chất hỗ tương chân thực về tình cảm lẫn tình dục. Không thể chấp nhận những tác động này ở bất cứ trường hợp nào’.

“Tuy nhiên, theo giáo huấn của Giáo Hội, những con người nam nữ mắc khuynh hướng đồng tính luyến ái ‘cần phải được chấp nhận với một lòng tôn trọng, cảm thương và tế nhị. Phải tránh hết mọi hình thức tỏ ra kỳ thị họ một cách bất chính’. Như những Kitô hữu khác, họ cũng được kêu gọi để sống nhân đức trong sạch. Tuy nhiên, bản năng đồng tính luyến ái là những gì ‘bại hoại tự bản chất’ và những việc đồng tính luyến ái là ‘những hành động tội lỗi hết sức phạm đến đức trong sạch’.

“II.- Những Chủ Trương Về Vấn Đề Các Cuộc Hiệp Nhất Đồng Phái Tính

“Đối diện với sự kiện của những cuộc hiệp nhất hôn nhân đồng phái tính, các thẩm quyền dân sự có những chủ trương khác nhau. Có những lúc họ tỏ ra làm ngơ cho hiện tượng đồng tính luyến ái này xẩy ra; có những lúc họ biện hộ cho việc hợp thức hóa các cuộc hiệp nhất đồng tính luyến ái ấy, dưới chiêu bài liên quan đến một số quyền lợi hầu để tránh kỳ thị những ai muốn sống với người đồng phái tính. Ở những trường hợp khác, họ thiên về việc cho phép các cuộc hiệp nhất đồng phái tính quyền tương đương với cái thực sự được gọi là hôn nhân kèm theo quyền có thể nhận con nuôi.

“Trong trường hợp những cuộc hiệp nhất đồng phái tính đã được nhìn nhận theo pháp lý, hay đã được cho phép hưởng vị thế và các thứ quyền lợi thuộc về hôn nhân, thì phải tỏ ra chống lại một cách rõ ràng và mạnh mẽ. Người ta phải tránh những thứ cộng tác chính thức vào việc ban hành hay áp dụng những thứ lề luật bất chính trầm trọng như thế, và hết sức tránh những thứ cộng tác thực tế ở lãnh vực áp dụng thực hành các thứ lề luật ấy. Trong lãnh vực này ai cũng có thể thực hành quyền phản kháng theo lương tâm của mình.

“III. Những Lập Luận Theo Trí Khôn Phản Lại Việc Hợp Pháp Vấn Đề Đồng Tính Luyến Ái

“Để hiểu tại sao cần phải chống lại việc hợp pháp các cuộc hôn nhân đồng phái tính, cần phải để ý tới những cân nhắc về luân thường đạo lý thuộc các lãnh vực khác nhau.

“Về lãnh vực của trí khôn đứng đắn…. Những thứ luật lệ ủng hộ các cuộc hiệp nhất đồng phái tính là những gì phản lại với trí khôn đứng đắn, vì những thứ luật lệ ấy ban cho những cuộc hiệp nhất giữa các người đồng phái tính những thứ quyền bảo đảm về pháp lý tương tự như những quyền bảo đảm của hôn nhân.

“Về lãnh vực sinh lý và nhân loại học…. Những cuộc hiệp nhất đồng phái tính là những gì hoàn toàn thiếu các yếu tố về sinh lý cũng như nhân loại học của hôn nhân và gia đình cần có để chúng có lý do được hưởng quyền hợp thức hóa. Những cuộc hiệp nhất đồng phái tính ấy không thể nào góp phần một cách xứng hợp vào việc sinh sản và sống còn của nhân loại. Cơ hội sử dụng những phương pháp tạo sinh nhân tạo mới được khám phá, ngoài việc hoàn toàn bất kính với phẩm giá con người, cũng không thay đổi được tình trạng hụt hẫng này.

“Như kinh nghiệm cho thấy, việc thiếu hụt tính chất hỗ tương dục tính nơi những cuộc hiệp nhất đồng tính này tạo nên những ngăn trở trong việc phát triển bình thường của những trẻ em được những loại người này chăm sóc. Chúng sẽ bị hụt hẫng cảm nghiệm có được người cha hay người mẹ. Cho phép trẻ em được nhận làm con nuôi bởi những người sống hiệp nhất đồng tính thực sự vi phạm đến những trẻ em ấy, ở chỗ điều kiện sống lệ thuộc của chúng thường đưa chúng vào một hoàn cảnh không mang lại việc phát triển trọn vẹn về nhân bản của chúng. Đây là những gì hết sức vô luân và hoàn toàn phản trái với nguyên tắc được nhìn nhận trong Hiến Chế Liên Hiệp Quốc về Các Quyền Lợi của Trẻ Em, những nguyên tắc trong mọi trường hợp nhắm đến lợi ích tốt nhất của con trẻ, thành phần yếu kém và dễ bị tổn thương.

“Về lãnh vực xã hội. Xã hội lệ thuộc tình trạng tiếp tục sống còn của mình vào gia đình là cơ cấu được hình thành bởi hôn nhân. Hậu quả không thể tránh được của việc hợp thức hóa các cuộc hiệp nhất đồng phái tính đó là việc tái định nghĩa vấn đề hôn nhân, một việc sẽ biến vị thế hợp pháp của hôn nhân thành một cơ cấu trống rỗng ý nghĩa thiết yếu đối với các yếu tố liên quan đến tính chất dị phái tính; chẳng hạn như việc sản sinh và nuôi dưỡng con cái…. Khi đặt các cuộc hiệp nhất đồng phái tính về phương diện pháp lý tương tự như cuộc hiệp nhất của hôn nhân và gia đình là Chính Quyền đã tác hành một cách nghịch lý và phản ngược với nhiệm vụ của mình.

