GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ TƯ 2/11/2005

 

?   ĐTC Biển Đức XVI - Sứ Điệp cho Ngày Tị Nạn và Di Dân Thế Giới 2006: “Di Dân, Một Dấu Chỉ Thời Đại

   Tòa Thánh Vatican tại Liên Hiệp Quốc về Vấn Đề “Nữ Giới 2000: Sự Bình Đẳng Giống Tính, Phát Triển và Hòa Bình trong Thế Kỷ 21

?  Loài người nếu chỉ có một cha mẹ nguyên tổ duy nhất lại trở thành nhiều chủng tộc khác nhau?

 

?   ĐTC Biển Đức XVI  - Sứ Điệp cho Ngày Tị Nạn và Di Dân Thế Giới 2006: “Di Dân, Một Dấu Chỉ Thời Đại

 

Ngày Tị Nạn và Di Dân Thế Giới lần thứ 92 sẽ được cử hành vào ngày 15/1/2006. Sau đây là nguyên văn sứ điệp của ĐTC.

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Công Đồng Chung Vaticanô II, với giáo huấn dồi dào bao gồm nhiều lãnh vực trong đời sống giáo hội, đã bế mạc 40 năm trước đây. Hiến chế mục vụ “Vui Mừng và Hy Vọng” đặc biệt phân tích kỹ lưỡng những sự phức tạp của thế giới ngày nay, tìm cách tốt nhất để mang sứ điệp Phúc Âm đến cho con người nam nữ ngày nay. Để đạt được mục đích này, Các Vị Nghị Phụ của Công Đồng, đáp lời kêu gọi của Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII, đã thực hiện việc cứu xét tới những dấu chỉ thời đại và dẫn giải chúng theo chiều hướng Phúc Âm, để cống hiến cho các thế hệ mới khả năng đáp ứng một cách thích đáng với những vấn nạn thường hằng về đời sống này cũng như đời sống mai hậu và về những mối liên hệ chính đáng về xã hội (x Gaudium et Spes, 4).

 

Một trong những dấu hiệu khả tri của thời đại ngày nay chắc chắc là vấn đề di dân, một hiện tượng trong thế kỷ vừa chấm dứt có thể nói được là đã có những đặc tính về cơ cấu tổ chức, trở thành một yếu tố quan trọng của thị trường lao công khắp thế giới, một trong những kết quả xuất phát từ động lực mãnh liệt của việc toàn cầu hóa. Bình thường có những yếu tố khác nhau góp phần vào “dấu chỉ thời đại” này. Chúng bao gồm việc di dân cả trong nước lẫn quốc tế, những cuộc di dân bị bắt buộc và tự nguyện, những cuộc di dân hợp lệ và bất hợp lệ, những cuộc di dân gây ra bởi việc buôn người. Cũng không thể bỏ qua loại sinh viên hải ngoại, với con số gia tăng hằng năm trên thế giới.

 

Đối với những ai di dân về vấn đề kinh tế, một sự kiện gần đây đáng chú ý đó là việc gia tăng con số nữ giới. Trong quá khứ thường chỉ có nam giới mới di dân, cho dù bao giờ cũng có nữ giới, thế nhưng những người nữ ấy di dân đặc biệt là để đi theo chồng mình hay cha mình hoặc sống với chồng với cha ở bất cứ nơi nào những người này sống.

 

Ngày nay, mặc nhiều nhiều trường hợp có tính cách này vẫn còn xẩy ra, việc di dân nữ giới càng ngày càng khó khuynh hướng tự bản thân họ. Nữ giới một mình vượt biên giới bản xứ để đi tìm kiếm việc làm ở xứ sở khác. Thật vậy, thường xẩy ra là thành phần nữ giới di dân trở nên nguồn lợi tức chính yếu cho gia đình của họ. Đó là sự kiện mà sự hiện diện của nữ giới đặc biệt trở thành thịnh hành ở những lãnh vực có mức lương thấp. Bởi thế mà nếu thành phần di dân lao động đặc biệt bị tổn hại thì trường hợp nữ giới lại càng bị tổn hại hơn nữa.

 

Những cơ hội làm việc thông dụng nhất đối với nữ giới, ngoài việc làm nội trợ, còn là việc giúp đỡ người già, chăm sóc kẻ liệt và làm việc ở các khách sạn. Ở cả những lãnh vực này đi nữa Kitô hữu cũng được kêu gọi để dấn thân bảo đảm việc đối xử chính đáng giành cho nữ giới di dân vì lòng tôn trọng nữ tính của họ theo quyền bình đẳng được nhìn nhận của họ.

