GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ HAI 2/5/2005 |
1) Đức Gioan Phaolô II: Vị Giáo Hoàng của Mẹ Fatima và cho Lòng Thương Xót Chúa
2) Đức Gioan Phaolô II: NGười Hùng của Lịch Sử Đông Âu
3) Đức Gioan Phaolô II: Kiến Trúc Sư xây dựng hòa bình thế giới, đặc biệt ở Trung Đông nhất là ở Iraq
Nhân giỗ 30 ngày (2/4-5/2005) Vị Giáo Hoàng "vui mừng và hy vọng" của "Giáo Hội trong Thế Giới Tân Tiến", Đức tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã dâng Lễ cầu cho ngài tại nguyện đường riêng của mình vào lúc 7 giờ 30 sáng nay và sẽ viếng thăm hầm mộ của ngài vào lúc 7 giờ tối này. Thoidiemmaria cũng xin phổ biến một số bài đặc biệt về ngài như sau:
Đức Gioan Phaolô II: Vị Giáo Hoàng của Mẹ Fatima và cho Lòng Thương Xót Chúa
Nếu chưa có một lễ an táng nào uy nghi trang trọng nhưng lại vui nhộn tưng bừng hân hoan như của vị giáo hoàng vừa nằm xuống vào ngày Thứ Bảy Đầu Tháng lễ vọng Chúa Tình Thương hôm 2/4/2005 vừa rồi, thì phải thú thực là chưa bao giờ người Công giáo nói riêng và Giáo Hội Công giáo nói chung cảm thấy vinh dự qua cái chết của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II như vậy. Với cái chết của Mẹ Têrêsa Calcutta, một nữ tu Kitô hữu Công giáo được cả thế giới ngưỡng mộ khi còn sống cũng như lúc qua đời và được một nước theo Ấn giáo thực hiện một cuộc quốc táng, Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng đã lấy làm vinh dự lắm rồi về con người được tặng biệt danh là “Biểu hiệu Đức Ái Kitô giáo”. Thế nhưng, với cái chết của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, qua Thánh Lễ an táng chưa từng có trong lịch sử, phải nói là vinh dự của Giáo Hội Công giáo đã lên đến tuyệt đỉnh.
Thế nhưng, muốn biết tại sao con người Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được cả thế giới ngưỡng mộ và đã đi vào lịch sử loài người như thế, một con người ở vào trường hợp chẳng những thời thế tạo anh hùng (khi Balan bị khống chế bởi Đức Quốc xã và Cộng Sản) mà còn thánh nhân tạo lịch sử (vai trò giáo hoàng rao giảng Phúc Âm Sự Sống khắp nơi trên thế giới bằng giáo thuyết cũng như bằng các cuộc tông du theo đường hướng duc in altum), một con người không phải chỉ là một thứ hiện tượng hay thần tượng nhất thời, mà là một di sản đã được hầu như mọi người hết lòng trân quí và là một tên tuổi được lịch sử thế giới vinh danh như vĩ nhân, chúng ta cần phải trở về nguồn để biết được đâu là ý muốn của Đấng làm chủ lịch sử trong việc Ngài chọn con người đặc biệt này ở vào thời điểm đặc biệt ấy.
Thật vậy, ý nghĩa của tất cả mọi sự nói chung và của cuộc đời con người nói riêng là ở tại cùng đích hay mục đích của nó. Nghĩa là, nếu con người ý thức được và tận lực đạt đến cùng đích của mình là họ đã sống một cuộc đời hết sức ý nghĩa rồi vậy. Mà mục đích của đời sống con người, một mục đích làm nên cốt lõi và là ý nghĩa đời sống của con người, được chất chứa nơi hay phản ánh qua ơn gọi hay sứ vụ của họ. Tức là, con người được kêu gọi để đạt tới cùng đích của mình, và nếu không đạt được cùng đích của mình là con người không làm trọn sứ vụ của họ, trái lại, khi họ nỗ lực sống trọn ơn gọi hay sứ vụ của họ là họ đã sống đúng với ý nghĩa của cuộc đời họ.
Nơi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thế, muốn hiểu được tất cả ý nghĩa của những gì ngài đã làm cho Giáo Hội trong 26 năm rưỡi, chúng ta cần phải nắm được chính cái cốt lõi của giáo triều ngài, hay nói cách khác, chúng ta cần phải biết rõ ơn gọi của ngài, tức là ngài được Thiên Chúa chọn làm giáo hoàng vào thời điểm Giáo Hội ở vào hậu bán thế kỷ 20 (chỉ còn chưa đầy 1 phần 4 thế kỷ) sau Công Đồng Chung Vaticanô II và mới bước vào ngàn năm thứ ba Kitô giáo đây để làm gì? Theo tôi, ơn gọi của vị giáo hoàng thứ 264 này của Giáo Hội là “để dọn đường cho lần đến cuối cùng của Cha”, đúng như lời Chúa Giêsu đã nói với vị thánh đầu tiên của đệ tam thiên kỷ là Faustina, vị tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa và là vị đã được đức giáo hoàng Balan phong thánh vào Chúa Nhật II Phục Sinh, 30/4/2000.
Vâng, vào năm 1994, khi Giáo Hội bắt đầu giai đoạn xa (1994-1997, vì giai đoạn gần từ 1997-2000) dọn mừng Năm Thánh 2000, bấy giờ tôi đang chuyển dịch bộ sách (2 cuốn dầy 920 trang) “Tội Tràn Lan … Phúc Ngập Lụt!”, xuất bản năm 1995, nội dung bao gồm “Những lời thỏ thẻ của Chúa Giêsu với một số linh hồn ưu tuyển”, trong đó có Thánh nữ Faustina, tôi đã đọc thấy những lời Chúa Giêsu nói với chị như thế này:
· “Khi tôi đang cầu nguyện thì tôi nghe thấy những lời của Chúa Giêsu như sau: ‘Cha đặc biệt yêu thương Balan, mà nếu Balan tuân theo ý muốn của Cha thì Cha sẽ nâng Balan lên trong quyền năng và thánh thiện. Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming”. (Nhật Ký về Lòng Chúa Thương Xót trong Hồn Tôi của chị Faustina, khoản số 1732)
Những lời này làm tôi vô cùng sửng sốt và nghĩ ngay đến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Và tôi đã khai triển câu nói của Chúa Giêsu luôn ám ảnh tôi, mà tôi nghĩ rằng Người ám chỉ đến ĐTC GPII ấy, trong cuốn Hận Thù Quyết Thắng, xuất bản năm 1996, ở Chương 5, từ trang 53 đến 64. Thú thật, cho tới khi thấy bệnh tình của ngài càng ngày càng trầm trọng, tình trạng nguy kịch này lại xẩy ra sát kề ngày Lễ Chúa Tình Thương, tôi cảm thấy thôi đúng rồi, câu Chúa Giêsu nói ấy quả thực ám chỉ về ngài. Để rồi, khi hay tin ngài quả thực qua đi vào thời điểm Lễ Vọng Kính Chúa Tình Thương, và đã qua đi không lâu ngay sau Thánh Lễ (vọng) Kính Chúa Tình Thương được cử hành ở phòng của ngài, tôi lại càng cảm thấy lời Chúa Giêsu quả thực nói về vị giáo hoàng có nhiều điềm lạ này.
Chưa hết, sau đó, tôi càng xúc động hơn nữa và càng cảm thấy thấm thía lời Chúa Giêsu nói về ngài như “một tia sáng phát ra từ Balan để dọn đường cho lần đến cuối cùng của Cha” hơn bao giờ hết, khi biết rằng sứ điệp cuối cùng vị giáo hoàng vừa nằm xuống gửi cho riêng Giáo Hội và thế giới, một sứ điệp được đọc lên sau khi ngài đã vĩnh viễn ra đi, sau khi ngài đã hoàn tất sứ vụ chủ chăn nhân lành của mình cho đến hơi thở cuối cùng, đó là sứ điệp ngài đã viết sẵn cho Lễ Kính Chúa Tình Thương Chúa Nhật 3/4/2005 về Lòng Thương Xót Chúa.