“Về lãnh vực pháp lý. Vì các đôi phối ngẫu bảo đảm việc tiếp nối của các thế hệ hậu sinh, hết sức hợp với thiện ích xã hội, nên luật dân sự đã nhìn nhận cơ cấu của họ. Trái lại, các cuộc hiệp nhất đồng phái tính không cần lãnh vực pháp lý đặc biệt chú trọng, vì chúng không thi hành phận vụ của công ích này.

“IV. Vị Thế của Các Chính Trị Gia Công Giáo Liên Quan Đến Việc Lập Luật Ủng Hộ Các Cuộc Hiệp Nhất Đồng Phái Tính.

“Nếu quả thực tất cả mọi người Công giáo buộc phải chống lại việc hợp thức hóa các cuộc hiệp nhất đồng phái tính, thì các chính trị gia Công giáo lại càng phải buộc phải làm như vậy theo trách nhiệm của mình là những chính trị gia. Đối diện với những dự thảo thành luật ủng hộ các cuộc hôn nhân đồng phái tính, các chính trị gia Công giáo phải lưu ý tới những qui định sau đây:

“Khi việc lập pháp thiên về chiều hướng nhìn nhận các cuộc hôn nhân đồng phái tính được phác họa lần đầu tiên trong hội đồng lập pháp thì nhà lập luật Công giáo có nhiệm vụ về phương diện luân lý phải tỏ ra chống lại một cách rõ ràng và công khai cũng như phải bỏ phiếu chống lại. Việc bỏ phiếu ủng hộ một thứ luật quá tai hại cho công ích là một điều hết sức vô luân.

“Khi việc lập pháp ủng hộ vấn đề hợp thức hóa các cuộc hiệp nhất đồng phái tính đã có hiệu lực, thì chính trị gia Công giáo phải chống lại nó cách nào có thể và phải tỏ ra công khai chống đối…. Nếu không thể vãn hồi một khoản luật như vậy một cách hoàn toàn thì chính trị gia Công giáo… ‘có thể ủng hộ một cách hợp pháp những dự thảo nhắm đến việc giới hạn sự thiệt hại gây ra bởi một thứ luật như thế cũng như nhắm đến việc giảm bớt những hậu quả tiêu cực ở lãnh vực dư luận quần chúng và luân lý xã hội’, miễn là ‘việc chống đối theo cá nhân’ của họ với những thứ luật lệ này được bày tỏ một cách rõ ràng cũng như công khai và tránh được mối nguy hiểm gây ra gương mù.

“Điều này không có nghĩa là một khoản luật càng bị giới hạn trong lãnh vực này có thể được coi là chính đáng hay thậm chí đáng chấp nhận; trái lại, nó là vấn đề của nỗ lực hợp pháp và hữu trách trong việc đạt tới ít là một phần nào vấn đề vãn hồi một thứ luật bất chính khi mà việc hoàn toàn hủy bỏ nó không phải là không có thể xẩy ra vào lúc này đây.

”Kết Luận

“…. Công ích đòi các thứ luật lệ phải nhìn nhận, cổ võ và bảo vệ hôn nhân như là nền tảng của gia đình, đơn vị căn bản của xã hội. Việc hợp pháp các cuộc hiệp nhất đồng phái tính hay đặt những cuộc hôn nhân đồng phái tính này cùng một cấp độ như hôn nhân chẳng những có ý chấp nhận một hành vi lạc loài, làm cho nó trở thành một mẫu sống của xã hội ngày nay, mà còn làm lu mờ đi những giá trị căn bản thuộc về gia sản chung của nhân loại. Giáo Hội không thể không bênh vực các giá trị này, vì thiện ích của con người nam nữ cũng như vì thiện ích của chính xã hội loài người”.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ tài liệu được VIS phổ biến ngày 31/7/2003

 

22/2 Chúa Nhật VII Thường Niên Năm C

Tình Thương là Cốt Lõi của Tình Yêu và là Tột Đỉnh Trọn Lành

Tôi không cần các người thương”

Bài Phúc Âm Chúa Nhật VII Thường Niên Năm C tuần này, tiếp theo bài Phúc Âm tuần trước về việc Chúa Giêsu chúc phúc nguyền rủa liên quan đến tứ phúc đức và tứ ác đức, thuật lại việc Chúa Giêsu dạy các môn đệ những phúc đức trọn lành, cho đến độ sống nhân từ như Cha trên trời với mọi người, nhất là đối với những người thù địch của mình.

Ở đây, như mở đầu Bài Giảng Trên Núi được Thánh Ký Mathêu thuật lại, mục đích Chúa dạy các môn đệ của Người như thế là vì Người muốn các môn đệ của Người phải sống trọn lành, chẳng những hơn thành phần tội nhân, thành phần dân ngoại, mà còn hơn cả thành phần luật sĩ và biệt phái thông luật song không giữ luật hay giữ luật theo hình thức chứ không phải theo tinh thần của luật là đức ái.