 

Về vấn đề này, cần phải đề cập tới việc buôn người – nhất là nữ giới – là những gì đang triển nở khi họ bị hạn hẹp về cơ hội cải tiến mức sống của họ hay ngay cả để sống còn của họ. Thành phần buôn người nhơ dó dễ dàng cống hiến “dịch vụ” của mình cho các nạn nhân, những người thường không ngờ vực gì về những điều đang đợi chờ họ. Ở một số trường hợp, có những người nữ và em gái bị khai thác hầu như là thành phần nô lệ trong việc làm của họ, và thường lọt vào cả kỹ nghệ tình dục nữa. Cho dù ở đây tôi không thể khảo sát kỹ lưỡng việc phân tách về các hậu quả của khía cạnh di dân này đi nữa, tôi cũng mượn lời của Đức Gioan Phaolô II để lên án “thứ văn hóa khoái lạc và thương mại thịnh hành làm nẩy nở việc khai thác tính dục ấy” Thư Gửi Nữ Giới, 29/6/1995, khoản 5). Kitô hữu không thể nào rút lui khỏi toàn bộ chương trình cứu chuộc và giải phóng được nêu lên đây.

 

Nói đến những loại di dân khác – như thành phần tìm ẩn trú và tị nạn – tôi muốn nhấn mạnh đến khuynh hướng dừng lại ở vấn đề thành phần này đến mà không lưu ý tới những lý do tại sao họ đã rời bỏ quê cha đất mẹ của họ. Giáo Hội thấy cả thế giới khổ đau và bạo lực này qua con mắt của Chúa Giêsu, Đấng đã động lòng thương khi thấy đám đông lang thang như chiên vô chủ (x Mt 9:36). Hy vọng, can đảm, yêu thương và “tính cách sáng tạo của đức ái” ("Novo Millennio Ineunte," No. 50) cần phải là những gì làm phấn khởi những nỗ lực cần thiết của con người và của Kitô hữu trong việc giúp đỡ những người anh chị em đau khổ của mình. Các Giáo Hội bản xứ của họ bày tỏ mối quan tâm của mình bằng việc gửi các tác nhân mục vụ có cùng ngôn ngữ và văn hóa đến với họ, bằng cuộc trao đổi đức ái với Giáo Hội riêng là nơi đón tiếp họ.

 

Theo chiều hướng “những dấu chỉ thời đại” của ngày hôm nay, cần phải đặc biệt chú trọng tới hiện tượng thành phần sinh viên ngoại quốc. Ngoài những yếu tố khác, con số sinh viên ngoại quốc đang gia tăng vì những chương trình trao đổi hải ngoại giữa các đại học đường, nhất là ở Âu Châu, kéo theo những vấn đề về mục vụ khiến Giáo Hội không thể nào làm ngơ. Điều này đặc biệt đúng nơi trường hợp những sinh viên đến từ các quốc gia đang tiến, những sinh viên mà kinh nghiệm đại học có thể trở thành một cơ hội đặc biệt cho việc thăng tiến tâm linh của họ.

 

Để kêu cầu ơn trợ giúp của Thiên Chúa cho những ai, được thôi thúc bởi long mong ước muốn góp phần vào việc cổ võ một tương lai công lý và hòa bình trên thế giới, vận dụng nghị lực của mình cho ngành chăm sóc mục vụ để phục vụ việc chuyển nơi sinh sống của con người, tôi ban cho tất cả mọi người Phép Lành Tòa Thánh đặc biệt như dấu hiệu của lòng tôi cảm mến.

 

Tại Vatican ngày 18/10/2005

 

Giáo Hoàng Biển Đức XVI


 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 28/10/2005

 

 

TOP

 

 

   Tòa Thánh Vatican tại Liên Hiệp Quốc về Vấn Đề “Nữ Giới 2000: Sự Bình Đẳng Giống Tính, Phát Triển và Hòa Bình trong Thế Kỷ 21

 