Nếu quả thực sứ mệnh của “tia sáng (Karol Wojtyla - Gioan Phaolô II) phát hiện từ Balan” này là “để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha” đây, thì “tia sáng” này đã thực hiện sứ vụ ấy của mình như thế nào và đã hoàn tất sứ vụ này chưa mà qua đi rồi?
Chúng ta không biết được Chúa Giêsu có quả thực nói với chị Faustina câu nói có tính cách tiên tri “rùng rợn” (đối với nhiều người) ấy hay chăng, nhưng biết chắc một điều là nó có đó, như đã được chị viết ra, trong tập nhật ký của chị, và là một câu đã được chính vị giáo hoàng đồng hương của chị trích lại khi ngài về thăm Balan lần thứ tám, cũng là lần cuối cùng, vào thời đoạn 16-19/8/2002, ở bài giảng hôm Thứ Bảy 17/8/2002, trong Thánh Lễ cung hiến tân Đền Thờ Chúa Tình Thương, nơi cách đó không xa là khu hầm mỏ Solvay, địa điểm khi còn trẻ ngài đã làm việc trong thời kỳ Nazi chiếm đóng Balan, và đó là lý do khiến ngài đã hết sức xúc động bộc phát lên những lời cảm kích như sau: “Ai có thể nghĩ rằng có người đã từng bước đi ở nơi đây với những chiếc giầy bằng gỗ mà một ngày kia lại là người cung hiến ngôi đền thờ này nhỉ?” Trong bài giảng của mình, ngài đã đề cập tới lời Chúa Giêsu nói với chị Faustina về “một tia sáng phát ra từ Balan…”, ám chỉ về chính Lòng Thương Xót Chúa từ Balan tỏa khắp thế giới như sau:
· “Thế nên, hôm nay đây, tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng ký thác thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa. Tôi làm như vậy với một lòng thiết tha mong ước thấy sứ điệp của tình yêu nhân hậu Thiên Chúa, được loan báo nơi đây qua Thánh Faustina, cũng được tất cả mọi dân tộc trên thế giới biết đến và làm cho lòng họ tràn đầy niềm hy vọng. Chớ gì sứ điệp này, từ nơi đây, chiếu tỏa ra cho quê hương thân yêu của chúng ta cũng cho khắp thế giới. Chớ gì lời hứa quyết của Chúa Giêsu được nên trọn, ở chỗ, từ nơi đây phải chiếu giãi ra ‘tia sáng sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha’ (x Nhật Ký, 1732). Tia sáng này cần phải thắp lên bởi ân sủng của Thiên Chúa. Ngọn lửa tình thương này cần phải được chuyền đi cho thế giới. Trong tình thương của Thiên Chúa thế giới mới tìm thấy hòa bình và nhân loại mới tìm thấy hạnh phúc!”
Phải chăng vị giáo hoàng, vì đọc được những lời này, thậm chí hoàn toàn tin tưởng những lời ấy, mà vào ngày 11/5/1997, tại Lebanon, ngài đã, vô tình hay cố ý, thốt lên những lời rõ ràng như sau:
· “Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
Để kết thúc tập sách nhỏ này về vị giáo hoàng của “Phúc Âm Sự Sống – Evangelium Vitae” đối với thế giới tân tiến ngày nay, cũng là vị giáo hoàng của “Giáo Hội sống bởi Thánh Thể – Ecclesia de Eucharistica” đối với Giáo Hội của ngàn năm thứ ba, không thể không nói đến mối liên hệ chặt chẽ giữa ngài và Mẹ Maria. Không phải chỉ ở chỗ ngài đã chọn khẩu hiệu giáo hoàng (chưa từng có trong lịch sử giáo hội) của ngài về Mẹ theo Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort): “Totus Tuus ego sum – Con hoàn toàn thuộc về Mẹ”, mà còn ở chỗ cuộc đời của ngài đã được gắn liền với Biến Cố Fatima nói chung và Bí Mật Fatima nói riêng, một mối liên hệ chẳng những dính dáng tới lịch sử thế giới mà còn tới Lòng Thương Xót Chúa, tới sứ vụ là “ánh sáng phát hiện từ Balan để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha” của ngài.
Mối liên hệ giữa Đức Gioan Phaolô II và Đức Mẹ Fatima được thể hiện qua những sự kiện sau đây:
Biến Cố Fatima có liên hệ mật thiết tới hòa bình thế giới nói chung và Nước Nga theo chủ nghĩa cộng sản nói riêng. Ở chỗ:
Thứ nhất, Đức Mẹ đã chọn thời điểm hiện ra ở Fatima từ tháng 5 đến tháng 10/1917, giữa thời khoảng biến chuyển ở Nga, vì Lenin từ ngoại quốc về nước (Nga) vào tháng 4/1917 và Cách Mạng Tháng Mười thành công vào tháng 11/1917;
Thứ hai, Bí Mật Fatima, phần thứ hai đã nói rõ ràng “Nước Nga sẽ reo rắc lầm lạc khắp nơi, gây chiến tranh và bắt bớ Giáo Hội… Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga, Nước Nga sẽ trở lại và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình”;
Thứ ba, Bí Mật Fatima, phần thứ ba, là một thị kiến, đã cho thấy hình ảnh của những gì đã được Đức Mẹ tiên báo về Nước Nga ở phần Bí Mật Fatima thứ hai trên đây, trong đó, vị giám mục mặc áo trắng (tức đức giáo hoàng) bị sát hại;
Thứ bốn, điều kiện để “thế giới được hưởng một thời gian hòa bình” là Nước Nga trở lại.
Ngoài ra, Sứ Điệp Fatima còn mở màn và chất chứa tất cả Lòng Thương Xót Chúa nữa:
Trước hết, ở lời cầu “Lạy Chúa Giêsu xin Chúa tha tội chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn”, Lời Nguyện Mân Côi Fatima được Mẹ Maria, sau khi tiết lộ Bí Mật Fatima cho ba em thiếu nhi Lucia, Phanxicô và Giaxinta biết vào lần hiện ra thứ ba 13/7/1917, bảo các em đọc sau mỗi chục Kinh Mân Côi;
Sau nữa, ở lời Mẹ Maria cho ba em thiếu nhi Fatima này biết vào lần hiện ra thứ 4, 19/8/1917 rằng: “Các con hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện thật nhiều và hãy hy sinh cho các tội nhân; vì nhiều linh hồn bị sa hỏa ngục vì không có ai chịu hy sinh cầu nguyện cho họ”;
Sau hết, ở lời Mẹ Maria thảm thiết kêu gọi để kết thúc Biến Cố Fatima vào lần hiện ra cuối cùng 13/10/1917, đó là “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”.
Riêng lời kêu gọi cuối cùng kết thúc Biến Cố Fatima 1917 này, một lời kêu gọi đã liên hệ chẳng những với những gì xẩy ra trước năm 1917 mà còn xẩy ra sau năm 1917 nữa.
Trước năm 1917, lời Đức Mẹ kêu gọi “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi” là lời kêu gọi liên quan đến Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đã được Thiên Thần Hòa Bình hiện ra với 3 em Thiếu Nhi Fatima vào năm 1916 ba lần: lần nhất vào mùa xuân để dạy cho các em biết cầu nguyện với Chúa Giêsu Thánh Thể, lần hai vào mùa hè để dạy cho các em biết hy sinh cho Chúa Giêsu Thánh Thể, và lần thứ ba vào mùa thu để dạy cho các em biết đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể.
