GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ NĂM 21/4/2005

 

1) Tôi chỉ muốn phụng sự một mình Người khi tôi hoàn toàn dấn thân phục vụ Giáo Hội của Người.

2)  “Chúng ta hãy sống thừa tác vụ của chúng ta như tặng ân Chúa Kitô ban cho con người!”

3) Vấn Đề Hiệp Thông và Đoàn Tính của Hàng Giáo Phẩm

 

 

 

1) Tôi chỉ muốn phụng sự một mình Người khi tôi hoàn toàn dấn thân phục vụ Giáo Hội của Người.
 

Sứ Điệp đầu tiên của Giáo Hoàng Biển Đức XVI gửi Hồng Y Đoàn

Sau đây là nguyên văn sứ điệp đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Bênedict XVI bằng tiếng Latinh ngỏ cùng Hồng Y Đoàn vào cuối Thánh Lễ Thứ Tư 20/4/2005 tại Nguyện Đường Sistine. Đầu đề của bản tin được VIS (Vatican Information Service) phổ biến sứ điệp này là “Đức Benedict XVI, Vị Giáo Hoàng của Chúa Kitô, của Hiệp Thông và của Đoàn Tính”.

“Nguyện chúc tràn đầy ân sủng và bình an tràn cho tất cả quí huynh! Vào những giờ khắc này đây, tâm hồjn tôi cảm thấy có hai cảm giác xung khắc nhau. Một đàng là cảm giác của một thứ rối loạn về cái bất toàn và phàm nhân của mình đối với trách nhiệm được ký thác cho tôi hôm qua với vai trò Thừa Kế Thánh Phêrô ở Hội Thánh Rôma để trông coi Giáo Hội Hoàn Vũ này. Đàng khác, tôi lại cảm thấy trong tôi một niềm tri ân sâu xa đối với Thiên Chúa là Đấng, như phụng vụ khiến chúng ta xướng lên, không bỏ rơi đàn chiên của Ngài, nhưng đưa đàn chiên này qua giòng thời gian, theo sự hướng dẫn của những ai được Ngài chọn làm thành phần thay mặt Con Ngài và làm các vị mục tử.

“Quí Huynh thân mến, việc nhận thức sâu xa về tặng ân của tình thương Chúa đã chiếm đoạt tâm hồn tôi bất chấp tất cả mọi sự. Tôi coi đây là ân huệ mà vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Đức Gioan Phaolô II đã chiếm được cho tôi. Tôi dường như có thể cảm thấy là bàn tay mạnh mẻ của ngài đang xoắn chặt lấy tay tôi; tôi dường như thấy được ánh mắt tươi vui và nghe được tiếng của ngài ngỏ cùng tôi nhất là vào lúc này rằng: ‘Đừng sợ!’

“Cái chết của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và những ngày sau đó, đối với Giáo Hội cũng như toàn thế giới là một thời điểm đặc biệt ân sủng. Nỗi đớn đau cả thể về cái chết của ngài cùng cái trống không lưu lại nơi tất cả chúng ta đã được tôi luyện bởi tác động của Chúa Kitô Phục Sinh, một tác động, trong những ngày dài này, được tỏ hiện nơi một triều sóng tin tưởng, yêu thương và đoàn kết thiêng liêng, những gì đã lên đến tuyệt đỉnh vào lễ an táng trọng thể của ngài.

“Chúng ta có thể nói rằng, lễ an táng của Đức Gioan Phaolô II thực sự là một cảm nghiệm phi thường về những gì tỏ ra cho thấy một cách nào đó quyền năng của Thiên Chúa là Đấng, qua Giáo Hội của Ngài, muốn hình thành một đại gia đình bao gồm tất cả mọi dân tộc, bằng quyền lực liên kết của Sự Thật và Yêu Thương. Trong giờ lâm chung, giống như Sư Phụ và Chúa của mình, Đức Gioan Phaolô II đã tôn vinh giáo triều lâu dài và thành công của mình, bằng việc củng cố dân Kitô giáo trong đức tin, qui tụ họ lại bên ngài và làm cho cả nhân loại cảm thấy liên kết với nhau hơn.

“Làm sao người ta không cảm thấy được vững mạnh trước chứng từ ấy? Làm sao người ta không cảm thấy phấn khởi bắt nguồn từ biến cố ân sủng này?

“Thật là ngỡ ngàng đối với những gì tôi dự tưởng, Đấng Quan Phòng Thần Linh, qua ý muốn của các Nghị Phụ Hồng Y khả kính, đã gọi tôi tiếp tục vị đại Giáo Hoàng này. Vào những giờ khắc này, tôi vẫn đang nghĩ đến những gì đã xẩy ra ở vùng Cesarea Phillippi hai ngàn năm về trước: Tôi dường như nghe thấy những lời của Thánh Phêrô rằng: ‘Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’, và lời long trọng khẳng định của Chúa Kitô rằng: ‘Con là Phêrô, và trên đá này Thày sẽ dựng xây Giáo Hội của Thày…. Thày sẽ trao cho con chìa khóa nước trời’.

“Thày là Đức Kitô! Con là Phêrô! Tôi dường như đang sống lại chính cái cảnh Phúc Âm ấy; Tôi, vị Thừa Kế Thánh Phêrô, xin rung cảm lập lại những lời thiết tha của tay đánh cá Galilê và tôi cảm thấu nghe lại lời hứa tái bảo đảm của Vị Thày thần linh này. Nếu gánh nặng của trách nhiệm giờ đây đè lên đôi vai yếu hèn của tôi là một gánh nặng khổng lồ thì quyền năng thần linh mà tôi tin tưởng chắc chắn sẽ là những gì khôn lường vô hạn: ‘Con là Phêrô và trên đá này Thày sẽ xây dựng Giáo Hội của Thày’. Khi chọn tôi làm Giám Mục Rôma, Chúa Kitô đã muốn tôi làm đại diện cho Người, Người muốn tôi là ‘đá’ cho mọi người tin tưởng nương tựa. Tôi xin Người biến cái nghèo hèn của tôi thành sức mạnh cho tôi, để tôi có thể trở thành một mục tử can trường và trung thành chăn dắt đàn chiên của Người, luôn dễ dạy với những tác động của Thần Linh Người.

“Tôi xin lãnh nhận thừa tác vụ đặc biệt này, thừa tác vụ ‘kế thừa Thánh Phêrô’ để phục vụ Giáo Hội Hoàn Vũ, khiêm tốn phó mình vào bàn tay Quan Phòng của Thiên Chúa. Và tôi xin lập lại lòng gắn bó trọn vẹn và chân tình của tôi với Chúa Kitô: ‘In Te, Domine, speravi; non confundar in aeternum!’