Tất cả những gì Chúa Giêsu dạy trong suốt cả bài Phúc Âm này là những điều Người muốn khai triển hay dẫn giải về câu chủ yếu đầu tiên Người nói: “Các con hãy yêu keœ thù, hãy làm ơn cho những keœ ghét mình, hãy chúc phúc cho những keœ ngược đãi mình, hãy cầu nguyện cho những keœ vu khống mình”. Bởi vì, ai thực hành được câu đầu tiên này là thực hành hết những gì Người dạy thi hành ở phần dưới sau đó, hay nói ngược lại, ai thi hành được tất cả những gì Người dạy sau khi nói câu đó là người thi hành được câu đầu tiên này.

Thực vậy, qua bài Phúc Âm Chúa Nhật VII Thường Niên Năm C tuần này, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người phải “yêu kẻ thù”, một tình yêu cần phải được tỏ ra bằng ba thái độ cụ thể: làm ơn cho keœ ghen ghét mình, chúc phúc cho keœ nguyền ruœa mình, và cầu nguyện cho keœ ngược đãi mình. Nếu để ý kỹ ba thái độ cụ thể trên đây, chúng ta chẳng những thấy tính cách lành dữ đối chọi nhau, như làm ơn đối lại ghen ghét, chúc phúc đối lại nguyền rủa và cầu nguyện đối lại ngược đãi, mà còn thấy được cả tiến trình đảo ngược của tâm ngôn hành ở những thái độ “yêu kẻ thù” này nữa. Không phải hay sao, phân tích kỹ câu thực hiện đức ái trọn hảo này, nạn nhân phải tỏ ra hành động (“làm ơn”) đối lại với tâm hồn (“ghen ghét”) của kẻ thù, sau đó, nạn nhân còn phải lấy ngôn từ (“chúc phúc”) đối lại với ngôn ngữ (“nguyền rủa”) của kẻ thù, sau hết, nạn nhân phải lấy tâm hồn (“cầu nguyện”) đối lại với hành động (“ngược đãi”) của kẻ thù. Với cả con người tâm ngôn hành sống đức ái trọn hảo như thế, thành phần môn đệ của Chúa Kitô mới đạt đến tầm mức trọn lành như Cha trên trời, như Chúa Giêsu đề cập đến trong Phúc Âm Thánh Mathêu (5:48), hay mới “xót thương như Cha là Đấng thương xót”, như Người phán trong bài Phúc Âm Thánh Luca (6:36) hôm nay.

Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là, đối với tâm lý trần gian thì xót thương hay thương xót là một vấn đề rất tế nhị và thường đụng chạm dữ dội đến tự ái của con người. Đó là lý do chúng ta vẫn hay nghe thấy những lời nói hay chứng kiến thấy những thái độ cho rằng “tôi không cần các người thương!” Vậy thái độ “tôi không cần các người thương” đây quả thực đúng hay sai, tự trọng hay tự cao, tự vệ hay tự ái?

Trước hết, theo Mạc Khải Thần Linh, một mạc khải được sáng tỏ chẳng những nơi giáo huấn mà còn nơi cả hành động sống động của Chúa Giêsu Kitô, một Con Người lịch sử được tác giả Bức Thư gửi Do Thái ở đoạn 1 câu 3 xác tín “là hiện thân đích thực của hữu thể Cha”, thì phải chân nhận thái độ thương xót là tầm mức cao nhất của tình yêu, có thể nói, là chân dung đích thực của tình yêu, là cốt lõi của tình yêu, đến nỗi, yêu mà không thương thì kể như chưa yêu thực sự hay chưa thực sự yêu, nếu không muốn nói là yêu một cách hàm hồ, một cách hời hợt, một cách vị kỷ, yêu cho tới khi không được như ý thì bỏ, tức yêu một cách giả dối. Không phải hay sao, nếu ngay từ ban đầu con người đang còn ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, nghĩa là con người còn đang ở trong tình trạng tốt lành, dễ thương, thì được Thiên Chúa yêu, song một khi họ vừa quay ra phản bội Ngài, bằng việc phải lòng ma quỉ, nghe theo lời đường mật dụ dỗ của hắn mà trắng trợn bỏ Ngài, liền bị Ngài phạt chết ngay lập tức, không còn kịp nhận ra lầm lỗi của mình và thống hối trở về với Ngài nữa, thì chắc loài người sẽ không bao giờ nhận ra Vị “Thiên Chúa là tình yêu”, như Tông Đồ Gioan đã định nghĩa về Ngài trong Thư Thứ Nhất ở đoạn 4, câu 8 và 16.