Sau năm 1917, lời Đức Mẹ kêu gọi “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi” liên quan đến Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu Thánh Thể, như nữ tu Lucia, em thiếu nhi Fatima thụ khải còn sống sót đã được thị kiến thấy trong giờ chầu Thánh Thể về đêm (từ 11 đến 12 giờ khuya) của mình trong nguyện đường của nhà dòng Đorôthêu của chị ở Tuy, Tây Ban Nha, ngày 13/6/1929.
Theo chị kể lại thì khi chị đang giang tay cầu nguyện, đột nhiên, cả nhà nguyện bừng sáng, không còn lờ mờ với ngọn đèn chầu nhà tạm nữa. Một thánh giá bằng ánh sáng hiện ra trên bàn thờ cao lên tới trần nhà nguyện. Phần trên của cây thánh giá sáng hơn, có dung nhan cùng với thân mình của một người từ cạnh sườn trở lên; trên ngực của người này có một con chim câu bằng ánh sáng; bị đóng đanh vào thập giá là thân mình của một người khác. Dưới cạnh sườn chút xíu, có một chén thánh và một bánh thánh lớn lơ lửng trên không trung. Những giọt máu từ mặt của Chúa Giêsu Tử Giá và từ cạnh sườn của Người chảy xuống bánh thánh và nhỏ vào chén thánh. Bên phải cây thánh giá là Đức Mẹ với Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội ở trong tay Mẹ. Bên trái cây thánh giá có những chữ lớn như thể bằng nước trong như thủy tinh chảy xuống trên bàn thờ làm thành những chữ: "Ân Sủng và Tình Thương".
Như thế, nếu Biến Cố Fatima là biến cố liên quan tới hòa bình thế giới nói chung và Nước Nga theo chủ nghĩa cộng sản nói riêng, và Sứ Điệp Fatima là sứ điệp về Thánh Thể và Lòng Thương Xót Chúa, thì Đức Gioan Phaolô II quả thực đã có một liên hệ hết sức mật thiết với Đức Mẹ Fatima, ở những điểm trùng hợp sau đây:
Thứ nhất, nếu Biến Cố Fatima liên quan tới Nước Nga và cộng sản thì vị giáo hoàng này đã không đột xuất từ một nước Balan theo cộng sản vì đã bị quan thày Nga “gieo rắc lầm lạc” hay sao! Phải chăng Thiên Chúa quan phòng, Đấng làm chủ lịch sử loài người, đã chẳng có ý chọn ngài vào thời điểm ấn định để dẹp bỏ cộng sản Âu Châu?
Thứ hai, nếu Bí Mật Fatima, ở phần thứ hai đã báo trước là “Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng nước Nga”, và ở phần thứ ba đã cho thấy vị giám mục mặc áo trắng bị sát hại, thì không phải vị giám mục Rôma duy nhất trên thế giới mặc áo trắng ấy là giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bị ám sát tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào ngày 13/5/1981, đúng vào ngày kỷ niệm Mẹ Maria hiện ra ở Fatima lần đầu tiên vào năm 1917 hay sao, một biến cố làm cho ngài đã hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ vào ngày 25/3/1984, theo đúng như cách thức Thiên Chúa muốn, như Mẹ Maria đã tỏ cho chị Lucia biết từ ngày 13/6/1929, điều chị cũng đã đệ trình Đức Piô XII qua thư đề ngày 24/10/1940?
Thứ ba, nếu Sứ Điệp Fatima liên quan đến Chúa Giêsu Thánh Thể (13/7,18/9,13/10/1917) và về Lòng Thương Xót Chúa (thị kiến 13/6/1929), thì vị giáo hoàng thứ tha cho kẻ sát hại mình và xin ân xá cho kẻ sát hại ấy, vị giáo hoàng đã thực hiện việc xin lỗi và tha lỗi vào Ngày Tha Thứ 12/3/2000, đã không mở Năm Mân Côi (16/10/2002-19/10/2003) để cùng Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô qua các Mầu Nhiệm Mân Côi (xem Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, khoản số 3), kể cả 5 Mầu Nhiệm Mân Côi Ánh Sáng mới được ngài thêm vào (xem cùng Tông Thư, đoạn 21), nhất là cùng Mẹ chiêm ngưỡng Người trong Năm Thánh Thể (10/10/2004-29/10/2005), một mầu nhiệm Thánh Thể phát xuất từ tình thương vô biên của Thiên Chúa, một Lòng Thương Xót Chúa đã được ngài chính thức kêu gọi cả Giáo Hội tôn thờ và tin tưởng khi thêm vào Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh ý nghĩa Lòng Thương Xót Chúa, theo đúng như ý muốn Chúa Giêsu đã yêu cầu chị Faustina xin với Giáo Hội làm như thế.
Nếu vị giáo hoàng đến “từ một xứ sở xa xăm” này, qua 26 năm rưỡi, đã làm hết sức để chu toàn ơn gọi cũng là sứ vụ của mình trong việc mang con người về với Lòng Thương Xót Chúa, thì quả thực ngài đã dọn đường cho “lần đến cuối cùng” của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”, Đấng “đến thế gian lần thứ hai không phải để xóa tội lỗi nữa mà là để cứu những ai thiết tha trông đợi Người” (Heb 9:28), Đấng đã báo trước cho chị Thánh Faustina biết rõ dấu hiệu của ngày cùng tháng tận như sau:
· "Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý - Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
Chẳng những chính Vị Chủ Chăn Tối Cao của Giáo Hội là vị giáo hoàng Gioan Phaolô II đi khắp thế giới để loan truyền Tin Mừng Sự Sống là Lòng Thương Xót Chúa, mà cả thành phần chi thể của Giáo Hội nữa, điển hình nhất là Mẹ Têrêsa Calcutta, vị sáng lập hội dòng Chư Thừa Sai Bác Ái, phục vụ thành phần nghèo nhất trong những người nghèo, căn cứ vào Lời Chúa dạy ai phục vụ anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô là làm cho chính Chúa.
Nơi Mẹ Têrêsa Calcutta và Đức Gioan Phaolô II, chúng ta thấy được những dấu chỉ thời đại về “lần đến cuối cùng của Cha” như thế này: Nơi Mẹ Têrêsa, niềm tin phục vụ cho anh chị em hèn mọn nhất tức làm cho chính Chúa Kitô là những gì được Vị Thẩm Phán sẽ đến trên mây trời sử dụng để phán xét nhân loại trong cuộc chung thẩm (x Mt 25:40,45); và nơi Đức Gioan Phaolô II, vấn đề thần học về thân thể (theology of body) được ngài quảng diễn trong loạt bài giáo lý về nhân loại học siêu nhiên liên quan đến chủ đề “tình yêu và trách nhiệm” mở màn cho giáo triều của ngài, từ ngày 5/9/1979 đến 21/11/1984, một thân thể liên quan tới niềm tin xác sống lại để chịu phán xét (x.2Cor 5:10), tới sự cứu độ của xác thể (x Rm 8:23).
Tóm lại, nếu đối nội, Đức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng được chúa chọn để dẫn Giáo Hội tiến vào ngàn năm thứ ba Kitô giáo bằng cách bước qua ngưỡng cửa Đại Năm Thánh 2000, thì đối ngoại, Đức Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng của “Giáo Hội trong thế giới tân tiến”, mang “vui mừng và hy vọng” là “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” đến cho một thế giới tân tiến nhưng lại đầy lo âu và nguy biến tự diệt trong nền văn hóa sự chết, bằng cách, qua các giáo huấn đầy “Phúc Âm Sự Sống” cùng với những cuộc tông du khắp nơi trong tinh thần đại kết toàn cầu, đã luôn kêu gọi con người đừng sợ mà hãy mở cửa cho Chúa Kitô, nghĩa là hãy tin vào Lòng Thương Xót Chúa, đúng như những gì ngài đã kêu gọi con người ngay khi mở màn cho giáo triều của ngài, những lời ngài đã lập lại nhân dịp mừng ngân khánh giáo hoàng 25 năm của ngài:
· “Đừng sợ tiếp đón Chúa Kitô và chấp nhận quyền bính của Người! Hôm nay đây, Tôi mạnh mẽ lập lại là: Hãy mở cửa, hãy mở rộng của cho Chúa Kitô! Hãy để cho Người hướng dẫn anh chị em! Hãy tin tưởng vào tình yêu của Người!”