“Cùng chư huynh Hồng Y, với lòng biết ơn về niềm tin tưởng quí huynh đối với tôi, tôi xin quí huynh hãy nâng đỡ tôi bằng lời nguyện cầu cũng như bằng việc hợp tác một cách liên lỉ, chủ động và khôn ngoan. Tôi cũng xin anh em của tôi trong hàng giáo phẩm hãy gần gũi với tôi bằng lời cầu nguyện và an ủi để tôi thực sự là ‘Servus servorum Dei’ (Tôi tớ của mọi tôi tớ Chúa). Như Thánh Phêrô và các vị Tông Đồ khác, theo ý muốn của Chúa Kitô, là một tông đồ đoàn, cũng thế, Vị Thừa Kế Thánh Phêrô và các V ị Giám Mục thừa kế các Tông Đồ – những gì đã được Công Đồng Chung Vaticanô II hết sức nhấn mạnh – cần phải chặt chẽ liên kết với nhau. Mối hiệp thông đoàn tính này, cho dù có khác nhau về vai trò và phận vụ giữa Vị Giáo Hoàng Tối Cao và các vị giám mục, là mối hiệp thông phục vụ Giáo Hội và hiệp nhất đức tin, mối hiệp thông chi phối một cách đáng kể đến mức hữu hiệu của hoạt động truyền bá phúc âm hóa trong thế giới hiện đại. Con đường đã được các vị tiền nhiệm của tôi tiến bước, tôi cũng muốn đi theo nữa, chỉ vì để loan truyền cho thế giới biết sự hiện diện sống động của Chúa Kitô.

“Đặc biệt trước mặt của tôi là chứng từ của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài để lại cho chúng ta một Giáo Hội cường tráng hơn, tư do hơn và trẻ trung hơn. Một Giáo Hội mà, theo giáo huấn và gương mẫu của ngài, bình tâm nhìn lại quá khứ và không sợ hướng đến tương lai. Qua Đại Năm Thánh 2000, Giáo Hội đã được dẫn vào ngàn năm mới, nắm trong tay Phúc Âm, Phúc Âm được áp dụng cho thế giới qua việc đọc lại một cách tường tận Công Đồng Chung Vaticanô II. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có lý để nhấn mạnh rằng Công Đồng này như là một ‘la bàn’ được sử dụng để chúng ta lèo lái trên đại dương bao la của ngàn năm thứ ba. Trong di chúc thư thiêng liêng của mình, ngài còn nhận định là: ‘Tôi tin rằng, cho đến một thời gian rất dài, các thế hệ mới sẽ kín múc lấy từ kho tàng được công đồng của thế kỷ 20 ấy để cống hiến cho chúng ta’.

“Cả tôi nữa, để bắt đầu việc phục vụ xứng hợp với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, cũng muốn mạnh mẽ xác định ý muốn cương quyết của tôi trong việc theo đuổi cuộc dấn thân thực hiện Công Đồng Chung Vaticanô II, theo các vị tiền nhiệm của tôi và trung thành tiếp nối truyền thống hai ngàn năm của Giáo Hội. Năm nay chính là năm kỷ niệm 40 năm bế mạc công đồng này (8/12/1965). Qua giòng thời gian, các văn kiện của công đồng đã không mất đi tính cách hợp thời của mình; giáo huấn của các văn kiện ấy vẫn cho thấy đặc biệt thích hợp với các nhu cầu cấp bách mới của Giáo Hội cũng như với xã hội đang được toàn cầu hóa hiện nay.

“Giáo triều của tôi, một cách hết sức ý nghĩa, được mở màn vào lúc Giáo Hội đang sống một năm đặc biệt giành cho Thánh Thể. Làm sao tôi lại không thấy được cái trùng hợp được quan phòng này một yếu tố cần phải đánh dấu thừa tác vụ tôi đã được kêu gọi thi hành đây? Thánh Thể, tâm điểm của đời sống Kitô hữu và là nguồn mạch của sứ vụ truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội, chắc chắn bao giờ cũng phải là tâm điểm và là nguồn mạch cho sứ vụ thừa kế Thánh Phêrô đã được trao phó cho tôi.

“Thánh Thể làm cho Chúa Kitô Phục Sinh liên lỉ hiện diện, một Chúa Kitô là Đấng tiếp tục hiến Mình cho chúng ta, kêu gọi chúng ta hãy tham dự vào bàn tiệc Mình Máu của Người. Từ mối hiệp thông trọn vẹn này với Người mới xuất phát ra hết mọi yếu tố khác của đời sống Giáo Hội, trước hết là mối hiệp thông giữa tín hữu, việc dấn thân loan truyền và làm chứng cho Phúc Âm, nhiệt tình bác ái đối với tất cả mọi người, nhất là với thành phần nghèo khổ và hèn mọn nhất.

“Bởi thế, trong năm nay, Lễ Trọng Kính Mình Thánh Chúa Kitô cần phải được cử hành một cách hết sức đặc biệt. Thánh Thể sẽ là trọng tâm của Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Cologne vào Tháng Tám, và của Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới thường lệ vào Tháng Mười, một thượng nghị sẽ bàn đến đề tài ‘Thánh Thể là Nguồn Mạch và là Tuyệt Đỉnh của Đời Sống và Sứ Vụ của Giáo Hội’. Tôi xin hết mọi người hãy gia tăng vào những tháng tới đây lòng yêu mến và việc sùng kính đối với Chúa Giêsu Thánh Thể và thể hiện một cách can đảm tỏ tường sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô, trước hết, qua những việc cử hành một cách long trọng và đúng đắn.

“Tôi đặc biệt xin các vị linh mục thực hiện điều ấy, những vị giờ đây tôi đang hết lòng quí mến nghĩ đến vào lúc này đây. Thừa tác vụ linh mục được phát sinh từ Nhà Tiệc Ly, cùng với Thánh Thể, như vị tiền nhiệm đáng kính Gioan Phaolô II của tôi đã nhiều lần nhấn mạnh đến. ‘Đời sống linh mục cần phải đặc biệt có một ‘dạng thức Thánh Thể’, ngài đã viết như thế trong Bức Thư cuối cùng của ngài cho Ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Việc sốt sắng cử hành hằng ngày Thánh Lễ, tâm điểm của đời sống và sứ vụ của hết mọi vị linh mục, là những gì góp phần vào việc đạt được mục đích ấy.

“Được nuôi dưỡng và bảo trì bởi Thánh Thể, người Công giáo chắc chắn cảm thấy được thôi thúc hướng đến mối hiệp nhất như Chúa Kitô mong muốn ở Nhà Tiệc Ly. Vị Thừa Kế Thánh Phêrô biết rằng mình cần phải đặc biệt nhận lấy ước muốn tối hậu này của Vị Thày Thần Linh. Nhiệm vụ kiên cường anh em của mình thật sự đã được trao phó cho ngài.

“Bởi vậy, bằng tất cả ý thức và vào lúc mở đầu cho thừa tác vụ của mình ở Giáo Hội Rôma là nơi Thánh Phêrô đã tắm máu, vị Thừa Kế này lãnh nhận, như là quyết tâm chính yếu của mình, quyết tâm không ngừng hoạt động hướng đến việc tái thiết mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình của tất cả mọi thành phần môn đệ của Chúa Kitô. Đó là tham vọng của ngài, đó là nhiệm vụ bó buộc của ngài. Ngài biết rằng, để làm điều này, những bày tỏ về cảm tình thiện cảm mà thôi chưa đủ. Cần phải có những cử chỉ cụ thể để thấm nhập các tâm hồn và đánh động lương tâm, phấn khích mọi người tiến đến chỗ hoán cải nội tâm là điều căn bản cho tất cả mọi thứ tiến bộ trên con đường đại kết.