Sau đây là diễn từ của ĐTGM Celestino Migliore, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc, hôm Thứ Sáu 14/10/2005, ngỏ cùng Tiểu Ban Đệ Tam của Khóa Họp Thứ 60 của Tổng Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Vị đại diện Tòa Thánh này nói về khoản nghị sự thứ 65: “Việc Áp Dụng Thánh Quả của Hội Nghị Thế Giới Lần 4 về Nữ Giới và về Phiên Họp Đặc Biệt của Tổng Hội Đồng mang Tựa Đề “Nữ Giới 2000: Sự Bình Đẳng Giống Tính, Phát Triển và Hòa Bình trong Thế Kỷ 21”, nguyên văn như sau:

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

Vai trò đại biểu của Tòa Thánh tôi đây tiếp tục chú trọng tới tiến trình kiểm điểm về Bản Tuyên Ngôn Bắc Kinh và Diễn Đàn Hoạt Động, cũng như các Văn Kiện Đúc Kết sau đó. Cho dù có một số phát triển tích cực nơi thân phận của nữ giới trên thế giới hôm nay, tính cách tổn thương vẫn còn liên tục xẩy ra nơi đời sống của nữ giới.

 

Tình trạng bạo lực phạm đến nữ giới dưới mọi hình thức, bao gồm cả việc bạo lực tại gia và những việc thực hành tai hại theo truyền thống, là một vi phạm trầm trọng tới phẩm giá của nữ giới và quyền lợi của con người. Ở một số quốc gia, nạn phá thai và sát nhi nữ giới vẫn đang tiếp tục xẩy ra. Việc vi phạm đến nữ giới thường xuất phát từ việc coi nữ giới, không phải là một con người có quyền được bình đẳng với người khác mà như là một đối tượng cần phải được khai thác. Do đó mới gia tăng nạn buôn bán nữ giới và nhi nữ cùng những hình thức mãi dâm khác nhau. 

 

Tất cả mọi hình thức bạo lực vi phạm tới nữ giới đều đáng bị lên án gắt gao, và về phần mình, Tòa Thánh tìm cách hợp tác với tất cả những ai thiện chí trong việc coi trọng các thứ qui chế về xã hội nhằm loại trừ những căn nguyên gây ra những thứ bạo lực này. Chẳng hạn, vào tháng Sáu năm nay, Hội Đồng Tòa Thánh về Di Dân và Thành Phần Lưu Động đã tổ chức một Cuộc Họp Quốc Tế về Việc Chăm Sóc Mục Vụ cho Việc Giải Phóng Nữ Giới Bụi Đời.

 

Bất cứ sách lược này nhắm mục đích cải tiến đời sống nữ giới cần phải đặc biệt chú trọng tới thành phần nữ giới và nữ nhi đang phải chịu sống trong tình trạng như thế. Vì tiến trình này không phải là chuyện dễ, cần phải làm sao để cho họ có thể phục hồi lại được niềm tự tin, lấy lại được những mối liên hệ tin tưởng, và tái ý thức giá trị, phẩm vị và sự cao quí của họ.

 

Theo thống kê mới đây của Tổ Chức Lao Động Thế Giới ILO (International Labor Organization) thì nữ giới chiếm 60% trong tổng số 550 triệu thành phần nghèo khổ làm việc trên thế giới. Những người nữ này không kiếm đủ lợi tức để thậm chí nâng họ cùng gia đình họ lên khỏi cảnh nghèo túng hay chỉ kiếm được 1 Mỹ kim duy nhất mỗi ngày. Tình cảnh bần cùng là những gì ngăn trở nữ giới có được những nhu cầu căn bản của họ, như dưỡng chất, vệ sinh, được chăm sóc sức khỏe căn bản và được học hành tối thiểu, một tình cảnh tiếp tục làm cho các xã hội bị hụt hẫng đi việc đóng góp dồi dào và bất khả thay thế mà chỉ có thể thực hiện bởi nữ giới thôi.

 

Để lật ngược tiến trình nữ giới hóa bần cùng, vai trò đại biểu tôi đây tin rằng cần phải chú trọng tới việc gia tăng phương tiện cho nữ giới cũng như việc kiểm soát các nguồn sản xuất cùng vốn liếng. Một số tổ chức Công Giáo đang dấn thân thực hiện các chương trình tiểu uy tín cho nữ giới nhằm mục đích tăng thêm quyền lực cho họ bằng việc hình thành các dự án tiểu uy tín tự hành sự, ở những nơi như Cao Miên, Bosnia-Herzegovina, Mỹ Châu Latinh và Caribbean.

 

Một khi được tăng thêm quyền thế, nữ giới sẽ đóng một vai trò trong việc phát triển và phúc hạnh của gia đình của họ, cộng động của họ và xã hội của họ. Tất cả mọi phần tử của xã hội đều có trách nhiệm trong việc phát động việc gia tăng quyền lực này cho họ.