Bởi vì, theo ngài:
1. “‘Nhân loại sẽ không bao giờ tìm thấy hòa bình, cho đến khi họ tin tưởng quay về với Lòng Thương Xót Chúa’ (Thánh Faustina, Diary, trang 132). Lòng Thương Xót Chúa! Đó là quà tặng Phục Sinh Giáo Hội đã nhận được từ Chúa Kitô phục sinh để cống hiến cho loài người vào lúc rạng động của một thiên kỷ” (bài giảng Lễ Chúa Tình Thương 2001 của ĐTC GPII).
2. “Hôm nay đây chúng ta dường như được kêu gọi đặc biệt để loan báo sứ điệp này trước thế giới. Chúng ta không thể lơ là với sứ vụ này, nếu chính Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta thực hiện sứ vụ này qua chứng từ của Thánh Nữ Faustina. Thiên Chúa đã chọn thời đại của chúng ta cho mục đích này” (bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho 4 vị đồng hương Balan năm 2002 trong chuyến về nước thứ 8 cũng là lần về quê hương cuối cùng của vị giáo hoàng người Balan).
3. “Sứ điệp tình yêu nhân hậu cần được vang vọng một cách mạnh mẽ một lần nữa. Thế giới cần đến thứ tình yêu này. Đã đến thời giờ cần phải mang sứ điệp của Chúa Kitô đến cho mọi người: cho các kẻ trị vì và thành phần bị áp bức, cho những ai có bản tính và phẩm vị bị tiêu ma trong mầu nhiệm lỗi lầm. Đã đến thời giờ sứ điệp Lòng Thương Xót Chúa có thể làm cho các tâm hồn tràn đầy hy vọng và trở nên tia sáng cho một nền văn minh mới, một nền văn minh yêu thương” (bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho 4 vị đồng hương Balan năm 2002, cũng trong chuyến thăm quê hương lần cuối cùng trên đây).
Đó là lý do, theo di chúc hay ước nguyện cuối cùng của mình trong sứ điệp cho Chúa Nhật Kính Chúa Tình Thương 3/4/2005 khi ngài vừa nằm xuống vào đêm áp lễ được ngài thiết lập trong Năm Thánh 2000, ĐTC GPII, vị giáo hoàng của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor Hominis”, thực sự muốn để lại cho cả Giáo Hội lẫn toàn thể nhân loại, “một nhân loại có những lúc dường như bị lạc mất và bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, cái tôi và sợ hãi”, đó là “thế giới này cần phải hiểu biết và chấp nhận Lòng Thương Xót Chúa biết bao!” Thế nhưng, để được như vậy, để nhân loại có thể “chấp nhận Lòng Thương Xót Chúa”, Giáo Hội nói chung và vị tân giáo hoàng nói riêng, phải trở thành Tông Đồ của Lòng Thương Xót Chúa, nhờ “việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại của tình yêu nhân hậu xuất phát từ thánh tâm Chúa Giêsu này bằng ánh mắt của Mẹ Maria”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Đức
Gioan Phaolô II: NGười Hùng của Lịch Sử Đông Âu
Thứ Tư 24/3/2004, áp ngày Lễ Mẹ Thai Lời 25/3 hằng năm,
ĐTC đã dùng buổi triều kiến chung hằng tuần này, buổi triều kiến Ngài vẫn chia
sẻ giáo lý từ năm 1979 đến bấy giờ, để nhắc lại mục đích của việc Ngài tận hiến
cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ 20 năm trước đây, vào dịp kết thúc Năm Thánh
Cứu Chuộc, 25/3/1984. Thật vậy, ĐTC GPII đã mở Năm Thánh Cứu Độ, kỷ niệm 1950
năm Chúa Kitô cứu chuộc loài người vào năm Người 33 tuổi, tức là, nếu lấy 1950 +
33 = 1983; ngày 25/3/1984 là ngày kết thúc Năm Thánh Cứu Chuộc được bắt đầu từ
ngày 25/3/1983. Hai mươi năm sau ngày bế mạc Năm Thánh Cứu Chuộc này, Đức Thánh
Cha đã nhắc lại những gì ngài đã làm như sau:
• “Tôi đặc biệt nhớ đến ngày 25/3 năm 1984, Năm Thánh Cứu Chuộc. Hai mươi năm đã
qua đi từ ngày ở Quảng Trường Thánh Phêrô, hiệp nhất về tinh thần với tất cả các
giám mục trên thế giới được ‘triệu tập’ trước đó, Tôi đã hiến dâng tất cả loài
người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria để đáp ứng lời yêu cầu của Đức
Mẹ ở Fatima”.
Tuy ở đây ĐTC không nói đặc biệt đến việc hiến dâng Nước Nga cho Mẹ, nhưng Ngài
đã xác nhận là Ngài có ý làm điều ấy “để đáp ứng lời yêu cầu của Đức Mẹ ở
Fatima”, tức đáp ứng việc hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ.
Đó là lý do trong lời hiến dâng của mình bấy giờ, tức vào ngày 25/3/1984, Đức
Thánh Cha đã nói một cách khôn khéo như sau:
• “Chúng con hôm nay đặt mình trước nhan Mẹ trong năm mừng kỷ niệm ơn cứu rỗi.
Chúng con xin hợp với tất cả mọi chủ chăn trong Giáo Hội làm thành một thân thể
và một tập đoàn, đúng như ý của Chúa Kitô muốn các tông đồ hiệp nhất với thánh
Phêrô. Trong mối liên kết hiệp nhất này, chúng con đọc những lời hiến dâng mà
chúng con muốn bao gồm một lần nữa hy vọng của Giáo Hội cũng như lo âu đối với
thế giới ngày nay. Bốn mươi năm về trước, rồi 10 năm sau đó, tôi tớ của Mẹ là
Đức Giáo Hoàng Piô XII, chứng kiến cảnh khổ đau của gia đình nhân loại, đã phó
thác và hiến dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, đặc biệt
là nhân dân mà Mẹ yêu thương và quan tâm cách riêng. Cũng thế giới của mọi người
và mọi dân tộc này trước mắt của con hôm nay đây, con xin lập lại việc phó thác
và hiến dâng mà vị tiền nhiệm của con đã thực hiện ở Tòa Thánh Phêrô: thế giới
của kỷ nguyên thứ hai đang kết thúc, thế giới tân tiến, thế giới của chúng con
hôm nay! Một cách đặc biệt, chúng con xin phú thác và hiến dâng cho Mẹ tất cả
những người và những dân nước cần được phú thác và dâng hiến. Chúng con chạy đến
với sự bảo hộ của Mẹ, Thiên Chúa Thánh Mẫu: xin đừng chê chối lời cầu xin chúng
con dâng lên Mẹ trong cơn khẩn trương của chúng con”.
Trong “Lời Nguyện Cầu Biến Đổi Thế Giới “ này, chúng ta thấy ĐTC GPII đã nhắc
đến 4 sự kiện lịch sử như sau:
Sự kiện lịch sử thứ nhất, đó là sự kiện ĐTC GPII quả thực có hợp với các vị giám
mục trên thế giới, đúng như cách thức Thiên Chúa muốn thực hiện được Mẹ Maria tỏ
cho chị Lucia biết ngày 13/6/1929 và đã được chị đệ trình Đức Thánh Cha Piô XII
trong thư đề ngày 24/10/1940. ĐTC GPII đã xác nhận sự kiện hàng giáo phẩm của
Giáo Hội Công giáo hiệp dâng như chúng ta đã nghe là: “Chúng con xin hợp với tất
cả mọi chủ chăn trong Giáo Hội làm thành một thân thể và một tập đoàn…, Trong
mối liên kết hiệp nhất này, chúng con đọc những lời hiến dâng…”.
