GIÁO HỘI HIỆN THẾ
Tháng 4/2005
Ý Chỉ Ðức Thánh Cha
Ý Chung: “Xin cho Kitô hữu sống các ngày Chúa Nhật của mình thực sự hơn như là những ngày của Chúa được giành đặc biệt cho Thiên Chúa và cho tha nhân”.
Ý Truyền Giáo: “Xin cho hết mọi cộng đồng Kitô hữu có được một nhiệt tình nên thánh để thắp lên nhiều ơn gọi truyền giáo”.
__________________
NGÀY 16 THỨ BẢY, NGÀY 8 TUẦN IX CẦU CHO ĐTC GPII |
Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2005: “Truyền
Giáo: Tấm Bánh Được Bẻ Ra Cho Thế Gian Được Sự Sống”
Thứ Sáu 15/4/2005, Tòa Thánh đã phổ biến sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo là
ngày sẽ được cử hành vào Chúa Nhật 23/10/2005 với đề tài “Truyền Giáo: Tấm Bánh
Được Bẻ Ra Cho Thế Gian Được Sự Sống”, bản văn đề ngày 22/2/2005, Lễ Ngai Tòa
Thánh Phêrô. Sau đây là một số đoạn chính yếu tiêu biểu được trích từ sứ điệp
này.
Anh Chị Em thân mến,
1. Chúa Nhật Thế Giới
Truyền Giáo, trong năm được giành kính Thánh Thể này, giúp chúng ta hiểu hơn nữa
về ý nghĩa ‘thánh thể’ nơi đời sống của chúng ta, khi chúng ta sống lại nỗi cảm
xúc ở Căn Thượng Lầu, lúc mà vào tối áp cuộc khổ nạn của mình, Chúa Giêsu đã
hiến Mình cho thế gian: ‘Vào đêm Người bị nộp, Người đã cầm lấy bánh, và sau khi
dâng lời tạ ơn, đã bẻ ra mà nói: ‘Này là mình Thày sẽ bị nộp vì các con. Các con
hãy làm việc này mà nhớ đến Thày’ (1Cor.11:23-24).
Trong Tông Thư ‘Xin Chúa Ở Với Chúng Con’ mới đây của mình, tôi đã kêu gọi anh
chị em hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu ‘nơi việc bẻ bánh’ được hiến ban cho toàn thể
nhân loại. Theo gương của Người, chúng ta cũng được kêu gọi để hiến đời sống của
mình cho anh chị em của chúng ta, nhất là những người cần thiết nhất. Thánh Thể
mang ‘dấu hiệu của tính cách đại đồng’ và là hình ảnh tiên báo một cách bí tích
thời điểm khi mà ‘tất cả những ai có cùng một bản tính loài người được tái sinh
trong Chúa Kitô nhờ Thánh Thần cho vinh hiển của Thiên Chúa đều có thể đồng tâm
thưa rằng Lạy Cha (Sắc Lệnh Cho Muôn Dân ‘Ad Gentes’, 7). Như thế, trong khi
Thánh Thể giúp chúng ta hiểu trọn vẹn hơn nữa ý nghĩa của việc truyền giáo,
Thánh Thể còn dẫn hết mọi tín hữu, nhất là thành phần truyền giáo, trở thành
‘tấm bánh được bẻ ra cho thế gian được sự sống’.
2. Trong thời đại của chúng ta đây, xã hội loài người dường như bị bao phủ bởi
những bóng đen khi nó bị rúng động bởi những biến cố thê thảm cũng như bởi những
thiên tai khốc liệt. Tuy nhiên, như ‘vào đêm Người bị nộp’ (1Cor 11:23), ngày
nay Chúa Giêsu cũng vẫn ‘bẻ bánh’ (x Mt 26:26) cho chúng ta ở những cuộc cử hành
Thánh Thể của chúng ta và hiến mình dưới dấu hiệu yêu thương theo bí tích này
đối với loài người. Đó là lý do tại sao tôi đã nhấn mạnh rằng ‘Thánh Thể không
phải chỉ là một thể hiện thuần túy cho mối hiệp thông nơi đời sống Giáo Hội;
Thánh Thể còn là một dự án đoàn kết cho toàn thể nhân loại nữa’ (Tông Thư Xin
Chúa Ở Với Chúng Con ‘Mone Nobiscum Domine’, 27); Thánh Thể là ‘bánh bởi trời’
ban sự sống cho thế gian (x Jn 6:33) và hướng tâm can nhân loại về một niềm hy
vọng cao cả.