“Những cuộc đối thoại về thần học là những gì cần phải có. Cũng không thể châm chước bỏ qua việc khảo sát kỹ lưỡng những nguyên do lịch sử đã gây ra những việc quyết định trong quá khứ. Thế nhưng, khẩn thiết hơn thế nữa là việc ‘thanh tẩy ký ức’, một việc đã thường được Đức Gioan Phaolô gợi lên, và là một việc duy nhất có thể sửa soạn cho các tâm hồn đón nhận tất cả sự thật của Chúa Kitô. Chính vì trước nhan Người là Vị Thẩm Phán tối cao của tất cả mọi sinh vật, mà mỗi một người trong chúng ta cần phải trả lẽ, với ý thức là một ngày kia chúng ta cần phải cắt nghĩa cho Người về những gì chúng ta đã làm và những gì chúng ta không làm cho thiện ích cao cả là mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình nơi tất cả thành phần môn đệ của Người.

“Vị Thừa Kế Thánh Phêrô đây tự cảm thấy chính mình liên quan đến vấn đề này và sẵn sàng làm tất cả những gì trong khả năng của mình để cổ võ lợi ích chính yếu cho việc đại kết. Theo những vị tiền nhiệm của mình, ngài nhất định quyết tâm nâng đỡ bất cứ sáng kiến nào có vẻ thích hợp với việc đẩy mạnh việc giao tiếp và thỏa hiệp với những vị đại diện thuộc các Giáo Hội khác và các cộng đồng giáo hội khác. Thật thế, nhân cơ hội này đây, ngài xin gửi đến họ lời chàop thân ái nhất của ngài trong Chúa Kitô, Vị Chúa duy nhất của tất cả mọi người.

“Vào lúc này đây, ký ức của tôi nhớ lại cảm nghiệm không thể nào quên được tất cả chúng ta đã trải qua với cái chết và lễ an táng cho Đức Gioan Phaolô II tiếc thương. Quanh thi thể của ngài, nằm trên mặt đất trống, các vị lãnh đạo chư quốc đã qui tụ lại, cùng với dân chúng thuộc tất cả mọi giai cấp xã hội, nhất là giới trẻ, để tỏ lòng mãi mãi gắn bó quí mến và ca ngợi ngài. Toàn thể thế giới đã tin tưởng nhìn vào ngài. Đối với nhiều người thì việc tham dự đông đảo này, một cuộc tham dự được các phương tiện truyền thông phóng đại đến cả những nơi xa xôi của hành tinh này, như thể là việc nhân loại văn minh tân tiến, một nhân loại bị hoang mang sợ hãi và bất ổn, đang tự hỏi mình về tương lai, muốn đồng thanh yêu cầu vị Giáo Hoàng này giúp đỡ.

“Giáo Hội ngày nay cần phải làm sống lại nơi bản thân mình một thứ nhận thức về công việc trình bày cho thế giới một lần nữa bằng tiếng nói của Đấng đã phán: ‘Tôi là ánh sáng thế gian; ai theo Tôi sẽ không bước đi trong tăm tối, song sẽ được ánh sáng sự sống’. Trong việc đảm nhận thừa tác vụ của mình, vị tân Giáo Hoàng này biết rằng công việc của ngài là làm cho ánh sáng của Chúa Kitô chiếu tỏa trước con người nam nữ ngày nay, không phải là ánh sáng của ngài mà là của Chúa Kitô.

“Ý thức như thế, bản thân tôi xin ngỏ cùng mọi người, kể cả những ai theo các tôn giáo khác hay những ai chỉ muốn tìm kiếm một câu giải đáp cho những câu hỏi căn bản về đời sống mà chưa tìm ra. Tôi xin chân thành cảm mến ngỏ cùng hết mọi người, xin hứa cùng họ rằng Giáo Hội muốn tiếp tục phát triển một cuộc đối thoại cởi mở chân tình với họ, trong việc tìm cầu sự thiện hảo đích thực của nhân loại và của xã hội.

“Tôi kêu cầu Thiên Chúa ban hiệp nhất và bình an cho gia đình nhân loại và xin tuyên bố việc tất cả mọi người Công giáo sẵn lòng cộng tác thực hiện việc phát triển xã hội thực sự, một phát triển tôn trọng phẩm vị của tất cả mọi người.

“Tôi sẽ làm hết sức mình và dấn thân theo đuổi việc đối thoại đầy hứa hẹn được những vị tiền nhiệm của tôi khởi sự với những nền văn minh khác nhau, vì nếu có hiểu biết nhau mới tạo điều kiện cho một tương lai tốt đẹp hơn cho hết mọi người.

“Tôi đặc biệt nghĩ đến giới trẻ. Tôi xin gửi đến họ, thành phần đối thoại đặc biệt của Đức Gioan Phaolô II, niềm gắn bó mến thương, hy vọng là, nếu Chúa muốn, được gặp gỡ họ ở Cologne vào dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới tới đây. Hỡi giới trẻ thân mến, tôi sẽ tiếp tục bảo trì việc đối thoại với anh chị em, lắng nghe những mong đợi của anh chị em để cố gắng giúp anh chị em gặp được Chúa Kitô hằng sống muôn đời trẻ trung một cách sâu xa hơn.


“’Mane nobiscum, Domine!’ Xin Chúa ở với chúng con! Lời kêu mời này, một lời kêu mời làm nên chủ đề chính của Tông Thư cho Năm Thánh Thể của Đức Gioan Phaolô II, đó là lời cầu nguyện đột phát từ lòng của tôi khi tôi bắt đầu thừa tác vụ được Chúa Kitô kêu gọi tôi thực hiện. Như Thánh Phêrô, tôi cũng lập lại với Người lời hứa trung thành trọn vẹn của tôi. Tôi chỉ muốn phụng sự một mình Người khi tôi hoàn toàn dấn thân phục vụ Giáo Hội của Người.

“Để hỗ trợ cho lời hứa này của mình, tôi kêu xin Mẹ Maria Rất Thánh, Đấng tôi xin trao phó hiện tại và tương lai của bản thân tôi và của Giáo Hội trong tay Mẹ, chuyển cầu cho tôi. Chớ gì Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô cùng toàn thế các thánh cũng chuyển cầu cho tôi.

“Với lòng cảm mến ấy, tôi ban cho quí huynh hồng y đáng kính, cũng như cho những ai tham dự vào lễ nghi này, và tất cả những ai theo dõi chúng ta qua truyền hình và truyền thanh, phép lành đặc biệt và thân ái”.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ điện thư của VIS ngày 20/4
 

TOP

 

2) “Chúng ta hãy sống thừa tác vụ của chúng ta như tặng ân Chúa Kitô ban cho con người!”

Bài Giảng Thánh Lễ Khai Mạc Mật Nghị Hồng Y Bầu Tân Giáo Hoàng

Theo chương trình đã được phác họa, sáng nay, tại Đền Thờ Thánh Phêrô, ĐHY trưởng hồng y đoàn là Joseph Ratzinger đã dâng Thánh Lễ khai mạc cho mật Nghị Hồng Y bầu tân Giáo Hoàng, với sự đồng tế của tất cả mọi hồng y tuyển bầu, và sự tham dự của các vị hồng y quá tuổi tuyển bầu, các vị giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân. Trong bài giảng của mình, vị hồng y chủ tế, trước hết, đã dẫn giải bài đọc thứ nhất liên quan đến lời Chúa Giêsu nói qua miệng tiên tri Isaia là Người được sai đi “loan báo năm hồng ân của Chúa và ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta”.