Phải, chính vì “Thiên Chúa là tình yêu” mà “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban Con một của Ngài, để thế gian nhờ Con mà được sự sống trường sinh”, như chính lời xác nhận của Chúa Giêsu trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 3 câu 16. Thế nhưng, đối tượng được Ngài yêu thương ban chính bản thân của mình là Con Ngài cho đây lại là một thế gian đã bị trở nên ô uế, bất xứng với bản tính Chí Thiện, Chí Tôn, Chí Thánh của Ngài, đúng như nhận định của Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 5 câu 8: “Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta thấy Ngài yêu thương chúng ta ở chỗ đang khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã chết đi cho chúng ta”. Có nghĩa là, Vị Tông Đồ Dân Ngoại còn nói rõ hơn cũng trong cùng bức thư này ở đoạn 8 câu 32, đó là, “Thiên Chúa đã không dung tha cho Con mình, một phó nạp Người vì tất cả chúng ta”. Bởi thế, chính Con Thiên Chúa nhập thể, Đấng đã xác nhận trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 3 câu 17: “Thiên Chúa không sai Con mình đến thế gian để luận phạt thế gian mà là để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”, cũng là Đấng đã thực sự, như lời Người tuyên bố trong Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 20 câu 28: “Con Người đến không phải để được hầu hạ mà là để hầu hạ, để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người”. Và, như lịch sử đã cho chúng ta thấy, đúng như Người đã tuyên bố trong Phúc Âm Thánh Gioan Người ở đoạn 10 câu 10, Người thực sự đã là một “vị mục tử nhân hậu, vị mục tử nhân hậu hiến mạng sống mình vì chiên, để cho chúng được sự sống, một sự sống viên mãn hơn”, khi Người giang tay trên câp thập giá vô cùng đau thương và nhục nhã.

Nếu cũng ở Bài Giảng Trên Núi, Giêsu đã kêu gọi các môn đệ trong Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 5 câu 48: “Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời của các con là Đấng trọn lành”, và trong Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, ở đoạn 6 câu 36, Chúa Giêsu lại kêu gọi: “Các con hãy xót thương như Cha là Đấng thương xót”, thì không phải xót thương là trọn lành hay sao, và nên trọn lành chính là tỏ lòng xót thương hay sao? Phúc Âm Thánh Luca hôm nay còn cho biết thêm những chi tiết cần phải thực hành để có thể tỏ ra con người môn đệ của Người thực sự đã biết “xót thương như Cha là Đấng thương xót”, đó là “không xét đoán… không lên án… thứ tha… ban phát”. Đúng thế, một con người biết xót thương thực sự, họ sẽ không bao giờ dám xét đoán ai theo chủ quan hay thành kiến vốn xu hướng xấu của mình, cho dù họ có thấy cái dở, cái xấu của ai và nơi ai, họ cũng không lên án (con người làm bậy), trái lại, họ rất thông cảm và tìm cách giúp con người đáng thương đó cải tiến (những hành động sai quấy đáng bị lên án và sửa sai). Nếu chính họ là nạn nhân trong cuộc, họ chẳng những, về phần tiêu cực, phải biết “thứ tha” cho kẻ làm khốn mình, mà còn, về phần tích cực, phải “ban phát”, tức “làm ơn cho kẻ ghét mình”, như lời Chúa Giêsu dạy ở đầu bài Phúc Âm. Kitô giáo không phải chỉ có tấm lòng “từ bi hỉ xả” mà còn phải dấn thân “yêu kẻ thù mình” nữa.

Như thế, nếu tình thương là một sự thiện, là một cái gì tuyệt hảo nhất, tuyệt diệu nhất trên trần gian ô trọc đáng thương này, thì ai không cần thương hay coi thường tình thương tức là chẳng những không hiểu được tình thương mà vì thế cũng chẳng hiểu gì về bản thân của mình. Thật vậy, trong Bức Thông Điệp của ĐTC Gioan Phaolô II về Chúa Cha, mang tựa đề: “Giầu Lòng Xót Thương” ban hành ngày 30/11/1980, chúng ta thấy có hai đoạn liên quan đến chiều hướng trên đây, một đoạn về bản chất của tình thương liên hệ với tình yêu, và một đoạn về thái độ của con người ngày nay bất cần tình thương.

“Ai là anh em tôi?”

Trước hết, về bản chất của tình thương liên hệ với tình yêu, ĐTC nhận định ở đoạn 7 như sau: “Tình thương là một chiều kích không thể nào tách rời của tình yêu; nó thực sự như là một danh hiệu thứ hai của tình yêu, đồng thời, là một thể thức đặc biệt cho tình yêu tỏ mình ra và tác dụng ngược lại với thực tại của sự dữ trong thế giới đang chi phối và bủa vây con người, đang thấm vào tận tâm can họ và có khả năng khiến cho họ bị 'tử vong trong Hỏa Ngục' (Mt.10:28)"; và ở giữa đoạn 8, ĐTC nhận định tiếp: “Trong việc hoàn thành cánh chung, tình thương sẽ được mạc khải như là tình yêu, ngược lại, ở giai đoạn tạm thời này, nơi lịch sử nhân loại cũng là lịch sử của tội lỗi và sự chết, tình yêu trước hết phải được mạc khải như là tình thương và cũng phải hiện thực như là tình thương”.

Sau nữa, về thái độ của con người ngày nay bất cần tình thương, ở đoạn 2, ĐTC nhận xét thế này: "Tâm thức ngày nay, có lẽ hơn cả của con người trong quá khứ, tỏ ra chống lại với một vị Thiên Chúa của tình thương, và thực tế cho thấy có khuynh hướng loại trừ ra khỏi đời sống và lấy nó ra khỏi cõi lòng con người ngay cả tư tưởng về tình thương nữa. Từ ngữ và ý niệm về 'tình thương' như gây nên một cái gì bất ổn nơi con người, thành phần mà, nhờ việc tiến triển khổng lồ về khoa học và kỹ thuật chưa bao giờ có trong lịch sử, đã trở nên chủ nhân ông của trái đất, và đã cai trị cùng thống trị nó. Việc thống trị trái đất này, đôi khi được hiểu một chiều và nông cạn, xem ra không còn chỗ cho tình thương”.