Hiện diện trong Thánh Thể, vị Cứu Chuộc này, vị đã thấy đoàn lũ thiếu thốn và
cảm thấy đầy xót thương ‘vì họ long đong lận đận như chiên không người chăn dắt’
(Mt 9:36), qua các thế kỷ tiếp tục cho thấy lòng thương cảm nhân loại bần cùng
và khổ đau. Chính vì danh Người, thành phần cán sự mục vụ và thừa sai đã ra đi
trên những nẻo đường chưa ai khái phá để mang ‘tấm bánh’ cứu độ này đến cho tất
cả mọi người. Họ được thôi thúc bởi nhận thức rằng, được kết hiệp với Chúa Kitô
là ‘tâm điểm của chẳng những lịch sử Giáo Hội mà còn cả lịch sử nhân loại (x Eph
1:10; Col 1:15-20)’ (cùng tông thư trên, 6), họ mới có thể đáp ứng những khát
vọng sâu xa nhất của tâm can con người. Một mình Chúa Giêsu mới có thể thỏa đáng
được cơn đói yêu thương và cái khát công lý của nhân loại; chỉ có một mình Người
mới có thể làm cho hết mọi người thông hưởng sự sống trường sinh: ‘Tôi là bánh
hằng sống bởi trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời’ (Jn 6:51). Giáo Hội,
hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, trở nên ‘tấm bánh bẻ ra’.
3. Khi Cộng Đồng giáo hội cử hành Thánh Thể, nhất là vào Chúa Nhật là Ngày của
Chúa, Giáo Hội cảm nghiệm thấy trong ánh sáng đức tin giá trị của việc gặp gỡ
Chúa Kitô Phục Sinh và càng ý thức được rằng Hy Tế Thánh Thể là “để cho nhiều
người” (Mt 26:28). Chúng ta, thành phần nuôi dưỡng mình bằng Mình và Máu của
Chúa Kitô tử giá và phục sinh, không thể giữ ‘tặng ân’ này cho chính chúng ta;
trái lại, chúng ta cần phải chia sẻ tặng ân ấy. Tình yêu say mê đối với Chúa
Kitô cần phải tiến đến chỗ can đảm loan báo Chúa Kitô; một việc loan báo mà,
bằng tử đạo, trở thành một hy hiến cao cả của yêu thương đối với Thiên Chúa cũng
như với nhân loại. Thánh Thể làm cho chúng ta trở thành những nhà truyền bá phúc
âm hóa quảng đại, tích cực dấn thân để xây dựng một thế giới công chính và huynh
đệ hơn.
Tôi thực lòng hy vọng rằng Năm Thánh Thể sẽ tác động hết mọi cộng đồng Kitô hữu
biết đáp ứng ‘bằng quan tâm huynh đệ một số nào trong nhiều hình thức nghèo khổ
trên thế giới này’ (Tông Thư Xin Chúa Ở Với Chúng Con, 28), vì ‘nhờ tình yêu
thương nhau của mình, nhất là việc chúng ta quan tâm đến những ai đang cần thiết,
chúng ta sẽ được nhận biết là thành phần môn đệ đích thực của Chúa Kitô (cf. Jn
13:35; Mt 25:31-46). Đó sẽ là tiêu chuẩn để chứng thực tính cách chân chính của
việc chúng ta cử hành Thánh Thể’ (cùng đoạn tông thư trên)”.
4. Cả cho đến ngày hôm nay, Chúa Kitô vẫn đang thôi thúc thành phần môn đệ của
Người rằng: “Các con hãy tự cho họ ăn đi” (Mt 14:16). Nhân danh Người, tất cả
các nhà truyền giáo trên khắp thế giới loan báo và làm chứng cho Phúc Âm. Qua
những nỗ lực của họ, một lần nữa những lời của Đấng Cứu Thế lại được vang lên:
‘Tôi là bánh sự sống; ai đến với Tôi sẽ không bao giờ đói; ai tin vào Tôi sẽ
không bao giờ khát” (Jn 6:35); cả họ nữa cũng trở nên ‘tấm bánh được bẻ ra’ cho
anh chị em họ, thậm chí một số đã tiến tới chỗ hy sinh mạng sống mình. Biết bao
nhiêu là những vị đã chịu tử vì đạo thừa sai trong thời đại của chúng ta đây!
