GIÁO HỘI HIỆN THẾ

Tháng 1/2005

Ý Chỉ Ðức Thánh Cha

 

Ý Chung: “Xin cho tất cả những ai đang hoạt động tại Trung Đông biết dấn thân hơn nữa trong việc xây dựng hòa bình”.

 

Ý Truyền Giáo: “Xin cho những nơi truyền giáo được tăng thêm những vị thừa sai thánh đức và biết quảng đại dấn thân loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô cho tất cả mọi người”.  

 

__________________

 NGÀY 19 THỨ TƯ

 

Đại Diện Phái Đoàn Do Thái ngỏ lời cảm tạ ĐTC GPII về giáo triều hòa giải của ngài

ĐTC GPII, trong buổi tiếp phái đoàn Do Thái 160 vị tôn sư và đại diện khắp thế giới này, đã nhắc nhở rằng:

“Năm nay chúng ta sẽ cử hành đệ tứ thập chu niên Tuyên Ngôn ‘Nostra aetate’ của Công Đồng Chung Vaticanô II, một tuyên ngôn đã đóng góp quan trọng vào việc củng cố vấn đề đối thoại Do Thái và Công Giáo. Chớ gì đây là dịp để lập lại việc quyết tâm gia tăng hiểu biết và cộng tác việc xây dựng một thế giới được đặt nền tảng vững chắc hơn trên sự tôn trọng hình ảnh thần linh nơi hết mọi con người”.

Sau đây là lời ngỏ cùng ĐTC của ông Gary Krupp, vị chủ tịch kiêm sáng lập Tổ Chức Mở Đường, thay mặt phái đoàn tôn sư và đại diện Do Thái:

“Thưa Ngài Giáo Hoàng:

“Chúng tôi là nhóm người đại diện một phần tiêu biểu cho Do Thái giáo, thành phần về đây mang theo các phúc lộc của cả hằng triệu người thuộc đức tin chúng tôi để cảm tạ ngài.

“Vừa lên ngai tòa Thánh Phêrô, ngài đã thực hiện chuyến đi tới Auschwitz để tôn kính các nạn nhân của Cuộc Tàn Sát. Ngài đã bênh vực nhân dân Do Thái trong mọi hoàn cảnh, như là một vị linh mục ở Balan cũng như trong giáo triều 26 năm của mình. Ngài đã lên án việc bài Do Thái Chủng như là một “tội phạm đến Thiên Chúa và nhân loại”. Chiều hướng hòa giải này đã là nền tảng cho vai trò làm giáo hoàng của ngài cũng như cho mối liên hệ của vai trò này với nhân dân Do Thái.

“Vào ngày 13/4/1986, ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên kể từ Thánh Phêrô đã đến viếng thăm một hội đường Do Thái. Trong dịp trình ủy nhiệm thư cho ngài vào tháng 6/2003, Vị Lãnh Sự Do Thái là Obed Ben-Hur đã bày tỏ cử chỉ hết sức tốt đẹp này khi nói: ‘Vào ngày hôm đó ngài đã gánh trên vai mình một Giáo Hội 2 ngăn năm, từ hồi hội đường Capernaum ở thế kỷ thứ nhất, nơi Chúa Giêsu thường nguyện cầu, nhờ đó ngài đã khép lại một giai đoạn lịch sử’.

“Ngài đã thôi thúc Tòa Thánh hãy bắt đầu tiến trình bình thường hóa liên hệ ngoại giao với Quốc Gia Do Thái vào năm 1992, với quê hương thánh kinh thân yêu của nhân dân Do Thái, nói lên việc nhìn nhận sự hiện hữu của Eretz Ysrael hôm qua, hôm nay và vĩnh viễn.

“Việc ngài hành hương đến Do Thái và Thánh Địa vào ngày 21/3/2000 đã là những gì bất tử trong tâm trí của nhân dân Do Thái khắp thế giới, khi ngài đặt lời nguyện cầu xin tha thứ của mình vào Bức Tường Phía Tây.

“Những lời nói long trọng của ngài trong cuộc ngài viếng thăm Sảnh Đường Tưởng Nhớ Yad Vashem đã khiến chúng tôi hết sức cảm động và tác động tâm can của chúng tôi.

“Không thể nào diễn tả hết cái âm cảm được những việc làm tiêu biểu này vang động nơi người Do Thái khắp thế giới. Thưa Đức Giáo Hoàng, những hành động hòa giải này thực sự là mấu chốt cho giáo triều của ngài, như ngài cũng đã cố gắng để sửa chữa lại những rạn nứt cổ thời nơi tất cả mọi tôn giáo trên thế giới.