Sự kiện lịch sử thứ hai, đó là hai lần vị tiền nhiệm của ngài là Đức Piô XII đã
hiến dâng loài người và thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, hai
lần này đã được chúng tôi nhắc đến là ngày 31/10/1942 và ngày 7/7/1952, lần thứ
nhất Đức Piô XII chỉ dâng chung loài người, lần thứ hai ngài mới có ý dâng Nước
Nga.
Sự kiện lịch sử thứ ba, đó là trong lần hiến dâng thứ hai của ĐTC Piô XII, vị
giáo hoàng thời thế chiến thứ II này đã quả thực có ý muốn hiến dâng Nước Nga
cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria rồi, như ĐTC GPII lập lại trong
Lời Nguyện Cầu Biến Đổi Thế Giới của ngài như chúng ta đã nghe: “rồi 10 năm sau
đó, tôi tớ của Mẹ là Đức Giáo Hoàng Piô XII, chứng kiến cảnh khổ đau của gia
đình nhân loại, đã phó thác và hiến dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm
Nguyên Tội của Mẹ, đặc biệt là nhân dân mà Mẹ yêu thương và quan tâm cách riêng”.
Sự kiện lịch sử thứ bốn, đó là việc chính ĐTC GPII cũng có ý hiến dâng Nước Nga
cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, khi ngài khôn ngoan kín đáo nhắc
riêng đến Nước Nga bằng những lời lẽ chúng ta cũng đã nghe: “Một cách đặc biệt,
chúng con xin phú thác và hiến dâng cho Mẹ tất cả những người và những dân nước
cần được phú thác và dâng hiến”.
Chính vì Nước Nga đã được ĐTC GPII hiệp cùng với hàng giáo phẩm trên thế giới
hiến dâng cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ đúng ý muốn và cách thức của trời
cao như thế, Thiên Chúa đã thực hiện những gì Ngài hứa, như chị Lucia được Đức
Mẹ tỏ cho biết vào ngày 13/6/1929, đó là Ngài sẽ làm cho Nước Nga trở lại, một
sự kiện lịch sử đã hoàn toàn xẩy ra được diễn tiến tuần tự như sau:
Trước hết là biến cố bất ngờ xuất hiện nhân vật lịch sử Gaborchev, bất ngờ xuất
hiện như trường hợp của chính ĐTC GPII trong Giáo Hội Công giáo, một vị giáo
hoàng đến từ một nước cộng sản và không phải là người Ý. Nhân vật lãnh tụ Khối
Cộng Sản Liên Bang Sô Viết cuối cùng trẻ nhất trong số lãnh tụ trước đó ấy đã
xuất hiện vào tháng 3 năm 1985, tức sau đúng 1 năm Nước Nga được hàng giáo phẩm
Giáo Hội Công giáo hiến dâng cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.
Tiếp theo là Biến Cố Cộng Sản Đông Âu tự động sụp đổ một cách bất ngờ trước con
mắt bàng hoàng sửng sốt của cả thế giới, nhất là thế giới tư bản, một khối tư
bản chẳng những không thể làm gì nổi họ trong thời chiến tranh lạnh Cold War mà
còn bị họ dần dần chiếm đất giành dân khắp nơi trên thế giới. Có cái lạ nữa là
Biến Cố Đông Âu này được diễn tiến nói chung hoàn toàn bất bạo động theo đường
hướng tranh đấu của Giáo Hội, chứ không phải theo kiểu tranh đấu giai cấp bạo
động của cộng sản, và cuộc tranh đấu bất bạo động này đã được bắt nguồn ngay từ
quê hương Balan của vị giáo hoàng đã đọc “Lời Nguyện Biến Đổi Thế Giới”.
Sau hết là Biến Cố Nước Nga trở lại vào chính Ngày Giáng Sinh 25/12/1991, khi vị
lãnh tụ cuối cùng của khối Cộng Sản Liên Bang Sô Viết là Gorbachev từ chức, vị
đã chủ trương đường hướng Cởi Mở được gọi là Glasnot và Cải Tổ được gọi là
Parestroika là những gì thực sự đã mang lại một biến động hoàn toàn đổi thay cho
Khối Cộng Sản Đông Âu.
Trong cuốn Trái Tim Mẹ Toàn Thắng, tác phẩm xuất bản nhân dịp kỷ niệm đúng 1 năm
sau khi Nước Nga trở lại, ở trang 11-13, tôi đã viết như sau:
“Những diễn tiến về sự kiện sụp đổ chớp nhoáng đầy ngoạn mục của chế độ cộng sản
ở Âu Châu vào cuối năm 1989 đã xẩy ra hoàn toàn ngoài mọi dự tưởng của những
chính trị gia lỗi lạc nhất thế giới. Không phải hay sao, một chế độ độc tài đảng
trị và sắt máu như cộng sản, hầu như, về phương diện loài người, không gì có thể
tiêu diệt được nó và chống lại được sự bành trướng của nó. Thế mà, ngay trong
lúc mà cả loài người đang lo sợ vì nó đang trở nên một hiểm họa vô cùng nguy
hiểm đến vận mệnh cả loài người ở thế kỷ 20 này, thì tự nó lại quay ra chết bất
đắc kỳ tử.
“Thật ra, đã có ba điều lạ lùng xẩy ra, đúng hơn, ba yếu tố định đoạt trong biến
cố qua đời của chế độ cộng sản ở Âu Châu này. Thứ nhất, năm 1978, vị Giáo Hoàng
Rôma (Gioan-Phaolô II) được bầu lên xuất thân từ một nước cộng sản. Thứ hai, năm
1980, tổ chức Công Đoàn Liên Đới (Solidarity) được Lech Walesa hình thành ở Ba
Lan. Thứ ba, năm 1985, chính sách Cởi Mở (Glasnost) và Cải Tổ (Perestroika) được
tân lãnh tụ Mikhail Gorbachev phát động ở Nga Sô.
“Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô là yếu tố thứ nhất trong ba yếu tố định đoạt cho
hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
“Biến cố này bắt đầu từ khi Ngài về thăm quê hương của Ngài vào ngày
2-10/6/1979. Việc Ngài được phép chính quyền cộng sản Ba- Lan cho về thăm quê
hương cũng không phải là chuyện thường. Đầu tiên chính quyền Ba Lan từ chối lời
xin phép của Ngài. Sau đó, chính quyền đã tự nhượng bộ vào ngày 7/5/1979, ngày
kết thúc bảy ngày và bảy đêm liên tục lần chuỗi trước Mình Thánh Chúa được tổ
chức ở Đền Đức Mẹ Czestochowa để cầu nguyện cho việc được phép về thăm quê hương
của Đức Giáo Hoàng. Để rồi, với ảnh hưởng của Ngài, Công Đoàn Liên Đới đã được
hình thành.
“Timothy Garton Ash, một ký giả người Anh, năm 1990 đã viết: ‘Chính tháng Sáu
năm 1979 là khởi điểm cho cuộc kết liễu của riêng lịch sử Đông Âu... Tôi tin
rằng chuyến công du đầu tiên về Ba-Lan của Đức Thánh Cha là chốt điểm của nó.
Chỉ hơn một năm sau cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha là Công Đoàn Liên Đới ra
đời, nếu không có cuộc viếng thăm này của Đức Thánh Cha, chưa chắc đã có Công
Đoàn Liên Đới. Gương của Công Đoàn Liên Đới là một khai triển tân kỳ. Nó đã đi
tiên phong như là một hình thái chính trị mới mẻ ở Đông Âu (và không phải chỉ
mới mẻ ở đó mà thôi): chính trị tự tổ hợp nhằm điều giải cho việc chuyển nhượng
của cộng sản’ (Catholic International [Vol 3, No 1 & 2, January 1992], 57).