Chớ gì gương sáng của các vị lôi kéo nhiều người trẻ nam nữ dấn thân vào con
đường anh hùng trung thành với Chúa Kitô! Giáo Hội cần những con người nam nữ
muốn tận hiến mình hoàn toàn cho lý tưởng Phúc Âm cao cả.
Chúa Nhật Thế Giới Truyền Giáo là một cơ hội thuận lợi để chúng ta gia tăng ý
thức của mình về nhu cầu khẩn trương trong việc tham dự vào sứ vụ truyền bá phúc
âm hóa được thực hiện bởi các cộng đồng địa phương và nhiểu tổ chức của Giáo Hội,
đặc biệt là Các Hội Truyền Giáo của Tòa Thánh và các Học Viện Truyền Giáo của
Tòa Thánh. Sứ vụ này cần phải được nâng đỡ chẳng những bằng lời cầu nguyện và hy
sinh, mà còn bằng cả những cúng hiến về vật chất nữa. Tôi xin lợi dụng dịp này
để một lần nữa nhắc nhở về việc phục vụ đáng khen được thực hiện bởi Các Hội
Truyền Giáo của Tòa Thánh, và tôi xin tất cả anh chị em hãy nâng đỡ các hội này
cách rộng lượng bằng việc hợp tác cả về thiêng liêng lẫn vật chất.
Chớ gì Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, giúp chúng ta sống lại cảm nghiệm của Căn
Thượng Lầu, nhờ đó, các Cộng Đồng giáo hội của chúng ta có thể thực sự trở nên
‘Công giáo’; đó là Các Cộng Đồng, nơi ‘linh đạo truyền giáo’ là ‘hiệp thông thân
mật với Chúa Kitô’ (Thông Điệp ‘Sứ Vụ của Đấng Cứu Thế – Redemptoris Missio’,
88), gắn bó chặt chẽ với ‘linh đạo thánh thể’ là linh đạo theo mô phạm của Mẹ
Maria, “Người Nữ Thánh Thể” (Thông Điệp Giáo Hội Sống Bởi Thánh Thể – ‘Ecclesia
de Eucharistia’, 53); là các Cộng Đồng luôn cởi mở trước tiếng của Thần Linh và
nhu cầu của nhân loại, Các Cộng Đồng là nơi những tín hữu, nhất là thành phần
thừa sai, không ngần ngại hiến mình như ‘tấm bánh được bẻ ra cho thế gian được
sự sống’.
Tôi ban Phép Lành Tòa Thánh của tôi cho tất cả mọi người!
Tại Vatican ngày 22/2/2005, Lễ Kính Ngai Tòa Thánh Phêrô
Gioan Phaolô II
Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, dịch theo VIS và Zenit cùng ngày 15/4/2005
Tổng Nghị Hồng Y 11: Vấn đề của các phân
bộ Tòa Thánh
Kết thúc Tổng Nghị Hồng Y lần thứ 11 trong giai đoạn trống ngôi giáo hoàng, vị
giám đốc văn phòng báo chí tòa thánh là Joaquín Navarro Valls đã phổ biến tin
tức như sau:
“Tổng Nghị Hồng Y lần thứ 11 này được diễn tiến ở Sảnh Đường New Synod.
“Sau khi nguyện kinh Chúa Thánh Thần, các vị hồng y giành cả buổi sáng để trao
đổi tư tưởng về các vấn đề của Giáo Hội và thế giới.
“Có 138 vị hồng y hiện diện trong lần tổng nghị này.
“Tổng Nghị đã được kết thúc bằng Kinh Lạy Nữ Vương”.
Vị Giám Đốc Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh: 20 năm phục vụ giáo triều ĐTC GPII
Hôm Thứ Ba 14/12/2004, trong cuộc triều kiến riêng với vị giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh, tiến sĩ Joaquín Navarro, cùng với nhân viên của văn phòng này, ĐTC GPII đã tỏ lời cám ơn vị giám đốc này về 20 năm phục vụ của ông.