 

Nạn mù chữ, đặc biệt nơi nữ giới ở các vùng thôn quê, là một trở ngại rõ ràng cho việc phát triển cũng như cho việc đạt chiếm những quyền lợi căn bản của nữ giới. Nhờ sự giúp đỡ của người khác, hết mọi người nữ đầu có quyền được hưởng hết cỡ quyền năng, tài năng và khả năng của họ, vì như chúng ta đọc thấy trong Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền, “hết mọi người có quyền học hành”. Càng ngày chúng ta càng thấy sự kiện là việc đầu tư vào vấn đề giáo dục các em nữ nhi là cái then chốt cho việc hoàn toàn thăng tiến nữ giới vậy.

 

Vai trò đại biểu của Tòa Thánh tôi đây nhận thấy nhu cầu cần phải giải quyết cấp thời những nhu cầu chăm sóc sức khỏe đặc biệt của nữ giới. Chúng ta biết rằng nhiều người nữ ngày nay vẫn chưa có được phương tiện hưởng thậm chí việc chăm sóc sức khỏe tối thiểu nhất. Tòa Thánh tiếp tục tranh đấu cho có được một giải pháp toàn diện cho vấn đề sức khỏe của nữ giới, một giải pháp không chỉ chú trọng đến một khía cạnh nào của họ mà đến nhu cầu chăm sóc sức khỏe tổng quan và toàn diện. Một vấn đề quan tâm hệ trọng đó là đặc biệt nữ giới đang bị tổn hại bởi những hậu quả thảm thương của các vấn đề sức khỏe và dịch tễ trên thế giới, như Vi Khuẩn hay Hội Chứng Liệt Kháng và chứng sốt rét, cũng như của tình trạng thiếu thốn nước an toàn và vệ sinh. Ngoài ra, nữ giới có quyền được hưởng tiêu chuẩn cao nhất của vấn đề chăm sóc sức khỏe trong thời kỳ thai nghén, và có quyền sinh con cái ở một hoàn cảnh sạch sẽ, an toàn, với sự hỗ trợ chuyên nghiệp thích đáng.

 

Hiển nhiên là còn nhiều việc cần phải làm để hoàn toàn thăng tiến nữ giới trong thế giới ngày nay. Hy vọng rằng LHQ sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc biến đổi những ước vọng hợp lý của họ.

 

Cám ơn ông Chủ Tịch

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 18/10/2005 

 TOP

? Loài người nếu chỉ có một cha mẹ nguyên tổ duy nhất lại trở thành nhiều chủng tộc khác nhau?

 

Có một thiếu niên gửi điện thư hôm 26/10/2005 hỏi tôi một vấn đề về sự kiện tại sao loài người nếu chỉ có cùng một cha mẹ nguyên tổ duy nhất lại trở thành nhiều chủng tộc khác nhau. Nguyên văn câu hỏi của em bằng tiếng Anh và đã được tôi trả lời bằng tiếng Việt là tiếng em cũng hiểu rõ, như sau:

 

Vấn: I had this question for a very long time already but it's more of a science question than religion but it does relate back to Adam and Eve. My question is if Adam and Eve were the first 2 people on earth, shouldn't we all have the same ethnicity? How is it that we've become so diverse in this world (black, white, asian, etc...) Different eye colors?? and so on...

 

Đáp: Theo truyền khẩu từ những suy diễn Thánh Kinh thì loài người có 3 mầu da chính, đó là trắng, đen và vàng, căn cứ vào ba người con của ông Noe, nói đúng hơn vào 3 thái độ của 3 người con này đối với cha mình là Noe. Chủng tộc da đen là giòng dõi của Ham, người đã cười cha khi nhìn thấy cha nằm trần truồng trong lều vì say rượu; chủng tộc da trắng là giòng dõi của Japheth, người con được cha chúc phúc nhiều nhất; và chủng tộc da vàng là giòng dõi của Shem, người đã cùng Japheth đi giật lùi đến che đậy chỗ kín cho cha mình (x Gen 9:18-27). Theo lịch sử cho thấy, chủng tộc da đen chậm tiến nhất và, còn bị làm nô lệ nữa, đúng như lời chúc dữ của Noe (x Gen 9:25).