Tuy nhiên, dầu sao cũng phải công nhận rằng, trên thực tế, câu nói hay thái độ “tôi không cần đến các người thương”, không nhiều thì ít, cũng mật thiết liên quan đến thái độ của chủ thể tỏ tình thương bằng giọng điệu như: “tôi thấy thương hại người ấy, họ là một người thật là tội nghiệp đáng thương”. Đúng vậy, dù tình thưong tự bản chất của mình có tuyệt vời đến thế nào đi nữa, nếu con người không biết sử dụng nó, thì thay vì nó có tác dụng tốt lại gây ra phản ứng xấu. Sở dĩ đối tượng được thương tỏ ra thái độ “tôi không cần các người thương”, một trong những lý do của thái độ phản ứng đầy tự ái này đó là vì cách tỏ tình thương của chủ thể thương: “tôi thấy thương hại người ấy, họ là một người thật là tội nghiệp đáng thương”.

Đúng thế, tình thương là một sự thiện nâng con người đáng thương lên chứ không phải để ấn họ xuống càng sâu hơn. Đó là lý do, cũng trong Thông Điệp “Giầu Lòng Thương Xót” như vừa trích dẫn, ở cuối đoạn 6, ĐTC đã nhận định “Ý nghĩa chân thực và xứng hợp của tình thương không chỉ ở tại việc nhìn vào sự dữ luân lý, thể lý hay vật lý một cách thấm thía và thương hại: Tình thương được biểu hiện qua bộỉ mặt chân thực và xứng hợp của nó là khi nó phục hồi được giá trị, nâng cao và rút tỉa được sự thiện từ tất cả mọi hình thức của sự dữ đang hiện diện nơi thế giới cũng như nơi con người”. Theo ý hướng của lời ĐTC Gioan Phaolô II vừa diễn tả thì điển hình nhất của lòng xót thương chân thực và trọn hảo này đã được Chúa Giêsu diễn tả qua dụ ngôn người Samaritanô nhân lành trong Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 10 từ câu 33 đến câu 35, một kiểu xót thương nhanh nhẹn xuống lừa, ôm lấy nạn nhân xa lạ đang ngấp ngoái, vội vàng đem đi chữa trị cho đến khi lành mạnh, chứ không phải thái độ thương theo kiểu chủ nhân ông, theo kiểu trịch thượng từ cao nhìn xuống, kiểu thương hại, kiểu bố thí, kiểu “đồ con nít, không thèm chấp”, “không có ý nên tha cho” (vậy thì có ý thì không tha?) v.v.

Hơn thế nữa, để tỏ lòng thương người, chúng ta chẳng những phải biết tôn trọng phẩm giá của họ mà còn phải làm sao đồng hóa với họ nữa, ở chỗ, chúng ta phải biết tỏ ra thông cảm với họ, đến độ trở thành đáng thương như họ, giống trường hợp của chính Đấng chẳng những đã hóa thành nhục thể và ở với loài người, mà còn đồng hóa với tình trạng bần cùng nhất của loài người, nghĩa là cũng chịu “đói khát, trần truồng, xa lạ, tù ngục, bệnh nạn” như là “một trong những người anh em hèn mọn nhất” của Người, như Người đã tự nhận trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 25 khi nói về ngày chung thẩm. Đó là lý do, trong cùng Thông Điệp vừa được trích dẫn, ở giữa đoạn 8, ĐTC đã nói đến thân phận đáng thương của Con Ngài như sau: “Theo một ý nghĩa đặc biệt, Thiên Chúa cũng mạc khải tình thương của Ngài ra khi Ngài mời gọi con người 'hãy thương xót' Con Một của Ngài, một con người tử giá”.

Tóm lại, theo tôi, con người càng xót thương thì càng trở nên đáng thương, đúng như mối Phúc Đức Thứ Năm trong Tám Mối Phúc Đức: “Phúc cho ai biết xót thương vì sẽ được thương xót”. Và dấu hiệu chứng tỏ chúng ta có thực sự thương người hay chăng, là ở chỗ chúng ta có “trở nên mọi sự cho mọi người” hay chăng, một tình trạng được Thánh Phaolô nói tới trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô ở đoạn 9 câu 23? Nếu có, con người mới được hoàn toàn hiệp thông với Thiên Chúa, một mối hiệp thông là chính thực tại của đức ái trọn hảo, của tầm vóc nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành vậy.

Tinh thần thương xót là tột đỉnh của tình yêu theo Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay rất đúng ở môi trường hôn nhân ngày nay. Thật thế, vì hôn Nhân bắt nguồn từ yêu thương, bởi thế, hôn nhân chỉ bền vững và trọn hảo trong yêu thương. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy, yêu mà không thương chỉ là một tình yêu một thời, nông nổi và dễ vỡ. Yêu mà không thương con người chỉ tìm kiếm những cái đẹp, cái tốt nơi nhau, hay những cái của nhau hợp với mình và lợi cho mình mà thôi, nếu không tìm thấy cái đẹp, cái hay, cái tốt, cái lợi cho mình, trái lại, còn gặp thấy hay còn nhìn thấy những cái xấu, cái dở, cái ngứa tai gai mắt nơi nhau thì làm sao có thể chấp nhận nhau được mà không tiến tới chỗ ly dị nhau.