“Mikhail Gorbachev, nguyên lãnh tụ Cộng Sản Liên Sô, cho rằng Đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II đã giữ một vai trò rất quan trọng trong việc Cộng Sản Đông Âu
sụp đổ. Trong một bài báo được nhiều tờ báo nổi tiếng trên thế giới đăng tải vào
tháng 3/1992, Gorbachev đã viết: ‘Những biến cố ở Đông Âu không thể nào xẩy ra
nếu không có vai trò quan trọng mà ngài tự biết phải đóng vai trò như thế nào
trong hiện tình thế giới... Tôi vẫn tin ở tầm mức quan trọng nơi những hành động
của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong những năm ấy’” (Fatima Family Messenger
[Apr-Jun 1992], trang 21).
Tổng Thống George Bush, trong bài diễn văn dịp Khánh Thành Trung Tâm Văn Hóa
Gioan Phaolô II ở Washington DC ngày 22/3/2001, đã nhận định rằng: “Chúng ta hãy
nhớ lại cuộc thăm viếng của vị Giáo Hoàng này lần đầu tiên ở Balan năm 1979, một
thời điểm đức tin đã trở thành một lực lượng kháng cự và bắt đầu gây biến động
đưa đến tình trạng sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản đế quốc”.
Chính ĐTC GPII, sau buổi triều kiến chung hằng tuần vào ngày Thứ Tư ngài chia sẻ
Giáo Lý về việc cầu nguyện bằng Thánh Vịnh, nhân dịp kỷ niệm 25 năm chuyến tông
du lịch sử về quê hương Balan này của mình cũng đã công nhận điều ấy như sau:
“Hôm nay là ngày kỷ niệm 25 năm lần đầu tiên với tư cách là Giáo Hoàng Tôi đã
hôn đất Balan. Tâm tư của Tôi luôn luôn nghĩ lại những ngày này và Tôi tạ ơn
Chúa về ngọn gió Thánh Linh đã thổi qua mảnh đất ấy tạo nên một cuộc thay đổi
sâu xa. Tôi cầu xin Chúa chúc lành cho quê hương xứ sở của chúng ta cũng như cho
toàn thể nhân dân Balan”.
Trong cuộc tông du 2-10/6/1979 của mình, Ngài đã đọc 36 bài diễn từ. Tối thiểu
từ 10 trong số 35 triệu người dân đã được đích thân thấy Ngài, ở 9 thành phố,
làng mạc và đền thánh Ngài đã đến thăm.
Bắt đầu năm 1979, ông Edward Gierek, bí thư đầu tiên của Đảng Lao Động Thống
Nhất của Balan, đã nói chuyện điện thoại với lãnh tụ Nga Sô bấy giờ là Leonid
Brezhnev, nhân vật đã khuyên can ông hãy cản trở việc viếng thăm của vị giáo
hoàng này.
Trong tác phẩm “Giáo Hoàng Gioan Phaolô II” của Tad Szulc, Gierek tiết lộ là,
khi thấy vị bí thư này bất đồng ý kiến với mình, vị lãnh đạo khối liên bang Nga
Cộng liền nói: “Vậy thì đồng chí cứ làm theo ý muốn của mình, miễn là đàng chí
và Đảng của đồng chí sau này đừng có mà hối hận”.
Đúng thế, theo bài “Gorbachev: Pope was 'example to all of us'” của CNN, phổ
biến ngày 3/4/2005, thì Gorbachev người từng nói rằng việc sụp đổ Bức Tường Sắt
không thể nào xẩy ra được nếu không có Đức Gioan Phaolô II, đã cho biết vị giáo
hoàng này lên án cộng sản ngay vào lần đầu tiên hai người gặp nhau năm 1989,
ngay sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ.
Vị giáo hoàng này, vị bắt đầu vai trò giáo hoàng của mình vào năm 1978 khi Sô
Viết Nga đô hộ quê hương Balan của ngài và Đông Âu, đã chỉ trích gắt gao chủ
nghĩa cộng sản và ủng hộ những ai chiến đấu đổi thay tình thế ấy từ bên trong.
“Ngài đã nói với tôi rằng ngài… rất, rất kỵ chủ nghĩa cộng sản”.
Gorbachev cho biết vị giáo hoàng đã nêu lên vấn đề Bức Tường Bá Linh trong cuộc
gặp gỡ của hai người: “Ngài muốn biết ý của tôi về viễn ảnh của một Âu Châu hiệp
nhất. Bức Tường Bá Linh dĩ nhiên là một phần của viễn ảnh này, thế nhưng ngài
thực sự đã muốn nói đến việc chấm dứt Cuộc Chiến Tranh Lạnh”.
Những việc cải cách về kinh tế của Gorbachev, được gọi là perestroika, đã góp
phần vào việc giải phóng xã hội Sô Viết Nga trong thập niên 1980.
Vị nguyên lãnh đạo Sô Viết Nga này, vị bị ép buộc phải từ nhiệm khi quốc gia của
ông bùng nổ vào năm 1991, đã nói rằng vị giáo hoàng cũng phê bình cả chủ nghĩa
tư bản nữa trong cuộc gặp gỡ năm 1989.
“Ngài nói ‘tôi không phục vụ bất cứ một đảng phái chính trị nào hết, tôi phụng
sự Thiên Chúa. Bởi thế tôi ủng hộ cũng những điều ông đang cố gắng chiếm đạt
bằng chính sách cải tổ kinh tế perestroika của ông’”
Sau cuộc gặp gỡ này, Gorbachev nói, ông đã bay đến Malta để gặp tổng thống
George H.W. Bush. Sau đó cả hai tuyên bố rằng Hiệp Chủng Quốc và Liên Bang Sô
Viết không còn là kẻ thù của nhau nữa: “Bởi vậy, thấy không, tất cả đều có liên
hệ với nhau”.
Cũng theo mạng điện toán toàn cầu CNN, trong bài “World mourns Pope John Paul II”, ngày 3/4/2005, người ta còn đọc thấy những cảm nhận của hai nhân vật quốc tế về vị giáo hoàng vừa nằm xuống như sau:
Trước hết là ông Lech Walesa, vị lãnh đạo phong trào Liên Đới Balan cũng là cựu
Tổng Thống Balan đầu tiên nói rằng Đức Gioan Phaolô II đã tác động việc kết thúc
chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu. “Không có ngài sẽ không có vấn đề chấm dứt chủ
nghĩa cộng sản, hay ít là mãi sau này và việc chấm dứt sẽ xẩy ra đẫm máu”.
Sau nữa là bà Margaret Thatcher, nguyên thủ tướng Hiệp Vương Quốc: “Hằng triệu
người mắc nợ ngài về sự tự do và tự trọng của họ. Toàn thế giới được đánh động
bởi gương lành của ngài. Đời sống của ngài là một cuộc chiến đấu lâu dài chống
lại những thứ gian dối được lợi dụng để hành ác. Bằng việc chiến đấu với những
thứ sai lạc của cộng sản và loan truyền phẩm giá thực sự của cá nhân con người,
cuộc đời của ngài là một quyền lực luân lý bên trong cuộc chiến thắng ở Cuộc
Chiến Tranh Lạnh”.