 

Tuy nhiên, theo giáo lý của Kitô giáo thì nếu loài người (tức nếu Adong và Evà) không phạm tội (nguyên tội) thì loài người không phải chết và không phải chịu khổ đau, nghĩa là thân xác con người luôn ở trong tình trạng nguyên vẹn và tốt lành, không bị thiên nhiên chi phối. Nhưng vì nguyên tội, bản tính (gồm cả hồn lẫn xác) của con người đã bị băng hoại (corrupt) và yếu kém (defect), bị thiên nhiên chi phối (đến đổ mồ hôi mới có của ăn, trái đất thì sinh gai góc – x Gen 3:17-19). Chính vì thế thân xác của con người mới thay đổi theo thời gian (weather/climate) và không gian (location/environment).

 

Căn cứ vào Thánh Kinh Cựu Ước thì con người xuất phát từ vùng Trung Đông bây giờ, rồi phân tán đi khắp địa cầu, nhất là từ sau biến cố đại hồng thủy và  bất thành xây Tháp Babel tránh lụt (x Gen 11:1-9). Thân xác của họ chẳng những bị thiên nhiên chi phối theo không gian và thời gian, mà còn bị cả nhân sinh ảnh hưởng nữa, chẳng hạn vấn đề lai giống giữa các mầu da chủng tộc, từ các cuộc tình duyên của con người.

 

Kinh nghiệm di dân còn cho chúng ta thấy con cái Việt Nam sinh ở bên Mỹ hay từ  Việt Nam sang Mỹ to con hơn ở bên Việt Nam, lớn khỏe mập mạnh hơn bố mẹ của chúng. Đó cũng là lý do ở Việt Nam không có bệnh này tật kia, nhưng sang Hoa Kỳ thân xác của người Việt Nam lại có những thứ bệnh địa phương.

 

Kinh nghiệm địa dư nhân chủng xã hội học trên thế  giới cũng cho thấy, thường dân cư ở miền nam trái đất này nóng tính, nghèo nàn và đen/vàng, (như ở các vùng Phi Châu, Nam Mỹ Châu và Nam Á Châu), còn dân cư ở miền bắc địa cầu thì điềm tính, giầu có và trắng trẻo (như ở các vùng Âu Châu, Bắc Mỹ Châu, Bắc Á Châu – Nga sô chẳng hạn).

 

Tóm lại, bởi nguyên tội, và bởi bản tính của con người đã bị hư hoại, mà nếu nơi tâm hồn con người có những tính mê nết xấu thế nào, thì thân xác con người cũng có những mầm mống bị thiên nhiên chi phối như vậy, và nó sẽ đổi thay theo thời gian và không gian.

 

Cuối cùng thân xác của con người sẽ bị chết đi. Thế nhưng, nó sẽ được phục sinh, được biến đổi khi Chúa Kitô đến lần thứ hai. Người lành sẽ sống lại với thân xác hiển vinh như thân xác phục sinh của Chúa Kitô, một thân xác thiêng liêng sáng láng giống như các thần trời (x Mt 22:30; Rm 8:11; 1Cor 15:23; Pil 3:21), và kẻ dữ cũng sẽ sống lại nhưng với thân xác phản ảnh linh hồn tăm tối hư hoại của họ, một thân xác giống như một cái gương đục, vì không có Thần Linh sự sống thấu suốt mọi sự (x 1Cor 2:10) của Thiên Chúa chiếm ngự và ở cùng.

 

Thật vậy, Thánh Thần, Đấng canh tân bộ mặt trái đất (x Ps 104:30), thực sự đang biến đổi thân xác của con người ngay trong giòng lịch sử, ngay trước ngày cùng tháng tận nữa. Ở chỗ, với quyền lực phục sinh của Chúa Kitô (x Mt 28:18), được thông ban qua các Bí Tích Thánh, nhất là  Bí Tích Thánh Thể, Ngài quả thực đã và đang làm cho thân xác của bao vị thánh, điển hình nhất là  Mẹ  Chân Phước Têrêsa Calcutta, hay Đức Gioan Phaolô II, những xác thân tự bản chất vốn thấp hèn và hướng hạ, cũng như mọi phàm nhân, bị chi phối bởi nguyên tội với đầy những tính hư nết xấu và đam mê nhục dục tham lam vị kỷ, trở thành dụng cụ, thành phương tiện hành thiện, bác ái vị tha, hy sinh phục vụ, để xây dựng nền văn hóa sự sống và văn minh yêu thương cho nhân loại.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