Văn phòng này được thiết lập từ năm 1966, sau Công Đồng Chung Vaticanô II, như là một văn phòng tín liệu của Công Đồng này, một văn phòng kiêm cả Văn Phòng Tín Liệu của Tờ L’Osservatore Romano là văn phòng được thiết lập từ năm 1939.
Theo nội qui được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chuẩn nhận thì văn phòng báo chí của Tòa Thánh này “là văn phòng của Tòa Thánh có trách nhiệm phổ biến tin tức liên quan tới các hoạt động của Đức Giáo Hoàng cũng như của Tòa Thánh”.
Trong tổ chức văn phòng báo chí này còn có Dịch Vụ Tín Liệu Vatican (VIS: Vatican Information Service) được thành lập từ năm 1990. VIS cung cấp tín liệu đặc biệt cho các vị đại diện Giáo Hoàng, các đức giám mục và các cơ cấu về sinh hoạt huấn quyền và mục vụ của Đức Giáo Hoàng và Tòa Thánh.
Ông đương kim giám đốc mừng kỷ niệm 20 năm phục vụ tại văn phòng này là một phần tử tận hiến của hội Opus Dei Prelature. Ông được sinh ra ở Cartagena, Tây Ban Nha, và học ở các đại học Granada, Navarre và Barcelona, với những bằng cấp về y khoa và mổ xẻ năm 1961, phóng viên ký sự năm 1968 và khoa học truyền thông năm 1980.
Sau khi làm phó giảng sư về y khoa từ năm 1962 đến 1964, ông đã khám phá ra đam mê về ký giả của mình, và bắt đầu vào năm 1977, ông đã làm phóng viên cho tờ nhật báo ABC ở Ma Ní về Ý Quốc và vùng Địa Trung Hải. Đang khi thi hành nhiệm vụ này thì được bầu làm chủ tịch Hiệp Hội Báo Chí Hải Ngoại ở Ý Quốc.
Từ khi được ĐTC bổ nhiệm làm giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh vào năm 1984, ông đã là một phần tử của những phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh ở các cuộc hội nghị quốc tế như Cairô năm 1994, Copenhagen năm 1995, Beijing năm 1995 và Istanbul năm 1996.
Trong số những giải thưởng về nghề nghiệp, ông đã nhận được giải Opinion Leader năm 1980; giải Calabria cho ngành phóng viên hải ngoại năm 1984, và giải Nhà Truyền Thông Trong Năm 1997 do Telecom-Italia trao tặng.
Vào năm 1974, vị chủ tịch này, cùng với Giovanni Caprile, đã khơi dậy một cuộc tranh luận công khai về vấn đề tín liệu chính thức hiếm thấy có liên quan tới Thượng Hội Giám Mục Thế Giới về Vấn Đề Truyền Bá Phúc Âm Hóa. Vị điều hợp viên của Thượng Hội này là ĐHY Karol Wojtyla.
10 năm sau, vào ngày 4/12/1984, vị hồng y ấy, bấy giờ đã thành giáo hoàng, bổ nhiệm ông làm giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh.
Việc bổ nhiệm một giáo dân và là phần tử của hội Opus Dei làm giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh đã gây chấn động, nhưng đồng thời cũng không ai có thể ngờ được những thay đổi về các mối liên hệ giữa Tòa Thánh với giới phóng viên ký giả cũng như với lãnh vực truyền thông đại chúng.
Thật vậy, Đức Gioan Phaolô II đã thực hiện một cuộc cách mạng về hình ảnh của vai trò giáo hoàng cũng như của Giáo Triều Rôma trong giới truyền thông đại chúng. Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên tổ chức họp báo, thường xuyên trả lời các câu hỏi của thành phần phóng viên ký giả, và cho xuất bản một cuốn sách phỏng vấn về Ngài.
Việc chọn ông Navarro Valls làm giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh là một sự kiện trong cuộc cách mạng này. Từ ngày ông giữ vai trò này, có nhiều cuộc họp và tường trình với các ký giả hơn, và những văn kiện được phổ biến nhiều hơn. Hiện nay hơn 80% tin tức về sinh hoạt của Giáo Hội và Giáo Hoàng do văn phòng báo chí của Tòa Thánh cung cấp.