Ngay trước khi khối Cộng Sản Đông Aâu bắt đầu theo nhau sụp đổ một cách bất ngờ
và tức tưởi ngoài dự tưởng của chính trị gia hay kinh tế gia lỗi lạc nhất thế
giới, khởi đi từ chính quê hương Ba-Lan của vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vào
ngày 19-8-1989, thì chị Lucia đã chính thức lên tiếng tuyên bố vào ngày 1-8-1989
như sau: “Chúa chúng ta đã chấp nhận việc hiệp dâng năm 1984”, cũng trong ngày
này, chị còn lập lại câu chị trả lời vị Sứ Thần Tòa Thánh ở Lisbon là “Vâng, giờ
đây nước Nga đã được hiến dâng… Thiên Chúa sẽ giữ lời của Ngài”. Những lời của
chị Lucia khẳng định ngay trước Biến Cố Đông Âu xẩy ra này được tờ Tam Cá Nguyệt
San Fatima Family Messenger ở New Hope, tiểu bang Kentuckey, Hoa Kỳ, số tháng
10-12/1989, (trang 7 và 9), ghi nhận và phổ biến, là bằng chứng cho thấy việc tự
động giải thể của khối Cộng Sản Đông Aâu hoàn toàn do việc can thiệp lạ lùng của
Nữ Vương Toàn Thắng Mân Côi Fatima.
Trong nguyệt san The Catholic World Report, 10/1993, trang 45-46, chính
Gorbachev, lãnh tụ cuối cùng của đảng Công Sản Liên Sô, và Lech Walesa, chủ tịch
Công Đoàn Liên Kết Ba-Lan chống cộng cũng là vị tổng thống đầu tiên thời hậu
Cộng Sản, đã phải công nhận vai trò then chốt của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
trong riêng Biến Cố Đông Âu và của chung lịch sử Âu Châu hiện đại này như sau.
Gorbachev cảm nhận: “Tôi xin nói rằng mọi sự ở Đông Âu không thể nào xẩy ra nếu
thiếu vị giáo hoàng này, thiếu tư tưởng của ngài – kể cả tư tưởng chính trị – và
thiếu việc ngài nắm vững tình hình thế giới. Một cuộc thay đổi tận gốc rễ đã
thực hiện nơi lịch sử Châu Âu, và Gioan Phaolô đã đóng một vai trò quyết liệt”.
Walesa cũng xác nhận: “Năm 1979, Đức Giáo Hoàng đã nói ở Balan: ‘Không thể nào
có một Châu Âu chân chính mà lại không có một Balan tự do’. Ngày nay đây, Âu
Châu đã trở thành các quốc gia tự do, tôi nghĩ rằng nhiều người tạ ơn Thiên Chúa,
Đấng đã ban Gioan Phaolô II cho thế giới”.
Về phần mình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lại qui mọi sự thay đổi phi thường
ngoài sức tự nhiên, cả trong lãnh vực quyền lực chính trị, kinh tế và quân sự
này về cho Mẹ Fatima, như ngài đã không ngần ngại tỏ ra cảm nhận thần linh của
mình trong cuốn “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của ngài, khi trả lời cho vấn đề
“Thiên Chúa có nhúng tay vào việc sụp đổ của Cộng Sản hay không?” thế này:
“Chúng ta nói thế nào về ba trẻ ở Fatima là những người, ngay trước cuộc bùng nổ
Cách Mạng Tháng Mười, bỗng nhiên nghe thấy rằng: ‘Nước Nga sẽ trở lại’ và ‘Cuối
cùng Trái Tim Mẹ sẽ thắng’…? Chúng không thể nào tạo tĩnh ra được những tiên
đoán này. Chúng không đủ hiểu biết về lịch sử hay địa dư, lại càng mù tịt về các
biến động trong xã hội cũng như các phát triển về ý thức hệ. Thế mà, việc đã xẩy
ra đúng như lời chúng nói. Có lẽ đó là lý do tại sao… cần phải có một cuộc ám
sát ở Công Trường Thánh Phêrô vào đúng ngày 13-5-1981, ngày kỷ niệm lần hiện ra
thứ nhất ở Fatima…”.
Trong bài “Bush: 'A hero for the ages'”, được CNN phổ biến ngày 2/4/2005, thì
Tổng Thống Bush đã 3 lần gặp vị giáo hoàng này trong cuộc đời của ông. Vào tháng
6/2001, khi đến viếng thăm Vatican, Tổng Thống Bush đã kính tặng vị giáo hoàng
Huy Chương Tự Do của Tổng Thống, vinh dự cao cả nhất của Hoa Kỳ ban tặng cho dân
sự.
Sau đây là bản văn của tổng thống phát biểu vào buổi chiều Thứ Bảy 2/4:
“Giáo Hội Công giáo đã mất đi vị chủ chăn của mình. Thế giới đã mất đi một con
người chiến đấu cho tự do của con người, và một người tôi tớ nhân lành và tín
trung của Thiên Chúa đã được gọi về.
“Đức Gioan Phaolô II đã rời bỏ ngai tòa Phêrô cũng cùng một cách như ngài đã
đăng quang, với tư cách là một chứng nhân cho phẩm giá của sự sống con người. Ở
quê hương Balan của mình, vị chứng nhân này đã tung ra một cuộc cách mạng dân
chủ làm rung chuyển cả Đông Âu và thay đổi giòng lịch sử.
“Ở khắp Tây Phương, chứng từ Đức Gioan Phaolô nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm
của chúng ta trong việc xây dựng một nền văn hóa sự sống, một nền văn hóa mà kẻ
mạnh phải bảo vệ kẻ yếu.
“Và trong những năm cuối đời của vị Giáo Hoàng này, chứng từ của ngài thậm chí
còn mãnh liệt hơn nữa bằng việc can đảm hằng ngày đương đầu với bệnh nạn và
nhiều khổ đau.
“Tất cả mọi vị giáo hoàng đều thuộc về thế giới, thế nhưng những người Hoa Kỳ có
lý do đặc biệt để yêu mến con người từ Krakow này. Trong những cuộc ngài viếng
thăm quê hương của chúng ta, vị giáo hoàng này đã nói về Bản Hiến Pháp thiên
định của chúng ta, đến các sự thật hiển nhiên về phẩm vị con người nơi Bản Tuyên
Ngôn Độc Lập của chúng ta, và nói đến những phúc hạnh tự do xuất phát từ những
sự thật này.
“Ngài nói, chính những sự thật này, những sự thật khiến tất cả mọi người trên
thế giới hướng về Hoa Kỳ với niềm hy vọng và trọng kính. Bản thân Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II là một nguồn cảm hứng cho hằng triệu người Hoa Kỳ cũng như cho
nhiều người nữa trên khắp thế giới.
“Chúng ta sẽ luôn nhớ đến vị linh mục khiêm tốn, khôn ngoan và can đảm này, vị
đã trở thành một trong những vị đại lãnh đạo về luân lý trong lịch sử. Chúng ta
tạ ơn Thiên Chúa về việc gửi đến một con người như thế, một người con của Balan
trở thành vị giám mục Rôma và là anh hùng của các thời đại”.
Trong bài ‘Bush praises pope's 'profound impact', được CNN phổ biến ngày
9/4/2005, người ta còn đọc thấy những điều sau đây:
Tổng Thống Bush từ lễ an táng đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II về đêm Thứ Sáu,
ông đã tỏ lòng trọng kính vị cố lãnh đạo của Giáo Hội Công giáo Rôma trong bài
diễn văn phát thanh hằng tuần của mình.
Ông nói những việc cử hành đã lôi kéo các vị quốc vương, tổng thống và hành
hương từ khắp nơi trên thế giới về Rôma là “một nhắc nhở mãnh liệt và tác động
về cái ảnh hưởng sâu xa vị giáo hoàng này có được trên thế giới của chúng ta”.
“Hết mọi nơi ngài đến, vị giáo hoàng này đều rao giảng rằng tiếng gọi tự do là
tiếng gọi giành cho hết mọi phần tử thuộc gia đình nhân loại, vì tác giả của sự
sống đã viết nó vào bản tính loài người chung của chúng ta. Nhiều người ở Tây
phương đã đánh giá nhẹ tầm mức ảnh hưởng của vị giáo hoàng này. Thế nhưng, những
ai ở sau Bức Màn Sắt đã biết rõ hơn, và sau cùng ngay cả Bức Tường Bá Linh cũng
không đứng vững quyền lực mãnh liệt của vị giáo hoàng Balan này”.