“Huấn Giáo Do Thái về Các Vị Giáo Phụ đã tuyệt vời diễn tả thành lời mối tình yêu thương ngài đã bày tỏ với toàn thể nhân loại. Tôn sư Hillel nói: ‘Hãy là một trong thành phần môn đệ của Aaron, bằng cách làm một con người yêu chuộng hòa bình, một con người theo đuổi hòa bình, một con người yêu thương toàn thể nhân loại và mang nhân loại gần lại với tôn giáo’.

“Vì những hành động yêu thương của ngài đối với toàn thể nhân loại cũng như việc ngài hăng say theo đuổi hòa bình và hòa giải tất cả mọi niềm tin, Đức Giáo Hoàng thực sự là hiện thân của những lý tưởng và tinh thần của Aaron, vị thượng tế của dân Do Thái ngày xưa.

“Để kết thúc, ngài đã nói đến chúng tôi là con cái của Abraham, như những người anh thân yêu của ngài. Niềm ước mong đầy nguyện cầu của tôi là Do Thái, Kitô Giáo và Hồi Giáo, ba con cái của Abraham, sớm thắt kết lại với nhau nên một lý tưởng và tiếng nói chung để bênh vực tất nhân loại chống lại thành phần làm ô danh Chúa Trời bằng những hành động bạo lực nhân danh Ngài.

“Thưa Ngài Giáo Hoàng, xin cám ơn Ngài, tạ ơn Ngài, tri ân Ngài. Bình an, Bình an, Bình an”.

Để kết thúc, ba vị tôn sư đã chúc lành cho ĐTC và tất cả đã xướng lên 1 bài hát.


 

VẤN ĐỀ CỨU MA TRỪ QUỈ (tiếp)

Qua những câu truyện “cứu ma” của linh mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn ở Việt Nam và cuộc phỏng vấn về việc “trừ quỉ” của linh mục Pedro Mendoza Pantoja ở Mễ Tây Cơ trên đây, người viết xin được chia sẻ suy tư của mình như sau.

 

Trước hết, bởi vướng mắc nguyên tội, con người còn được coi như là thành phần bị mù từ lúc mới sinh, chẳng biết Chúa là ai (xem Gioan 9:1,36); thành phần bất toại, không tự giải cứu đươc mình, không làm được những điều lành mong ước, trái lại, làm điều dữ ngược với ý muốn của mình (xem Rôma 7:19); thành phần phong cùi ghẻ lở xấu xa, bị tội lỗi làm méo mó hình dạng con người của mình được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27) v.v. Đó là lý do, Chúa Kitô đã đến để cứu độ, trước hết bằng quyền năng chữa lành của Người, đúng như tiên tri Isaia đã nói về Người (xem Isaia 61:1), cũng như chính Người đã xác nhận về Người với các môn đệ của tiền hô Gioan Tẩy Giả (xem Luca 7:22).

 

Ngoài ra, cũng bởi nguyên tội, tức bẩm sinh mang mầm mống tội lỗi và sự chết là hậu quả của nguyên tội trong bản thân khi được sinh vào trần gian, mà con người, ở một nghĩa nào đó, ai cũng bị “quỉ ám”, tức bị tiêm nhiễm nọc độc của Satan, có sẵn tử chất Satan nơi mình, nên tự nhiên họ có khuynh hướng “chuộng tối tăm hơn ánh sáng” (Gioan 3:19), thực sự bị Satan chi phối và điều khiển theo ý hắn (xem Gioan 8:44). Đó là lý do mà một trong những việc cho thấy Chúa Kitô đến để thiết lập vương quốc cứu độ của Người, đó là việc Người khu trừ ma quỉ là tay thống lãnh thế gian (x Mathêu 4:8-9; Gioan 16:11; Do Thái 2:14), việc “Con Thiên Chúa tỏ mình ra để tiêu diệt các việc làm của ma quỉ” (1Gioan 3:8; xem Do Thái 2:14).

 

Theo nguyên tắc ai cũng bị quỉ ám (không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ) về phương diện tâm linh như thế, mà không lạ gì có những trường hợp đi đến chỗ trầm trọng đến nỗi con người còn bị quỉ ám cả ở trên thân xác nữa, như những trường hợp được các Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại, những đoạn cũng được linh mục Sơn trưng dẫn trong bài viết của mình: “Ở Capharnaum (x. Mc 1,21-28; Lc 4, 31-37), ở Gađara (x Mt 8, 28-34; Mc 5, 1-20), ở Tyrô (x Mc 7, 24-30)”.