Trong một cuộc phỏng vấn với ký giả Antonio Gaspari cách đây ít lâu, vị giám đốc này cho biết: “Công việc chúng tôi đang cố gắng làm tại văn phòng báo chí của Tòa Thánh Vatican đây là chiến đấu chống lại những thành kiến là những gì có lắm lúc xẩy ra không phải do lỗi lầm của chúng tôi mà là vì cái cố chấp của một số cá nhân”.
Nhân dịp kỷ niệm 20 năm phục vụ của ông, Zenit phổ biến cuộc phỏng vấn này.
Vấn: Ông có thể cho biết về những trường hợp các mối liên hệ với thành phần phóng viên ký giả đã được đổi thay ra sao chăng?
Đáp: Có nhiều trường hợp; tôi sẽ đề cập đến một vài trường hợp đối với tôi là đáng kể. Thành phần ký giả đã có thể theo Đức Gioan Phaolô II đi khắp nơi. Vị Giáo Hoàng này thậm chí còn cho phép các máy chụp truyền hình quay cuộc ngài gặp gỡ kẻ cố sát ngài là Ali Agca ở trong nhà tù Rebibbia.
Ngài không bao giờ áp đặt việc kiểm duyệt cả, ngay cả vấn đề liên quan tới sức khỏe của ngài. Vào tháng 7/1992, trước khi biết được là có bướu, ngài được cho rằng bị ung thư, ngài đã gọi tôi mà nói: “Tôi sẽ đề cập tới điều này trong huấn từ Truyền Tin, anh nói với các ký giả những gì anh nghĩ là hay nhất”.
Trong suốt thời gian ngài hồi phục ở bệnh viện, chúng tôi sẵn sàng cung cấp tất cả mọi tín liệu. Sauk hi ngài bị mổ ống chân bị gẫy xương đùi, chúng tôi đã cho nhóm quay phim của RAI (Italian Radio and Television) thấy tấm phim quang tuyến chụp một bộ phận giả được lắp vào cẳng chân của ngài. Về việc làm hoàn toàn ngay lành này tôi thậm chí bị một số người chỉ trích.
Tôi xin nhấn mạnh rằng đằng sau thái độ ấy, không phải chí là một thứ kỹ thuật thông tin mà còn là một cách nhận thức Giáo Hội và chính hình ảnh của vị Giáo Hoàng ấy.
Vấn: Ông quen với Đức Thánh Cha ra sao và ông nghĩ thế nào khi được bổ nhiệm làm đầu văn phòng báo chí của tòa thánh?
Đáp: Khi tôi biết là Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm tôi làm giám đốc văn phòng báo chí của tòa thánh tôi cảm thấy thắc mắc đủ thứ, nhưng thời gian lại không có nhiều.
Bấy giờ tôi đang làm chủ tịch của Hội Báo Chí Thế Giới. 500 phóng viên ở Rôma đã tái bầu tôi làm chủ tịch cho nhiệm kỳ thứ hai, cho dù vào lúc ấy tôi đã quyết định chấm dứt cuộc mạo hiểm làm nghề phóng viên để trở về Tây Ban Nha tiếp tục vai trò nguyên thủy của mình làm nhà giáo dạy trong trường y khoa.
Lúc bấy giờ, kiến thức của tôi về vì Giáo Hoàng này rất ư là hạn hẹp. Tôi đã thực hiện một số cuộc hành trình với tư cách là ký giả và là một phần tử trong phái đoàn của ngài, ngoài ra không biết gì lắm. Tôi thường ngẫm nghĩ tại sao ngài thực sự đã chọn tôi.
Tôi thật sự được tin tưởng bởi thành phần ký giả thuộc báo chí ngoại quốc bầu tôi làm chủ tịch của họ, nhưng tôi không nghĩ rằng đó là yếu tố quyết liệt cho việc bổ nhiệm của ngài.
Trái lại, tôi nghĩ rằng, trong các dự án của Đức Thánh Cha, ngài muốn đáp ứng những niềm mong ước đã xuất phát trên thế giới ngay từ đầu giáo triều của ngài.
Để đáp ứng những thách đố về vấn đề truyền đạt toàn cầu, cần phải thay đổi nhiều điều: như ngôn ngữ, cơ cấu và nhất là tâm thức.