Isaiah 61:1-3a. 6a. 8b-9
Ephesians 4:11-16
John 15:9-17

”Vào giờ khắc nặng trọng trách đây, chúng ta hãy đặc biệt lằng nghe những gì Chúa muốn nói với chúng ta qua những lời lẽ của Người. Tôi chỉ xin chọn mỗi đoạn của ba bài đọc liên quan trực tiếp tới chúng ta vào một thời điểm như thế này.

“Bài đọc thứ nhất cho chúng ta thấy hình ảnh được tiên báo về nhân vật Thiên Sai, một hình ảnh đạt được trọn vẹn ý nghĩa của nó vào chính lúc Chúa Giêsu đọc đoạn văn này ở hội đường Nazarét, khi Người nói rằng: ‘Hôm nay quí vị đã nghe thấy đọan kinh thánh này đã được ứng nghiệm’ (Lk 4:21). Ở tâm điểm của bài sách tiên tri này, chúng ta thấy có một câu mà thoáng nhìn như mâu thuẫn. Khi nói về mình, Đấng Thiên Sai nói rằng Người được sai đến để ‘loan báo năm hồng ân của Chúa, vào ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta’ (Is 61:2).

“Chúng ta hân hoan nghe thấy nói đến việc loan truyền năm tình thương: Tình thương Chúa đặt giới hạn cho sự dữ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói với chúng ta như thế. Tự bản thân mình Chúa Giêsu Kitô là tình thương Chúa: Thấy Chúa Kitô nghĩa là thấy được tình thương của Thiên Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô đã trở nên sứ vụ của chúng ta qua việc xức dầu tư tế; chúng ta được kêu gọi để loan báo, chẳng những bằng lời nói mà còn bằng đời sống cũng như bằng những hoa trái hiệu nghiệm của các Bí Tích, ‘năm hồng ân của Chúa’

“Thế nhưng, tiên tri Isaia muốn nói gì khi ngài loan báo về ‘ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta?’ Khi đọc bản văn tiên tri này ở Nazarét, Chúa Giêsu không nói đến những lời ấy; Người đã kết thúc bằng việc công bố năm hồng ân. Phải chăng đó là lý do xẩy ra việc xúc phạm sau bài giảng của Người? Chúng ta không ai biết. Dầu sao Chúa Giêsu cũng cống hiến việc dẫn giải chính thức về những lời ấy bằng cái chết của Người trên thập tự giá. ‘Chính Người đã mang lấy tội lỗi của chúng ta nơi thân thể của Người bị treo trên cây’, Thánh Phêrô đã nói như thế (1Pt 2:24). Và Thánh Phaolô viết cho tín hữu Galata rằng: ‘Chúa Kitô đã cứu chuộc chúng ta khỏi cái tai họa của lề luật, khi trở nên một thứ đồ bị nguyền rủa vì chúng ta – vì có lời chép: Khốn thay cho kẻ bị treo lên cây’, để, nơi Chúa Giêsu Kitô, nhờ đó các thứ phúc lành của Abraham được đổ xuống cho các dân ngoại, nhờ đó chúng ta được lãnh nhận lời hứa Thần Linh nơi đức tin’ (Gal 3:13).

“Tình thương của Chúa Kitô không phải là một thứ ân sủng rẻ tiền; tình thương của Người không phải là những gì cho rằng sự dữ là đồ vô vị. Chúa Giêsu mang lấy tất cả gánh nặng của sự dữ, tất cả quyền lực hủy diệt của sự dữ, nơi thân thể của Người và trong linh hồn của Người. Ngày báo oán và năm hồng ân của Chúa cùng hiện thực nơi mầu nhiệm Vượt Qua, nơi Chúa Kitô là Đấng đã chết và sống lại. Đó là việc báo oán của Thiên Chúa, ở chỗ, Chính Bản Thân Ngài, nơi con người của Con Ngài, chịu khổ vì chúng ta. Chúng ta càng được tình thương của Chúa chạm tới, chúng ta càng liên kết với khổ đau của Người, và chúng ta càng sẵn sàng làm trọn nơi xác thịt của chúng ta ‘những gì còn thiếu nơi những khốn khổ của Chúa Kitô’ (Col 1:24).

“Chúng ta hãy sang bài đọc thứ hai là thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô. Bài đóc này chính yếu có 3 vấn đề: trước hết là các thừa tác vụ và đặc sủng của Giáo Hội như những tặng ân của Chúa phục sinh đã về trời; rồi tới việc trưởng thành trong đức tin và trong nhận thức về Con Thiên Chúa như điều kiện và nội dung cho mối hiệp nhất của thân thể Chúa Kitô; và sau hết, việc tham dự chung vào việc tăng trưởng của Thân Thể Chúa Kitô, tức là việc biến đổi thế giới bằng mối hiệp thông với Thiên Chúa.

“Chúng ta hãy suy niệm về hai điểm. Điểm thứ nhất đó là con đường dẫn đến, như bản tiếng Ý dịch cách giản dị là ‘sự trưởng thành Chúa Kitô’. Cụ thể hơn, theo bản Hy ngữ, chúng ta cần phải nói về ‘tầm mức viên trọn của Chúa Kitô’ là tầm mức chúng ta được kêu gọi để thực sự trưởng thành trong đức tin. Chúng ta không được là trẻ con trong đức tin, trong tình trang non dại. Mà sống đức tin trẻ con nghĩa là gì? Thánh Phaolô trả lời rằng đó là ‘bị nghiêng ngả theo chiều gió chủ nghĩa’ Thật là một lời diễn tả rất ư là hợp thời!

“Biết bao nhiêu là chiều gió chủ nghĩa chúng ta đã từng biết đến trong mấy thập niên qua! Biết bao nhiêu là trào lưu ý hệ! Biết bao nhiêu là trường phái tư tưởng! Con tầu tư tưởng nhỏ bé của nhiều Kitô hữu thường bị xô lấn bởi những cơn sóng này, tung họ từ cực đoan này sang cực đoan kia: từ chủ nghĩa Marxít đến chủ nghĩa tự do (liberalism), thậm chí đến chủ nghĩa duy tự do (libertarianism); từ chủ nghĩa tập thể (collectivism) đến chủ nghĩa cá nhân cực đoan (radical individualism); từ chủ nghĩa vô thần đến chủ nghĩa tôn giáo mập mờ bí hiểm (vague religious mysticism); từ chủ nghĩa ngộ thức (agnosticism) đến chủ nghĩa hòa đồng (syncretism) v.v.

“Ngày nào cũng có những thứ giáo phái mới, khiến cho những lời của Thánh Phaolô nói trở thành sự thật về việc con người bị lừa đảo, về cái tinh quái làm cho con người bị lầm lạc (x Eph 4:14). Có một đức tin minh tường, theo Kinh Tin Kính của Giáo Hội, thường được gán cho là chủ nghĩa thủ cựu / bảo thủ (fundamentalism). Một khi chủ nghĩa tương đối (relativism), nói cách khác, một khi để cho mình ‘bị xô đẩy theo chiều gió chủ nghĩa’, thái độ duy nhất được cho là thích hợp với thời đại tân tiến, thì đó là lúc chủ nghĩa tương đối độc đoán được hình thành, một chủ nghĩa tương đối độc đoán cho rằng không có gì là tuyệt đối cả, và là một chủ nghĩa chỉ biết căn cứ vào cái tôi cùng với những ước muốn của cái tôi mà thôi.