Còn yêu đi với thương là yêu cả những gì không hợp với mình, cả những gì bất toàn nơi nhau, cả những gì đáng được thông cảm và nâng đỡ. Thương đây không phải là thương hại, từ trên nhìn xuống, mà là thái độ tôn trọng ngôi vị của nhau, với tất cả bản chất làm nên con người cá biệt của nhau. Chính vì thương là chấp nhận nhau ngôi vị của nhau chứ không phải lấn át, tẩy chay hay kỳ thị nhau, đi tới chỗ chia rẽ và đổ vỡ, thì tình thương chính là tuyệt đỉnh của tình yêu và dấu chứng tình yêu đích thực. Đó là lý do chỉ khi nào con người yêu nhau đến độ biết thương nhau họ mới có thể hiệp nhất nên một với nhau mà thôi. Bởi vì, tình yêu là ơn gọi hiệp thông!

Theo chiều hướng yêu bao giờ cũng đi với thương và thương là tột đỉnh của tình yêu, là cốt lõi của tình yêu như thế mà tôi bao giờ cũng chúc hôn như sau: một là dài - “Xin TÌNH YÊU nhân duyên đã hiệp nhất đôi tân hôn nên một trong đời sống hôn nhân đạt đến tầm mức toàn hảo của mình trong TÌNH THƯƠNG linh thánh”; hai là ngắn - “Chúc đôi TÂN HÔN tràn đầy HẠNH PHÚC trong YÊU THƯƠNG”.

Chính vì con người yêu nhau còn ở mức độ công bằng, mức độ tối thiểu, mức độ mà cả dân ngoại và thành phần tội nhân cũng làm được (x Mt 5:46-47), tức theo kiểu “ai là anh em của tôi?” (Lk 10:29), hay theo khuynh hướng chọn lựa người để yêu, theo ý thích và thiện ích của mình, ai yêu tôi thì tôi yêu lại, tôi chỉ yêu những người hợp với tôi thôi, mà thực tế cho thấy con người không thể nào thoát khỏi thái độ đối xử với nhau theo phản ứng tự nhiên, “mắt đền mắt răng đền răng”. Đó là lý do, như lịch sử cho thấy, con người đã không thể giải quyết được vấn đề kinh tế và chính trị theo công ích và cho công ích, đến nỗi họ đã đi đến chỗ đánh đấm nhau hết sức dữ dội và dai dẳng. Tình hình Thánh Địa là một trường hợp hết sức điển hình cho thấy đường lối giải quyết những xung khắc lợi lộc bằng việc (Palestine) khủng bố tấn công và (Do Thái) tấn công khủng bố, như càng xẩy ra kinh hoàng từ đầu thiên niên kỷ thứ ba tới nay, đã thực sự đi đến ngõ cụt và càng gây thêm máu đổ mạng vong vô ích. Trong Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2002 và 2004, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã lập lại tinh thần bác ái trọn lành, tinh thần thứ tha yêu thương kẻ thù của Kitô giáo theo lời Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, như sau:

“Nỗi khổ đau vĩ đại của các dân tộc cũng như của những con người, ngay cả của những người trong số bạn bè và quen biết của Tôi, do chế độ độc tài Nazi và Cộng Sản gây ra, Tôi không bao giờ quên được và cũng không thôi nguyện cầu. Tôi thường ngẫm nghĩ đến một vấn đề dai dẳng này là chúng ta làm thế nào để phục hồi lại trật tự về luân lý và xã hội, một trật tự bị lọt vào bàn tay của tình trạng bạo loạn khiếp đảm như thế?… Những cột trụ của nền hòa bình chân thực là công lý và là một mẫu yêu thương biết thứ tha (Sứ Điệp Hòa Bình 2002 đoạn 2). Thế nhưng, trong những hoàn cảnh hiện nay, chúng ta làm sao có thể nói đến công lý và thứ tha như là nguồn gốc và là điều kiện để tạo lập hòa bình đây? Cho dù có khó khăn đến mấy đi nữa, chúng ta cũng có thể nói và phải nói đến những vấn đề này… Thứ tha phản ngược lại với uất hận và trả thù, chứ không phải với công lý. Thật vậy, hòa bình thực sự là ‘việc của công lý’ (Is 32:17). Bởi thế hòa bình đích thực là hoa trái của công lý, một nhân đức luân lý và là một bảo toàn về pháp lý đưa đến chỗ biết hoàn toàn tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ của con người, cũng như đưa đến việc phân phối công bằng cả về những thiện ích lẫn gánh nặng. Thế nhưng, vì công lý của loài người luôn mỏng dòn và bất hảo, lệ thuộc hẳn vào những giới hạn và cái tôi của con người cũng như của phái nhóm, mà nó phải cần đến lòng thứ tha và cần phải thực hiện bằng một tấm lòng thứ tha, một lòng thứ tha hàn gắn chữa lành và tái thiết những mối liên hệ trần thế bị trục trặc tận căn gốc của chúng. Điều này đúng là như thế, ở những hoàn cảnh lớn nhỏ, ở tầm mức riêng tư hay bao rộng, ở cả ngay lãnh vực quốc tế nữa. Thứ tha không thể nào phản ngược lại với công lý, như thể thứ tha là bỏ qua nhu cầu cần phải sửa lại những gì sai quấy. Trái lại, nó là tầm mức trọn vẹn của công lý… Công lý và thứ tha đều là những gì thiết yếu cho việc hàn gắn ấy” (Sứ Điệp Hòa Bình 2002 đoạn 3)