Khi mới bắt tay vào việc, tôi đã phải bỏ rất nhiều giờ ra để cố gắng tìm hiểu Giáo Triều Rôma, để hiểu được rõ ràng những vấn đề của từng phân bộ, để có thể đặt nền tảng cho vấn đề hợp tác hoạt động được công hiệu và thành quả.
Bởi thế, dĩ nhiên chúng tôi đã phải cố gắng để công hiệu hóa những đổi thay cần thiết về cơ cấu để thực hiện một nỗ lực thông tin liên tục.
Vấn: Đâu là những vấn đề ông đã phải giải quyết?
Đáp: Những đổi thay vị Giáo Hoàng này muốn thực hiện liên quan tới việc truyền đạt sứ điệp ở tầm cấp thế giới cần phải có một sự hợp tác chặt chẽ với phương tiện truyền thông.
Vấn đề là ở chỗ lý lẽ của Giáo Hội và lý lẽ của giới truyền thông lại khác nhau. Lý lẽ của giới truyền thông đại chúng hoàn toàn bị hạn chế vào những biến cố xẩy ra hằng ngày. Những ý tưởng không được trình bày một cách thấu đáo mà chỉ là những chủ trương theo cá nhân, bởi thế, ngay cả đến những đặc tính về văn hóa liên quan tới các vấn đề không thiết yếu lắm cũng trở thành những gì gay cấn.
Ngoài ra, tin tức phải là một cái gì đó nổi bật; không cần phải đặt thành vấn đề chúng có tính chất lành hay dữ. Chúng là những gì được các lý thuyết gia về truyền thông gọi là những giới hạn thuộc lãnh vực của ngành phóng viên ký giả.
Trong khi đó Giáo Hội có lý lẽ của mình, nơi mà hết mọi sự được nhìn theo chiều kích dài hạn, và là nơi hết mọi sự riêng biệt đều thuộc về tổng thể, nơi mà sự gắn bó và mối hiệp nhất của tổng thể đòi con người ta không được phân rẽ nguyên tắc luân lý với đời sống con người cũng như với thân phận làm con cái thần linh.
Đối với chúng tôi vấn đề là làm sao để làm cho những lý lẽ khác nhau ấy có thể hòa hợp với nhau. Câu giải đáp thỏa đáng của chúng tôi đã được cống hiến bởi giáo triều đã từng thành đạt trong việc hòa hợp hai thứ lý lẽ này. Đức Gioan Phaolô II đã không tập tễnh bước theo sau công luận; trái lại, giới truyền thông đại chúng vẫn bước theo vị Giáo Hoàng này.
Giáo triều này đã canh tân
lại thứ ngôn ngữ được dân chúng sử dụng, đã có thể đụng chạm tới những vấn đề
chính yếu của thực tại được chúng tôi gọi là vấn đề tân tiến, và đã cung cấp
những giải đáp cả trong lẫn ngoài lãnh giới Kitô giáo cho những vấn đề của con
người. Lợi ích mang lại thật là muôn vàn và không có dấu hiệu nào cho thấy nó bị
suy giảm cả.
Vấn: Một ngày làm việc bình thường của một vị giám đốc văn phòng báo
chí Vatican như thế nào?
Đáp: Ngày làm việc của tôi bắt đầu rất sớm vào buổi sáng khoảng 6 giờ, bằng việc điểm báo là việc chưa từng làm như thế trước đây, rồi sau đó từ từ được thực hiện với báo chí Ý ngữ mà thôi. Hiện nay việc này được thực hiện một cách toàn cầu.
Nhờ các đài truyền hình, chúng tôi có thể thu được tất cả mọi bài viết đáng chú ý và được phổ biến ở các phần đất khác nhau trên thế giới.
Việc điểm báo được phân làm 5 đề tài: đề tài “hiển nhiên” là tin tức ở trang đầu, tin quan trọng nhất; “Tòa Thánh” là tin liên quan đến Vatican; “Giáo Hội địa phương” là tin liên quan tới các sinh hoạt diễn ra tại các Giáo Hội địa phương khác nhau; “Luân Lý và Xã Hội” là tin tức liên quan đến các lối sống; sau hết và “Chính Trị Quốc Tế” là những đêàtài quan trọng chúng tôi được thành phần thính giả chất vấn hằng ngày.