“Chúng ta có một chuẩn mức khác, đó là Con Thiên Chúa, một con người thật sự. Người là chuẩn mức của nhân bản chủ nghĩa đích thực. Một đức tin ‘trưởng thành’ là đức tin không chiều theo làn sóng thời trang cũng như những gì là tân hiện đại nhất; một đức tin trưởng thành và chín chắn là một đức tin được cắm rễ sâu xa trong mối thân tình với Chúa Kitô. Mối thân hữu này hướng chúng ta về tất cả những gì là thiện hảo và cống hiến cho chúng ta chuẩn mức để nhận thức được đâu là phải và đâu là trái, đâu là gian dối và đâu là chân thật.

“Chúng ta cần phải làm cho đức tin trưởng thành này chín mùi; chúng ta cần phải dẫn đàn chiên của Chúa Kitô đến đức tin này. Và chính đức tin này, chỉ duy có đức tin này mà thôi, mới là những gì kiến tạo hiệp nhất và được hiện thực nơi đức ái. Thánh Phaolô đã cống hiến cho chúng ta một câu nói tuyệt vời, ngược lại với tình trạng trôi nổi của những ai giống như trẻ con bị bập bềnh theo triều sóng, đó là hãy sống sự thật bằng đức ái như là một mẫu thức cốt yếu cho việc hiện hữu của Kitô giáo. Sự thật và đức ái đồng qui nơi Chúa Kitô. Chúng đến với Chúa Kitô theo chuẩn mức nào, thì sự thật và đức ái cũng nên một với nhau trong đời sống của chúng ta như vậy. Đức ái không có đức tin là một đức ái mù quáng; chân lý không có đức ái sẽ chỉ là ‘phèng la inh ỏi’ (1Cor 13:1).

Giờ đây chúng ta sang bài Phúc Âm, một bài Phúc Âm phong phú song tôi chỉ xin rút ra hai nhận định nhỏ thôi. Chúa Kitô đã noí với chúng ta những lời tuyệt vời này là ‘Thày không còn gọi các con là tôi tớ nữa,… mà gọi các con là bạn hữu’ (Jn 15:5). Nhiều lần chúng ta chỉ cảm thấy rằng mình giống như những tên đầy tớ vô dụng, mà thực sự là thế (x Lk 17:10). Mặc dù là thế, Chúa Kitô vẫn gọi chúng ta là bạn hữu của Người; Người làm cho chúng ta thành bạn hữu của Người; Người ban cho chúng ta tình bằng hữu của Người. Chúa Kitô đã xác định tình bằng hữu bằng hai cách. Không có gì là bí mật giữa bạn bè với nhau: Chúa Kitô nói với chúng ta hết những gì Người nghe từ Cha; Người hoàn toàn đặt niềm tin tưởng của Người nơi chúng ta, và cùng với lòng tin tưởng ấy là kiến thức của Người. Người tỏ cho chúng ta thấy dung nhan của Người, tấm lòng của Người. Người tỏ cho chúng ta thấy niềm âu yếm của Người, tình yêu say mê cho đến điên cuồng tử giá.

“Người đặt tin tưởng nơi chúng ta; Người ban cho chúng ta quyền năng để cùng với bản thân của Người phán rằng: ‘Này là mình Thày’, và ‘Thày tha tội cho con’. Người trao phó thân thể của Người là Giáo Hội cho chúng ta. Người ký thác sự thật của Người cho tâm trí yếu đuối và bàn tay yếu hèn của chúng ta, đó là mầu nhiệm Thiên CHúa là Ch, và Con và Thánh Thần; mầu nhiệm của vị Thiên Chúa là Đấng ‘đã quá yêu thương thế gian đến hiến ban Con duy nhất của mình’ (Jn 3:16). Người đã làm cho chúng ta nên bạn hữu của Người. Chúng ta cần phải đáp lại như thế nào đây?

“Yếu tố thứ hai được Chúa Giêsu sử dụng để định nghĩa tình bằng hữu đó là mối hiệp thông của ý muốn. ‘Idem velle – idem nolle’ là câu định nghĩa của người Rôma. ‘Các con là bạn hữu của Thày nếu các con làm theo những gì Thày truyền cho các con’ (Jn 15:14). Tình bằng hữu với Chúa Kitô đồng nghĩa với những gì được ước nguyện thứ ba trong Kinh Lạy Cha: ‘Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời’.

“Vào giờ khắc ở Vườn Diệt-Si-Ma-Ni, Chúa Giêsu đã biến đổi ý muốn loài người phản loạn của chúng ta thành một ý muốn tuân hợp và kết hợp với ý muốn thần linh. Người đã chịu đựng tất cả cuộc thảm kịch về cái tự lập của chúng ta, và bằng việc trao phó ý muốn của chúng ta vào bàn tay Thiên Chúa, Người đã làm cho chúng ta được thực sự tự do: ‘Thế nhưng, không phải theo ý Con mà là ý Cha’ (Mt 26:39). Việc cứu chuộc của chúng ta đã được thực hiện nơi mối hiệp thông ý muốn này: ở chỗ được trở thành bạn hữu của Chúa Giêsu, trở nên bạn hữu của Thiên Chúa. Chúng ta càng yêu mến Chúa Giêsu, chúng ta càng biết Người, tự do đích thật của chúng ta càng tăng trưởng, cùng với niềm vui được cứu chuộc. Xin tri ân cảm tạ Chúa Giêsu về tình bằng hữu của Chúa!

“Một yếu tố khác của Phúc Âm tôi cũng muốn được đề cập tới đó là bài nói của Chúa Giêsu về việc sinh hoa kết trái: ‘Thày đã chọn các con và chỉ định để các con đi sinh hoa kết trái để hoa trái của các con được tồn tại’. Cái động lực hiện hữu của Kitô giáo hiện lên ở nơi đây, cái động lực của thành phần tông đồ: ‘Thày đã sai các con đi’. Chúng ta cần phải cảm thấy được sinh động bởi cái day dứt khôn nguôi; cái day dứt khôn nguôi muốn mang đến cho hết mọi người tặng ân đức tin, tặng ân được làm bạn hữu với Chúa Kitô. Thật vậy, tình yêu, tức tình bằng hữu với Thiên Chúa, đã được ban cho chúng ta là để nhờ đó tình yêu này, tình bằng hữu này vươn tới người khác nữa.

“Chúng ta đã lãnh nhận đức tin là để trao tặng đức tin cho kẻ khác; chúng ta là những vị linh mục phục vụ kẻ khác, và chúng ta cần phải sinh hoa kết trái vững bền. Thế nhưng, làm sao có thể bền vững được đây? Tiền bạc không lâu bền. Nhà cửa không bền lâu, cả sách vở nữa. Vào một lúc nào đó, không nhanh thì chậm, tất cả đều sẽ biến mất. Chỉ có một điều duy nhất còn tồn tại đến muôn đời đó là linh hồn của con người, một con người được Thiên Chúa dựng nên để sống vĩnh hằng.