“Để kết thúc những nhận định này, Tôi cảm thấy cần phải lập lại là, để thiết lập một nền hòa bình chân thực trên thế giới, công lý phải được nên trọn trong đức bác ái. Chắc chắn luật lệ là đường lối đầu tiên dẫn đến hòa bình, và dân chúng cần phải được dạy cho biết tôn trọng luật lệ này. Tuy nhiên, người ta không thể tiến đến cùng đích của đạo lộ này trừ phi công lý được yêu thương bổ khuyết cho. Công lý và yêu thương đôi khi có vẻ là những lực lượng phản nghịch nhau. Thật vậy, chúng chính là nhị diện của một thực tại duy nhất, là hai chiều kích của đời sống con người cần phải tương nhập trùng phùng. Kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy điều này quả thực như thế. Nó cho thấy công lý thường không thể tách mình khỏi cái cảm giác bị nhục nhã, cảm giác hận thù và thậm chí cảm giác thỏa mãn trước đau khổ của người khác. Tự mình, công lý không đủ. Thật vậy, nó có thể phản bội chính mình, trừ phi nó biết hướng về một thứ mãnh lực sâu xa hơn đó là yêu thương. Vì lý do này, Tôi vẫn thường nhắc nhở Kitô hữu cũng như tất cả mọi con người thiện chí là cần phải thứ tha để giải quyết những vấn đề giữa cá nhân với nhau và các dân tộc với nhau. Hòa bình không thể nào có nếu thiếu thứ tha! Tôi xin lập lại điều này một lần nữa ở đây, khi Tôi đặc biệt nghĩ đến tình trạng khủng hoảng liên miên ở Palestine và Trung Đông: sẽ không thể nào tìm được một giải pháp cho các thứ vấn đề rắc rối nghiêm trọng gây khổ đau dai dẳng cho các dân ở vùng này cho tới khi thực hiện một quyết định vượt trên lý lẽ của một thứ công lý căn bản và hướng về lý lẽ của lòng thứ tha. Kitô hữu biết rằng yêu thương là lý do để Thiên Chúa thực hiện mối liên hệ với con người. Chính yêu thương đã làm cho Ngài đợi chờ con người đáp ứng. Bởi thế, yêu thương cũng là một hình thức cao quí nhất và sáng giá nhất nơi mối liên hệ khả thể giữa loài người với nhau. Bởi thế tình yêu cần phải dậy men nơi hết mọi lãnh vực của đời sống con người và bao hàm cả lãnh vực quốc tế. Chỉ có một thứ nhân loại được chủ trị bởi ‘nền văn minh yêu thương’ mới có thể hoan hưởng một nền hòa bình chân thực và bền vững mà thôi” (Sứ Điệp Hòa Bình 2004, đoạn 10)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Thiên Chúa Phán Quyết đầy tình thương

ÐTC GPII: Bài Giáo Lý 59 dọn Mừng Năm Thánh 2000 Thứ Tư ngày 7-7-1999

Trong Thánh Vịnh 116 chúng ta đọc thấy “Chúa sủng ái và công minh; Thiên Chúa của chúng ta giầu lòng thương xót” (câu 5). Thoạt tiên phán quyết và tình thương dường như là hai thực tại không thể hòa hợp với nhau, hay ít là nếu tình thương có thể liên kết được với phán quyết thì tình thương phải làm giảm bớt quyền năng bất nhân nhượng của phán quyết. Bởi thế mới cần phải hiểu được lý lẽ của Thánh Kinh là những gì đã liên kết chúng lại với nhau và đã thực sự cho thấy rằng chúng cần nhau để tồn tại.

            Trong Cựu Ước, ý nghĩa về đức công minh thần linh được dần dần nhận thức thấy, bắt đầu từ tình trạng con người hành thiện mà lại cảm thấy bị đe dọa một cách bất công. Thế rồi họ tìm nương náu và chở che nơi Thiên Chúa. Cảm nghiệm này đã được diển đạt một số lần trong các Thánh Vịnh, chẳng hạn như: “Tôi biết rằng Chúa phân xử cho kẻ khốn khó và phân minh cho người nghèo khó. Kẻ chính trực nhất định sẽ tạ ơn danh Ngài; người ngay lành sẽ ở trước nhan Chúa” (Ps.104:13-14).

            Về vấn đề khó khăn trong việc tìm kiếm công lý nơi con người cũng như nơi các trường hợp của họ, thì trong Thánh Kinh càng ngày càng nhận thức được rằng công lý sẽ chỉ hoàn toàn được thể hiện ở tương lai, qua hoạt động của một nhân vật nhiệm mầu là Đấng từ từ sẽ tỏ ra những đặc tính “thiên sai” rõ ràng minh bạch hơn: đó là một vị vua hay con của một vị vua (x.Ps.72:1), một chồi “sẽ phát xuất từ gốc Jesse” (Is.11:1), một “nhánh công chính” là miêu duệ của Đavít (Jer.23:5).