Khi tôi đến văn phòng của
mình thì việc đầu tiên của tôi là điểm báo. Sauk hi phân tích những đề tài trong
ngày, chúng tôi nghiên cứu tới ngày của Tòa Thánh. Bắt đầu với sinh hoạt của Đức
Giáo Hoàng, và tiếp theo là những văn kiện được tuần tự phổ biến, sinh hoạt của
các phân bộ của Tòa Thánh, việc loan báo và giải thích về những chuyến đi quan
trọng của các vị đại diện Tòa Thánh v.v.
Tất cả các biến cố quan trọng đều được quan tâm chú trọng, những biến cố sau đó
được cho vào bản thông tin của văn phòng báo chí là văn kiện được phổ biến mỗi
ngày sau 12 giờ trưa.
Trước 10 giờ sáng, chúng tôi có một cuộc họp làm việc để kiểm điểm xem những đề tài nào do chúng tôi tung ra hôm trước được truyền thông nhận định. Rồi chúng tôi bàn luận cách thức để làm sao cho có công hiệu những thứ điều chỉnh và những thứ cải tiến. Trong lúc đó, ngay vào buổi sáng ấy văn phòng này đã nhận được những cú điện thoại, viễn phóng thư (fax) hay điện thư (email) từ phía Đông xin tín liệu.
Vào buổi trưa, giờ Âu Châu thức giấc, cho đến 5 giờ chiều, là thời điểm đến phiên Gia Nã Đại, Hoa Kỳ và các quốc gia thuộc Mỹ Châu Latinh bắt đầu xin tín liệu.
Một trong những vấn đề khó khăn của văn phòng này là nó phải làm việc liên quan tới múi giờ trên toàn thế giới, để khi nhận được yêu cầu trong giờ làm việc thì lúc nào cũng cần phải sẵn sàng cung ứng. Khi tôi không có đủ tín liệu để trả lời đầy đủ vấn đề, tôi liền liên lạc với các văn phòng Quốc Vụ Khanh, bởi thế mà tôi hằng liên lạc với văn phòng quốc vụ khanh này.
Tôi phải công nhận rằng thành phần làm việc ở văn phòng này, đặc biệt là ĐHY Angelo Sodano, lúc nào cũng hết sức sẵn sàng giúp đỡ.
Tôi bao giờ cũng thấy tính cách sẵn sàng này nơi Đức Thánh Cha là vị tôi thường xuyên gặp gỡ. Nếu tôi thấy rằng vào buổi sáng Đức Giáo Hoàng tiếp một nhân vật nào đó mà tôi sẽ được công luận chất vấn thì tôi liền đi gặp ĐTC ngay sau khi ngài gặp gỡ xong để hỏi ngài về những vấn đề đã được bàn luận.
Tôi xin nhấn mạnh rằng
trong rất nhiều năm được làm việc với vị Giáo Hoàng này tôi chưa bao giờ nghe
ngài nói: “Cẩn thận nhé, vấn đề này chỉ giành riêng với anh thôi đấy nhé”.
Vấn: Có bao giờ ông đã đề nghị với Đức Thánh Cha cách thức ngài cần
tỏ ra trước truyền thông hay chăng?
Đáp: Tôi đã trình bày với Đức Thánh Cha rất ít lời đề nghị: những chi tiết thật sự tối thiểu và hết sức cần thiết thôi. Thế nhưng có những dấu hiệu cho thấy giáo triều của ngài đã có một ảnh hưởng rất lớn đối với truyền thông. Chúng là những dấu hiệu có một giá trị mạnh mẽ, một giá trị liên quan tới một điều gì đó thuộc thượng giới.
Vị Giáo Hoàng này không
bao giờ quan tâm tới hình ảnh của mình. Sau khi lâu dài theo dõi vị Giáo Hoàng
này trên truyền hình, một bình luận gia của tờ Thời Điểm Nữu Ước đã phải thú
nhận là Đức Gioan Phaolô II hoàn toàn đi ngược lại với tất cả mọi qui lệ của
việc xuất hiện trên truyền hình, và chính vì điều này đã làm cho ngài thành công,
ở chỗ, ngài coi thường truyền hình nên ngài đã làm chủ nó.