“Hoa trái tồn tại đây, bởi thế, là những gì chúng ta đã gieo vào linh hồn con người ta, đó là yêu thương và nhận thức; là cử chỉ có thể chạm tới tâm can; là lời nói hướng linh hồn hướng về niềm vui của Chúa. Vậy chúng ta hãy đi và nguyện cầu cùng Chúa để Ngài giúp cho chúng ta sinh hoa kết trái, một thứ hoa trái vững bền. Chỉ có thế trái đất này mới có thể được biến đổi từ thung lũng châu lệ thành vườn địa đường của Thiên Chúa.

“Sau hết, chúng ta hãy trở lại với Thư gửi giáo đoàn Êphêsô một lần nữa. Bức thư viết, theo những lời Thánh Vịnh 68, rằng Chúa Kitô, khi ‘Người lên trời… đã ban các tặng ân cho con người’ (Eph 4:8). Ôi những tặng ân phân phối hiển vinh. Và những tặng ân này là các vị tông đồ, tiên tri, các vị truyền bá phúc âm, các vị mục tử và thày dạy. Thừa tác vụ của chúng ta là tặng ân của Chúa Kitô ban cho con người để xây dựng thân thể của Người, xây dựng một tân thế giới. Chúng ta hãy sống thừa tác vụ của chúng ta như tặng ân Chúa Kitô ban cho con người! Thế nhưng, trong lúc này đây, chúng ta hãy thiết tha nguyện cầu cùng Chúa rằng, sau đại tặng ân Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Ngài lại ban cho chúng ta một vị mục tử theo ý định của tâm can Ngài, một vị mục tử dẫn chúng ta đến chỗ nhận biết Chúa Kitô, đến với tình yêu của Người, đến với niềm vui chân thực.

“Amen”.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ điện thư của VIS ngày 18/4 và Zenit ngày 19/4

 

TOP

 

 

3) Vấn Đề Hiệp Thông và Đoàn Tính của Hàng Giáo Phẩm
 

Nơi ĐHY Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger 

Trong sứ điệp ngỏ cùng Hồng Y Đoàn vào cuối Lễ đầu tiên của giáo triều mình ngày 20/4/2005, Đức tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã nhấn mạnh nhất là vấn đề hiệp thông Kitô giáo cũng như Đoàn tính. Thật vậy, ngay trong cuộc vấn đáp với tờ tuần san Ý Famiglia Cristiana, ĐHY Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, vị vừa xuất bản (do nhà xuất bản St Paul ở Ý) cuốn sách mang tựa đề "La Communione nella Chiesa" (Mối Hiệp Thông Trong Giáo Hội), ngài đã cho biết cần phải hiểu được ý nghĩa thần học về mối hiệp thông mới có thể hiểu được mối liên hệ giữa các Giáo Hội địa phương và Tòa Thánh, cũng như mới cảm nhận được đoàn tính của Giáo Hội đối với vai trò của các hội đồng giám mục. Trong phần thứ hai của cuộc phỏng vấn này, ĐHY còn trả lời những vấn đề liên quan tới quan niệm “Dân Chúa”, đến những việc cử hành phụng vụ “sáng tạo”, cũng như đến cơ hội Rước Lễ của thành phần ly dị rồi tái hôn.

Vấn     Mối hiệp thông trong Giáo Hội là gì?

Đáp     Trong Bức Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan, chúng ta thấy câu định nghĩa cho thấy một quan cái nhìn rất đầy đủ về mối hiệp thông.

Thánh Gioan nói rằng những gì đã được ban cho chúng ta là đức tin, là được làm người Kitô hữu, nhất là được hiệp thông với Thiên Chúa, với Thiên Chúa Ba Ngôi là chính thực tại hiệp thông. Đó là một điều tuyệt vời mạc khải đã cống hiến cho chúng ta, ở chỗ, Thiên Chúa là thực tại hiệp thông và bởi thế Ngài có thể ban tặng hiệp thông.

Được hiệp thông với Thiên Chúa, con người cũng được hiệp thông với tất cả những người khác sống trong cùng mối hiệp thông này. Ở đây hai chiều hướng tung hoành gặp nhau và trở nên một thực tại duy nhất.

Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng là hiệp thông, làm cho mối hiệp thông của nhân loại bao rộng hơn và sâu xa hơn. Mối hiệp thông với Chúa Kitô đã làm nên sự liên kết giữa Thiên Chúa và loài người này. Mối hiệp thông này đã được, có thể nói, nhập thể nơi bí tích Thánh Thể nhờ đó chúng ta được hiệp nhất với thân mình của Chúa.

Giáo Hội đã được hạ sinh bằng cách đó: Giáo Hội là một mối hiệp thông trên hết các mối hiệp thông, tức là Giáo Hội hiện hữu như là một thực tại Thánh Thể.

Hết mọi cộng đồng Thánh Thể hoàn toàn ở trong sự hiện diện của Chúa Kitô. Điều này cần phải thực hiện là cộng đồng này không được đối nghịch với cộng đồng khác nhân danh Chúa Kitô “riêng” của mình, vì chỉ có một Chúa Kitô duy nhất.

Tôi nghĩ rằng, từ ban đầu, chính việc cấu tạo của Giáo Hội đã được làm nên bởi mối hiệp nhất và đa dạng này. Như chúng ta thấy, mối hiệp thông của Giáo Hội là một sự kiện thần học, chứ không phải là một sự kiện xã hội học. Bất cứ ai muốn biến quan niệm về hiệp thông này thành một quan niệm thuần túy xã hội là kẻ đã vấp phạm lỗi lầm.

Vấn     Thế nhưng phải chăng mối hiệp thông này có những thành quả về xã hội?

Đáp     Tôi xin làm sáng tỏ vấn đề là không phải chỉ liên quan đến việc vun xới những mối liên hệ đúng đắn giữa Tòa Thánh Rôma và các Giáo Hội địa phương, mà còn, trên hết, duy trì mối hiệp nhất và đa dạng làm nên Giáo Hội nữa.

Các Giáo Hội địa phương cần phải sống những chuyên biệt về văn hóa và lịch sử của mình bằng việc hội nhập chúng vào mối hiệp nhất của tòan thể, cởi mở chấp nhận những đóng góp tốt đẹp của các Giáo Hội khác, nhờ đó không ai dẽ đi vào con đường mà những người khác không biết.

Tòa Thánh Rôma, một tòa thành giúp ĐTC trong việc Ngài phục vụ cho mối hiệp nhất ấy, có phận sự phải cổ võ việc hiểu biết này giữa các Giáo Hội địa phương để nhờ đó những cái khác biệt trở thành một thực tại đa âm làm sống động mối hiệp nhất và đa dạng.

Vấn     Nguyên tắc phụ thuộc nơi mối liên hệ giữa “tâm điểm” và “chu vi”, giữa Tòa Thánh và các Giáo Hội địa phương khác nhau quan trọng ra sao?

Đáp     Nó là một quan niệm về kỹ thuật cần phải bàn luận thêm chi tiết để thấy được ý nghĩa của nó.

Nó có thể được chấp nhận ở chỗ việc chú trọng đến mối hiệp nhất không được làm lịm tắt đi những đặc sủng ở các Giáo Hội địa phương; trái lại, còn phải khuyến khích chúng và lấy chúng vào việc phục vụ cho một Giáo Hội duy nhất.

Một mặt thì việc phục vụ trung ương của Tòa Thánh Rôma không được pha mình vào những gì có thể thực hiện tốt đẹp hơn ở một phần cụ thể nào đó của Giáo Hội; tuy nhiên, mặt khác thì các Giáo Hội địa phương không được sống một cách tự động mà không hướng đến chỗ làm phong phú mối hiệp nhất, vì chỉ có một Chúa Kitô duy nhất.