2-         Hình ảnh của Vị Thiên Sai, được báo trước nơi nhiều đoạn văn, nhất là nơi các sách tiên tri, theo quan niệm cứu độ, có phận sự cai quản và phân xử cho tình trạng thịnh vượng và phát triển của cộng đồng cũng như của phần tử cá nhân thuộc cộng đồng này.

            Phận sự pháp quyền này sẽ được thi hành đối với người lành cũng như kẻ ác, thành phần sẽ cùng nhau ra trước tòa phán xét, nơi mà sự vinh thắng của kẻ công chính sẽ làm cho kẻ dữ phải khiếp sợ và ngỡ ngàng (x.Wis.4:20-5:23; cũng x.Dn.12:1-3). Tác dụng của phán quyết thuộc về “Con Người”, theo thị kiến của sách Đaniên cho thấy, sẽ là việc dân thánh của Đấng Tối Cao chiến thắng trên cuộc sụp đổ của các vương quốc thế trần (x.Dn. đoạn 7, nhất là các câu 18 và 27).

            Lại nữa, ngay cả chính thành phần mong chờ phán quyết thuận lợi cho mình cũng nhận thấy những giới hạn của mình. Thế nên, càng ngày mới càng có cảm thức rằng không thể nào có công chính nếu không có ân sủng thần linh, như tác giả Thánh Vịnh nhắc nhở: “Ôi Chúa… xin hãy đáp lời tôi theo công lý của Ngài. Xin Chúa đừng luận xử tôi tớ của Ngài, vì trước nhan Chúa không có ai sống mà chính trực cả” (Ps.143:1-2).

3-         Chúng ta cũng thấy cùng một lý lẽ như vậy trong Tân Ước, nơi mà phán quyết thần linh được gắn liền với công việc cứu độ của Chúa Kitô.

Chúa Giêsu là Con Người được Chúa Cha ban quyền xét xử. Người sẽ tuyên phán trên tất cả mọi người từ cõi chết sống lại, khi phân loại thành phần được tiền định phục sinh để hưởng sự sống ra khỏi thành phần sống lại để chịu phán xét (x.Jn.5:26-30). Tuy nhiên, như Thánh Ký Gioan nhấn mạnh: “Thiên Chúa đã sai Con vào trần gian không phải để luận phạt trần gian, song để trần gian nhờ Người mà được cứu độ” (Jn.3:17). Chỉ  những ai chối từ ơn cứu độ do Thiên Chúa hiến ban theo lòng nhân từ vô biên của Ngài mới bị luận phạt mà thôi, bởi vì họ sẽ tự luận phạt chính bản thân mình.

4-         Thánh Phaolô đã đào sâu ý nghĩa cứu độ về quan niệm “sự công chính của Thiên Chúa” này, một công chính được hoàn tất “nhờ đức tin vào Chúa Giêsu Kitô đối với tất cả những ai tin” (Rm.3:22). Sự công chính của Thiên Chúa được gắn bó chặt chẽ với tặng ân giao hòa; nếu chúng ta được giao hòa với Chúa Cha nhờ Đức Kitô, thì cả chúng ta nữa, nhờ Đức Kitô, cũng có thể trở nên sự công chính của Thiên Chúa (x.2Cor.5:18-21).

Phán quyết và tình thương, như thế, có thể hiểu như là hai khía cạnh của cùng một mầu nhiệm yêu thương: “Vì Thiên Chúa đã dồn tất cả mọi người vào tình trạng bất phục tùng để Ngài có thể tỏ tình thương với tất cả mọi người” (Rm.11:32). Như thế, là cốt lõi của thái độ thần linh và cần trở nên nhân đức nền tảng cho tín hữu, tình yêu phải thôi thúc chúng ta tin tưởng vào ngày phán xét, loại trừ đi tất cả mọi sợ hãi lo âu (x.1Jn.4:18). Theo gương của phán quyết thần linh này, phán đoán của nhân loại cũng phải được thể hiện theo lề luật của tự do, một lề luật thực sự được tình thương làm chủ: “Anh em hãy luôn luôn nói và làm như những người hướng đến phán quyết theo lề luật của tự do. Phán quyết phũ phàng dành cho người không biết xót thương; nhưng tình thương lại thắng vượt trên phán quyết” (Jas.2:12-13).

5-         Thiên Chúa là Cha tình thương và của mọi niềm an ủi. Vì thế mà trong lời cầu thứ năm của kinh nguyện tuyệt hảo là Kinh Lạy Cha, “chúng ta bắt đầu nguyện cầu với lời ‘xưng nhận’ nỗi hèn yếu của mình cũng như tình thương của Ngài” (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 2839). Trong việc tỏ cho chúng ta thấy sự trọn vẹn của tình thương nơi Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta rằng, chúng ta chỉ có thể đến được với Cha rất chính trực và xót thương, nhờ cảm nghiệm được mối tình thương ấy, một mối tình thương ghi vết nơi các mối liên hệ giữa chúng ta với tha nhân. “Việc tuôn đổ tình thương này không thể thấm vào lòng chúng ta bao lâu chúng ta không tha cho những ai phạm đến chúng ta… Khi từ chối không chịu tha thứ cho anh chị em của mình, lòng chúng ta đã đóng lại và tình trạng cứng cỏi của lòng chúng ta làm cho chúng tuột mất tình yêu nhân hậu của Chúa Cha” (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 2840).

(Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/7/1999)

 

(Giáo Hội Hiện Thế các tuần trước)