 

Nếu con người ta có thể trở thành tay sai cho ma quỉ, qua những hoạt động đầy hận thù ghen ghét cố tình quấy phá Giáo Hội, bằng những chống đối quyền bính và gây chia rẽ Dân Chúa, theo tinh thần kiêu căng bất phục tùng phá đám của Satan, thì con người cũng có thể là tác nhân của Satan và cho Satan, qua những thứ bùa ngải, các việc yếm độc, tác hại con người ta, nhất là những người chẳng những đã yếu đức tin lại còn yếu bóng vía, dễ mê tín dị đoan nữa. Thế nhưng, như những con rắn biến từ gậy của các phù thủy Ai Cập chẳng những không thể hại con rắn biến từ gậy của Aaron mà còn bị nuốt đi hết nữa (x Xuất Hành 7:10-12), cũng thế, bùa phép của thày Chăm ở Phan Rang trừ tà cho cô Quỳnh cũng không thể tống ông Sang ra khỏi cô này, trái lại, còn bị việc trừ quỉ của cha Sơn "qua mặt".

 

Tuy nhiên, thái độ thiện chí của ông chẳng những không ghen tức với cha, trái lại, còn tỏ ra muốn cùng cha Sơn cứu đời, chứng tỏ cho thấy, có một số thày phép có thể bị Satan lạm dụng để mở mang nước của hắn. Ở chỗ, có những lúc hắn giúp cho họ trừ được quỉ con, với thâm ý "bỏ con tép bắt con tôm", mưu lợi cho hắn, chứ không gây chia rẽ hay phá tán vương quốc của hắn theo nguyên tắc Chúa Giêsu đã nêu lên (xem Mathêu 12:24-26). Trong trường hợp cô Quỳnh, nếu ông thày Chăm này thực sự trừ được ông Sang, thì thử hỏi gia đình Công giáo này đang bê bối sẽ hoán cải trở về với Chúa như đoạn cuối câu truyện cho thấy hay chăng, hoặc lại càng thêm mê tín dị đoan mà bỏ Chúa hơn.

 

Nếu Satan có tác nhân tác hại con người ta bằng bùa ngải thì Chúa Kitô cũng có các thừa tác viên thực hiện các phép trừ tà để giải cứu con người. Nếu các thứ bùa ngải được thành phần phù thủy sử dụng để gây tai hại cách riêng phần xác của con người bị yểm độc thế nào, thì nước phép, Thánh Giá, Sách Thánh, tượng ảnh hay tràng hạt v.v. cũng có thể được sử dụng để trừ tà. Nếu Satan đã ngầm giúp các tác nhân của hắn làm điều bậy bằng bùa phép thì thiên thần cũng đã giúp con người làm điều thiện lợi, điển hình là Tổng Thần Raphen đã giúp cho Tôbia con chẳng những có phương thuốc mật cá để chữa lành mắt cho Tôbia cha (xem Tôbia 6:9, 11:10-13), mà còn cả việc sử dụng phương pháp nướng tim cá và gan cá để xua đuổi ảnh hưởng của ma quỉ nơi con người bị hắn quấy nhiễu như trường hợp người vợ mới cưới của Tôbia con (xem Tobia 6:8, 8:2-3).

 

Trường hợp linh hồn con người, sau khi lìa khỏi thân xác trong giờ lâm tử, nếu không lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục thì vẫn còn ở trong tình trạng chưa được hoàn toàn hoan hưởng thánh nhan Thiên Chúa, tức là vẫn còn ở trong tình trạng cần phải được giải cứu, cho đến khi ơn cứu chuộc của Chúa Kitô được hoàn toàn nên trọn nơi họ. Như thế, đối với con người con sống trên đời thì thành phần đã chết không còn ở trong không gian, nhất là không còn thuộc về thời gian nữa, nhưng đối với thành phần trong luyện ngục, chưa hoàn toàn được hưởng vinh phúc trường sinh này, thì một cách nào đó, họ vẫn còn ở trong “thời gian”, không phải thời gian lập công như khi họ còn sống trên thế gian này, mà là thời gian đền tội và chờ đợi, một thời gian tâm lý của những linh hồn chưa hoàn toàn đạt đến cùng đích tối hậu của mình là Thiên Chúa Toàn Thiện Toàn Ái, nên cảm thấy quặn quại khổ đau bởi chính lòng khao khát đầy mến yêu có sức thanh tẩy ấy (xem Luca 7:47; 1Phêrô 4:8).