Vấn     Chúng ta hãy đưa ra một thí dụ liên quan đến vấn đề này. Chẳng hạn có những nghi ngờ gì về tính cách tông truyền của một thần học gia, thì phải chăng Giáo Hội địa phương là nơi cư trú của vị thần học gia này không được can thiệp gì trước khi có sự can thiệp của thánh bộ do ĐHY là tổng trưởng?

Đáp     Ở đây, nơi thánh bộ này, chúng tôi lấy làm hài lòng khi thấy một vị giám mục hay hội đồng giám mục nhúng tay vào việc giải quyết những vấn đề loại này. Tuy nhiên, các vị thường nói với chúng tôi rằng những vấn đề đó vượt ra ngoài giới hạn của Giáo Hội địa phương, vì những vấn đề đó liên quan tới việc tranh luận của Giáo Hội hoàn vũ, nên cần chúng tôi giúp đỡ.

Vấn     Phải chăng các vị ấy trốn lánh trách nhiệm của mình?

Đáp     Không phải vậy, tôi không dám nói điều gì như thế. Chúng tôi bao giờ cũng khuyến khích các vị giám mục hãy tự nhúng tay vào việc giải quyết những vấn đề như vấn đề quí vị vừa đề cập tới. Thế nhưng, trong một thế giới càng ngày càng toàn cầu hóa hơn này thì đây là một điều hết sức khó khăn.

Vấn     Từ Công Đồng Chung Vaticanô II có những tiến triển ra sao nơi đoàn tính của hàng giáo phẩm?

Đáp     Có một bước tiến bộ khả quan. Tôi đang nghĩ tới việc phát triển của những cuộc viếng thăm “ngũ niên”. Tôi nhớ là cuộc viếng thăm đầu tiên tôi thực hiện vào năm 1977. Tôi là Tổng Giám Mục Municj chỉ trong một thời gian ngắn. Tất cả cuộc viếng thăm này bao gồm việc gặp gỡ vị tổng trưởng Thánh Bộ Giám Mục, kính viếng các đền thờ và triều kiến với Đức Phaolô VI.

Giờ đây các vị giám mục gặp tất cả mọi thánh bộ và hội đồng. Một cuộc bàn luận sống động và hữu hiệu được diễn ra. Và các vị giám mục lấy làm biết ơn về việc này, vì một mặt thì Tòa Thánh hiểu được hơn nữa những gì đang xẩy ra ở các miền địa dư và văn hóa khác nhau; mặt khác thì các vị giám mục có thể cùng nhau tìm cách giải quyết những vấn đề các vị muốn cũng như hiểu hơn được những gì huấn quyền mong muốn.

Tôi cho quí vị một thí dụ khác, đó là những liên lạc thường xuyên chúng tôi thực hiện với những vị chủ tịch các hội đồng giám mục cũng như những cuộc viếng thăm nhau. Nhờ đó tăng thêm việc hiểu biết thông cảm nhau.

Ngoài ra cũng không được quên những thượng hội giám mục. Tóm lại, vẫn có một cuộc trao đổi liên tục giữa tâm điểm và chu vi làm kiên cố cho việc dấn thân chung phục vụ một Giáo Hội duy nhất.

Vấn     Phải chăng các hội đồng giám mục không có giá trị gì ngoài việc là một phương tiện của đoàn tính?

Đáp     Tôi sẽ phân biệt giữa các hội đong nhỏ, có khoảng 10 hay 15 phần tử, với những hội đồng lớn, có thể với hơn 200 vị giám mục.

Trong trường hợp thứ nhất, hội đồng giám mục này thực sự là một phương tiện của vấn đề điều hợp, của một cái nhìn chung, của sự giúp đỡ lẫn nhau cũng như của việc sữa chữa cho nhau khi cần.

Trong trường hợp của những hội đồng lớn, khi những hội đồng này phải đối diện với những đống giấy tờ cần phải đọc, những lịch trình trong ngày với cả chục vấn đề cần phải bàn luận, thì tôi nghĩ rằng không thể nào thực sự có được một cuộc đối thoại sâu xa cả. Cũng có thể nguy hiểm là những vấn đề bàn luận và giải quyết đã được thực hiện trước bởi những văn phòng, bởi chính sách quan liêu.

Trong trường hợp những hội đồng lớn thì việc tranh luận có lẽ cần phải được giới hạn vào một ít những vấn đề thích đáng thôi và phân phối những gì còn lại cho mỗi một Giáo Hội địa phương. Vấn đề quan trọng là các hội đồng này cần phải trở thành một khí cụ tùy cơ ứng biến.

Vấn     ĐHY đã đề cập đến vấn đề thượng nghị giám mục như là một thí dụ về sự tiến bộ nơi đoàn tính. Ngài có thích phương thức hiện nay của các hội đồng thượng hội giám mục này hay chăng?

Đáp     Mặc dù đây hoàn toàn là một ý kiến cá nhân, tôi cũng có thể nói rằng đó là một phương thức phần nào được nghi thức hóa. Nó bảo đảm một nhịp điệu nhanh lẹ ở những cuộc họp bàn làm việc, nhưng nó lại bất tiện ở chỗ không thể thực hiện được một cuộc bàn luận thực sự giữa các vị giám mục tham dự.

Chắc chắn là cần phải bảo đảm được tốc độ của công việc này. Thế nhưng cuộc bàn luận thực sự và hữu hiệu cũng cần phải có thời gian nữa.

Vấn     Cuốn sách của ĐHY khiến tôi nghĩ rằng ĐHY không có một ưu tiên đặc biệt nào trong việc áp dụng quan niệm về Dân Chúa vào Giáo Hội cả.

Đáp     Điều này không đúng. Quan niệm về Dân Chúa là một quan niệm trong Thánh Kinh. Đúng hơn, tôi không thích độc đoán sử dụng quan niệm này, một quan niệm ngược lại đã hoàn toàn có một câu định nghĩa rõ ràng trong Sách Thánh.

Trong Cựu Ước, Do Thái là Dân Chúa, trước hết là vì dân này đã chấp nhận tiếng gọi và việc tuyển chọn của Thiên Chúa, vì họ đã đáp lại ý muốn của Thiên Chúa. Nó không phải là một quan niệm bất dịch mà là năng động, ở chỗ, nó là Dân Chúa như dân Do Thái, nhưng việc nó là Dân Chúa cần phải luôn luôn được đổi mới theo khả năng liên hệ của nó với Ngài. Đó là những gì nền tảng trong Cựu Ước.

Vấn     Thế còn trong Tân Ước thì sao?

Đáp     Trong hầu hết tất cả mọi đoạn Tân Ước thì quan niệm này ám chỉ dân Do Thái, và chỉ có hai hay ba đoạn ám chỉ Giáo Hội mà thôi. Bởi thế Giáo Hội mới được cho rằng thừa hưởng việc tuyển chọn của dân Do Thái; Giáo Hội tham phần vào việc làm Dân Chúa này.

Thế nhưng, cả ở đây nữa, nó không phải là vấn đề về một sản vật được chiếm hữu: Giáo Hội đã trở nên Dân Chúa theo chiều hướng được tuyển chọn này. Tuy nhiên, thêm vào quan niệm của Cựu Ước là một đường lối mới trong việc hội nhập với ý muốn của Thiên Chúa, đó là việc hiệp thông với Chúa Kitô.