Vấn: Có bao giờ vị Giáo Hoàng này đã từng than về những gì các ký giả
viết về ngài hay chăng?
Đáp: Theo chỗ tôi biết thì chưa bao giờ xẩy ra, và chưa bao giờ xẩy ra cả đối với tôi nữa. Ngay cả những thứ hí họa hay trào phúng làm cho ngài bị tổn thương.
Có những lúc tôi nghe thấy
ngài nói rằng cần phải tỏ thái độ là những trường hợp các vấn đề chính của giáo
huấn bị bóp méo. Lúc nào tôi cũng thấy, trong các cuộc gặp gỡ với thành phần
phóng viên ký giả, ngài tỏ ra rất thông cảm với họ cũng như với công việc khó
khăn để thông tin của họ.
Vấn: Thậm chí cả những tiếng đồn về sức khỏe của ngài nối tiếp nhau
đã không làm cho ngài trở nên bất nhẫn sao?
Đáp: Điều ngài không chấp nhận không phải là những lời đồn đại về sức khỏe của ngài mà là những thứ võ đoán về khả năng hay dở của ngài để làm Giáo Hoàng.
Đức Gioan Phaolô II không
chấp nhận một số ngờ vực bệnh hoạn tỏ ra đối với luân lý thần học. Ngài không
hờn giận về hình ảnh của mình. Ngài không sợ bị thấy đớn đau; ngài rõ biết rằng
đớn đau là một cảm nghiệm đặc biệt nơi đời sống của hết mọi người.
Vấn: Có lẽ ông là người nổi danh nhất của hội Opus Dei. Điều này có
bao giờ gây rắc rối cho ông hay chăng?
Đáp: Tổ chức Opus Dei là vấn đề chọn lựa riêng tư của tôi, một đường lối nhờ đó tôi sống trong đại gia đình Giáo Hội. Và việc làm phần tử của tổ chức này không gây trục trặc gì cho tôi cả trong mối liên hệ giữa tôi với những người khác, vì tôi thực hiện một công việc làm chuyên muôn về nghề nghiệp.
Đó là lý do tôi không bao giờ quan tâm tới vấn đề tôn giáo của những phóng viên ký giả làm việc với văn phòng báo chí của tòa thánh. Một đặc tính duy nhất chúng tôi quan tâm tới khi họ xin chúng tôi chấp nhận cho làm việc với chúng tôi đó là khả năng chuyên nghiệp của họ mà thôi.
Vấn: Có những qui chuẩn để ông có thể xác định thành phần Vatican tốt hay chăng?
Đáp: Đó không phải là thói quen của tôi trong việc làm cố vấn cho thành phần đồng nghiệp. Tuy nhiên, tôi có thể nói về kinh nghệm chuyên môn với tư cách là một ký giả, tôi tôi thoạt tiên là một y sĩ và là một giáo chức. Tôi là một phóng viên ngoại quốc ở vùng Địa Trung Hải đông phương trên thế giới, nơi các tôn giáo đóng vai trò thiết yếu.
Dù ở Hy Lạp hay Thổ Nhĩ Kỳ, ở Do Thái hay các quốc gia Hồi Giáo Bắc Phi, kinh nghiệm của tôi đó là tôi không thể nào hiểu được một số dữ kiện về đời sống công chúng và xã hội ở những quốc gia ấy trừ phi tôi nghiên cứu vùng nội địa tôn giáo này.
Cũng thế, rất khó lòng hiểu được một số chủ trương của Tòa Thánh nếu người ta không biết đến khoa nhân loại học Kitô giáo, tín lý và luân lý của Giáo Hội. Nhận định những biến cố Vatican thuần túy theo tính chất chính trị tức là chẳng hiểu gì cả.
Nói như thế tôi không có ý
nói rằng người ta cần phải trở thành một người Công Giáo mới là thành phần
Vatican tốt. Tôi không trở thành một tín đồ Hồi Giáo để hiểu được tại sao Sadat
bị ám sát. Để viết một bản tin hay cần phải để ý tới một loạt những tính chất về
tôn giáo, luân lý, lịch sử và văn hóa. Phóng viên nào càng hiểu rộng càng phục
vụ tốt đẹp hơn và trọn vẹn hơn.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
dịch từ Zenit ngày 14/12/2004