 

Thế nhưng, sở dĩ những linh hồn trong luyện ngục có được một khát khao có sức thanh tẩy tội lỗi này là vì họ đã được hưởng Thần Linh Sự Sống của Thiên Chúa, dù chưa hoàn toàn, một Thần Linh thấu triệt Thiên Chúa (xem 1Corintô 2:10). Hay nói cách khác, vinh quang của Thiên Chúa đã chiếu vào các linh hồn trong luyện ngục bởi Thần Linh tái sinh của Ngài (xem Gioan 3:5). Bởi thế, có thể nói, những linh hồn đang ở trong luyện ngục, vì đã ra khỏi thân xác hữu hình và hữu hạn là những gì khiến linh hồn họ chỉ có thể thấy Ngài "như qua gương" chứ không thể “diện đối diện” (1Corintô 13:12) chiêm ngưỡng “Thiên Chúa vô hình” (Col 1:15), thì dù họ có đang ở trong thời gian đền tội và đợi chờ, song bởi lòng khao khát đầy yêu mến do Thần Linh làm vọt lên trong họ (xem Gioan 4:14, 7:38-39) bấy giờ, họ thật sự đã được chiêm ngưỡng dung nhan Thiên Chúa lờ mờ rồi, như trường hợp người mù chưa được Chúa Giêsu phục quang hoàn toàn, nên mới chỉ “thấy người ta qua lại như cây cối” (Marcô 8:24).

 

Vì thành phần trong luyện ngục mới được thấy Thiên Chúa “lờ mờ” như thế, mà họ cần phải chờ đợi cho tới khi Chúa Giêsu “là sự sống lại và là sự sống” (Gioan 11:25), là “ánh sáng sự sống” (Gioan 8:12) hoàn toàn chiếu tỏa trên họ, một thứ Chân Lý giải thoát họ (xem Gioan 8:32). Theo dự án cứu độ của mình, Thiên Chúa có nhiều cách cứu độ từng người trên trần gian này, tùy theo hoàn cảnh và trường hợp của họ thế nào, thì khi họ qua đi mà chưa được hoàn toàn giải thoát, Ngài cũng có cách để tiếp tục cứu họ như thế. Chẳng hạn Ngài có thể cho chính linh hồn đương sự “hiện về” (xem Luca 16:30-31) để xin người còn sống bồi thường cho họ về những gì liên quan đến phép công bằng, hay như trường hợp của ông Sang trong câu chuyện được cha Sơn kể lại.

 

Trong trường hợp của ông Sang, Thiên Chúa chẳng những muốn cứu cả người đã chết là ông Sang mà còn cả người đang sống là gia đình nạn nhân cô Quỳnh cùng ông thày Chăm ở Phan Rang nữa. Cô Quỳnh là vật hy sinh cho việc Chúa làm. Vì ông Sang đã chết không thể tự cứu mình nữa, nên phải nhờ đến đức tin của những người còn sống. Bởi thế, một khi nạn nhân bị ông ám yếu đức tin, ông không thể ra khỏi nạn nhân, cho đến khi đức tin của nạn nhân phục hồi ông mới được giải cứu, và nhờ ông cả nạn nhân lẫn gia đình nạn nhân sống tốt lành hơn. Việc nạn nhân là cô Quỳnh đây được tăng thêm đức tin vì ông Sang (ngoài ý muốn của cô song trong ý nhiệm mầu Thiên Chúa) và nhờ ông Sang đây cũng chẳng khác gì như cô được tái sinh trong đức tin, như cô lãnh nhận phép rửa cho ông Sang vậy.

 

Đúng thế, chính nhờ đức tin của chị mình là Matta: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Gioan 11:27) mà Lazarô đã bị chôn táng 4 hôm trong mồ đến độ bắt đầu xông mùi tan rữa (xem Gioan 11:39), vẫn có thể cải tử hoàn sinh nghe được tiếng Chúa để bước ra khỏi mồ (xem Gioan 11:43-44). Đó là lý do, vị trừ quỉ Công giáo, một là chính Đức Giám Mục, hai là vị linh mục được ngài chỉ định thay ngài làm việc này, chẳng những có quyền năng làm việc trừ quỉ, nhưng nếu yếu kém đức tin, không sống đời nguyện cầu và chay tịnh (xem Mathêu 17:16-21), thì cũng chẳng trừ được quỉ như có lần đã xẩy ra cho các tông đồ ngày xưa. Một giám mục bất tuân phục Đức Thánh Cha làm sao có thể khu trừ "ngụy" thần, hay một vị linh mục trừ qủi mà lại ham sắc mê của làm sao có thể trừ được thần "ô uế"!?!

 Đaminh Maria Cao Tn Tĩnh, BVL

(còn tiếp)

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