Có một nguyên tắc thần học, rồi đến việc cụ thể hóa Kitô học, nhưng trước hết có một năng lực quan trọng không cho phép được kiêu hãnh cho rằng “Chúng tôi là Dân Chúa”. Chúng ta bao giờ cũng phải hoán cải thành Dân Chúa và chỉ theo chiều hướng này thì quan niệm ấy mới có giá trị. Ngược lại, nếu chúng ta coi nó như là một mẫu thức phàm tục, phi kinh thánh, thì quan niệm về Giáo Hội sẽ bị pha phôi một cách trầm trọng.

Vấn     Trong cuốn sách của mình, ĐHY tỏ ra gắt gao với bất cứ ai sử dụng phụng vụ như là một cách truyền đạt mà thôi, như một phương tiện giáo dục tín hữu. Tại sao?

Đáp     Tôi muốn nói hẳn rằng phụng vụ là việc truyền đạt và là việc mục vụ.

Tôi chống lại những ai nghĩ rằng phụng vụ chỉ là việc truyền đạt khi phụng vụ bị biến thành một cảnh tượng, biến thành một “màn trình diễn”, bị suy giảm thành những gì rất nhỏ đối với cả một công việc nghệ thuật vĩ đại theo bản chất của phụng vụ khi phụng vụ được cử hành đàng hoàng bằng cả nội tâm con người.

Trong 20 năm qua, việc tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật ở Đức đã giảm xuống 70%. Tín hữu không còn cảm thấy tham dự vào những việc cử hành “mới mẻ” chẳng có nghĩa gì với họ cả. Phụng vụ rất thường bị đối xử như là một điều gì đó có thể loại bỏ tùy sở thích, như thể nó là một sản vật riêng của chúng ta. Thế nhưng, làm như thế là chúng ta đã gây hư hoại cho phụng vụ vậy.

Vấn     Phải chăng dự tưởng về một thứ kiêng chay Thánh Thể (không Rước Lễ), được ĐHY hình như gợi lên, ngược lại với những lời khuyến dụ của nhiều vị Giáo Hoàng, bắt đầu từ Đức Piô X?

Đáp     Không phải thế. Lần đầu tiên tôi đã nêu lên dự tưởng này cả 15 hay 20 năm trước đây, liên quan tới việc cử hành Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, một ngày chay tịnh.

Chúng ta thấy nguồn gốc của việc chay tịnh này trong Phúc Âm Thánh Marcô: “Sẽ có những ngày khi mà chàng rể không còn ở với họ nữa thì bấy giờ họ mới chay tịnh”. Ngay từ thế kỷ đầu đã thực hành việc chay tịnh trong Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, một việc thể hiện lòng chúng ta “cảm thương” Chúa Kitô, Đấng đã chịu chết trên cây thập giá vì chúng ta.

Lần thứ hai tôi đã nói về dự tưởng này khi lên tiếng về thành phần ly dị tái hôn, như ngày nay cho thấy họ thực sự là thành phần duy nhất không được Rước Lễ.

Mỗi người chúng ta cần phải suy nghĩ xem mình có cần phải liên hệ bản thân mình hay chăng, ít là ở một số trường hợp, vào tình trạng bị ngoại trừ này. Nhờ đó, chúng ta tỏ cho họ thấy dấu hiệu của tình đoàn kết, và chúng ta sẽ có cơ hội để đi sâu hơn vào đời sống thiêng liêng của mình.

Tôi thấy rằng có nhiều lần, trong các lễ mồ, lễ cưới cũng như nhiều trường hợp khác, người ta lên Rước Lễ như thể đó là một phần của lễ nghi vậy, tức nó là một bữa tối mà người ta cần phải ăn. Thế nhưng, làm như thế là người ta không còn sống tính cách sâu xa thiêng liêng của biến cố này nữa, một biến cố bao giờ cũng là một thách đố lớn lao cho mỗi một người trong chúng ta.

Tôi thực sự đồng ý với các vị đại giáo hoàng khi các ngài nói rằng chúng ta cần Hiệp Lễ vì chỉ có Chúa mới là Đấng có thể ban cho chúng ta những gì chúng ta không thể tự mình chiếm hữu. Chính vì chúng ta thiếu thốn mà chúng ta mới cần đến sự hiện diện của Người. Tuy nhiên, chúng ta cần phải tránh đi một thứ nghi thức hời hợt làm hạ giá tác động này, và hãy cố gắng đi sâu vào tính cách cao cả của nó.

Vấn     Đối với thành phần ly dị tái hôn, ĐHY có nghĩ rằng tình trạng bị loại trừ không được Rước Lễ này sẽ tiếp tục có hiệu lực hay chăng?

Đáp     Nếu cuộc hôn nhân đầu tiên đã hiệu thành mà họ (đôi tân hôn) lại sống trong một cuộc hiệp nhất phản lại với mối ràng buộc của bí tích này thì việc không được Rước Lễ vẫn còn hiệu lực.

Tuy nhiên, tôi thấy rằng cần phải bàn luận rộng hơn nữa về vấn đề này nhờ đó tránh triệt để áp dụng việc Rước Lễ vào tất cả mọi hoàn cảnh đau thương thuộc trường hợp này. Cần phải giúp cho những con người này sống trong cộng đồng giáo xứ, chia sẻ nỗi đớn đau của họ, tỏ cho họ thấy rằng họ được yêu mến và họ thuộc về Giáo Hội cũng như Giáo Hội cùng khổ đau với họ.

Tôi nghĩ cần phải nới rộng trách nhiệm chung này, hầu giúp đỡ lẫn nhau, để vác đỡ gánh nặng của nhau trong tình huynh đệ.

Vấn     Hiện nay ĐHY quan tâm nhất đến những vấn đề nào của Giáo Hội?

Đáp     Tôi xin nói ngay rằng cái khó khăn hiện nay là vấn đề tin tưởng. Xu hướng tương đối đã trở thành tự nhiên đối với con người của thời đại chúng ta đây.

Ngày nay nó được coi là một hành động hãnh diện, một hành động không hợp với thái độ khoan nhượng, khi nghĩ rằng chúng ta thực sự đã nhận được sự thật của Chúa. Tuy nhiên, hình như khoan nhượng nghĩa là tất cả mọi tôn giáo và văn hóa cần phải được coi ngang hàng với nhau. Theo chiều hướng này thì tin tưởng là một tác động càng trở nên khó khăn hơn nữa.

Bởi thế chúng ta mới chứng kiến thấy một tình trạng âm thầm mất đức tin, không cần phải có những đối chọi xẩy ra, nơi một phần lớn Kitô giáo. Đó là mối quan tâm lớn nhất.

Bởi vậy chúng ta cần phải tự hỏi xem trong trào lưu tương đối thuyết này chúng ta có mở lại cửa cho sự hiện diện của Chúa hay chăng, cho việc Giáo Hội tỏ cho biết về Người hay chăng. Bấy giờ chúng ta mới thực sự chấp nhận việc khoan nhượng, một thứ khoan nhượng không lạnh lùng dửng dưng, mà là yêu thương tôn trọng người khác, giúp đỡ nhau tiến bước trong cuộc sống.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày 22-23/2/2004

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