Vị tổng thống này đang tìm cách phổ biến nền dân chủ cho các quốc gia khác, ông
thường nói về tự do là tặng ân của Thiên Chúa. Ông nói rằng Đức Gioan Phaolô II
đã dấn thân cho lý tưởng này từ khi còn trẻ ở Balan, khi ngài tránh né cơ quan
mật vụ Đức Quốc xã để tham dự chủng viện chui.
“Sau đó, khi ngài được bổ nhiệm là vị giám mục trẻ nhất Balan, ngài đã phải đối
diện với một chế độ chuyên chế lớn khác của thế kỷ 20 là cộng sản. Và ngài đã
sớm dạy cho các kẻ cầm quyền cộng sản ở Warsaw và Moscow rằng sự thật về luân lý
có các đạo quân của nó và có một quyền lực còn lớn hơn cả những thứ quân đội và
công an mật vụ của họ”.
Vị tổng thống này là tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên tham dự một lễ an táng giáo
hoàng. Trong chuyến bay về nước, ông đã cho biết lễ an táng đã tác động ông hơn
là ông tưởng và sẽ có ảnh hưởng đến vai trò làm tổng thống của ông.
“Cuộc cử hành hôm nay, tôi dám cá với anh chị em là đối với hằng triệu người, là
một sự tái quyết tâm cho nhiều người”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Đức Gioan Phaolô II: Kiến Trúc Sư xây dựng hòa bình thế giới, đặc biệt ở Trung Đông nhất là ở Iraq
Ngoài việc thực sự đóng góp (như được đề cập đến trên đây) vào vấn đề dập tắt đi
cái ngòi chiến tranh có thể gây ra Thế Chiến Thứ Ba, (như tưởng đã xẩy ra vào
đầu tháng 10 năm 1962, ngay trước khi khai mạc Công Đồng Chung Vaticanô II
11/10/1962, giữa Cộng Sản Nga và Hoa Kỳ tại Vịnh Cuba, nơi hỏa tiễn nguyên tử
của Nga đang nhắm vào Mỹ), qua biến cố Cộng Sản Đông Âu sụp đổ và Nước Nga trở
lại, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II còn tiếp tục dấn thân vận động cho hòa bình
thế giới nữa.
Theo Bí Mật Fatima phần thứ hai, sau khi “Nước Nga trở lại”, thì “thế giới sẽ
được hưởng một thời gian hòa bình”. Tuy nhiên, thời gian hòa bình này kéo dài
bao lâu, không ai biết ngoài trời cao. Chỉ biết rằng, 10 năm sau, tức đến
11/9/2001, (từ ngày 25/12/1991), một trận chiến tranh có tầm mức quốc tế bắt đầu
diễn ra, với cuộc khủng bố tấn công vào chính hai cơ quan đầu não về kinh tế (Trung
Tâm Thương Mại Thế Giới) và quân sự (Ngũ Giác Đài) của một quốc gia đệ nhất
cường quốc là Hoa Kỳ, một quốc gia cũng đã ra tay tấn công khủng bố ở A Phú Hãn
vào chính ngày Lễ Mẹ Mân Côi 7/10/2001, rồi sau đó, vào chính ngày Lễ Thánh
Giuse 19/3/2003, đã cùng với lực lượng liên minh (chính yếu là Hiệp Vương Quốc)
qua mặt Liên Hiệp Quốc tấn công Iraq để diệt trừ nhà lãnh đạo độc tài Saddam
Hussein mà họ nghĩ rằng ông này đang có những thứ vũ khí đại công phá trong tay,
rất nguy hiểm đến nền hòa bình thế giới nói chung, Trung Đông và Hoa Kỳ nói
riêng. Ngoài ra, sau biến cố 911, thế giới còn xẩy ra những cuộc khủng bố khác ở
khắp nơi. Đặc biệt nhất là các vụ như ở Bali Nam Dương ngày 12/10/2002 (gây
thiệt mạng trên 180 người và trên 200 người bị thất tung), ở Nga ngày 23/10/2002
(tổng số con tin bị chết là 118 người, nhóm khủng bố đã chết 50 người, 32 nam và
18 nữ), và ở Tây Ban Nha ngày 11/3/2004 (gây thiệt mạng cho 200 người và thương
tích cho hơn 1400 người).
Trong khi đó, ở Thánh Địa, từ tháng 9 Năm Thánh 2000, cuộc xung đột giữa Do Thái
và Palestine càng trở nên khủng khiếp hơn bao giờ hết, với những cuộc công hãm
của Do Thái và những cuộc khủng bố tự vận tàn sát của Palestine. Đó là chưa kể
đến sự kiện, ngay trước “thời gian hòa bình” 10 năm trên đây của thế giới, hay
ngay sau Biến Cố Đông Âu cuối năm 1989, nhân loại lại chứng kiến thấy những mầm
mống chiến tranh không còn ở trong tình trạng Chiến Tranh Lạnh nữa, mà là một
thứ chiến tranh nẩy lửa từng vùng, như xẩy ra ở cuộc Chiến Tranh Vùng Vịnh, khi
Iraq tấn công Kuwait vào ngày 2/8/1990, và ở cuộc Chiến Tranh Bosnia thuộc Âu
Châu bùng nổ vào ngày 2/7/1991.
Trong cuộc gặp gỡ đầu năm theo thông lệ, vào ngày 10/1/2002, tức sau biến cố
911, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, qua lời đáp từ của mình với ngoại giao đoàn
172 quốc gia đến chúc tân xuân mình, đã bày tỏ nhận định và quan tâm của ngài về
tình hình thế giới bấy giờ như sau:
“Chân trời thực sự đã trở nên mù mịt, nhiều kẻ thuộc lớp người đã trải qua cuộc
đại biến động tìm về tự do cùng với những biến đổi của thập niên 1990, hôm nay
đây, họ đã bàng hoàng thấy rằng mình lọt vào một gọng kìm lo âu sợ hãi trước một
tương lai lại trở thành bất định.
“Thánh Địa, nơi Đấng Cứu Thế đã sinh vào trần gian, qua lầm lỗi của con người,
vẫn còn là một mảnh đất máu lửa. Không ai có thể làm ngơ trước bất công mà dân
Palestina là nạn nhân phải chịu hơn 50 năm qua. Không ai có thể phản đối quyền
sống an ninh của dân Do Thái. Thế nhưng, không ai được quên đi những nạn nhân vô
tội ở cả hai bên hằng ngày vẫn bị dập vùi dưới những trận bạo lực. Vũ khí và các
cuộc tấn công sắt máu không bao giờ là cách đúng đắn về mặt chính trị để nói cho
bên kia biết mặt cả.
“Cuộc chiến hợp pháp chống khủng bố, điển hình nhất trong những cuộc tấn công
kinh khiếp là cuộc khủng bố vào ngày 11 tháng Chín vừa rồi, một lần nữa đã làm
cho tiếng vũ khí lại vang lên. Cuộc tấn công và sát hại dã man ấy chẳng những
gây nên vấn đề tự vệ hợp pháp mà còn cả đến vấn đề sử dụng phương sách hữu hiệu
nhất để khử trừ khủng bố, đến vấn đề tìm hiểu những yếu tố nào ngấm ngầm gây ra
những hành động ấy, cũng như đến những giải pháp cần phải thực hiện để mang lại
tiến trình ‘chữa lành’ hầu chế ngự nỗi sợ hãi cũng như tránh khỏi tình trạng làm
cho sự dữ chất chồng trên sự dữ, bạo lực trên bạo lực. Bởi thế, cần phải khuyến
khích tân chính phủ ở Kabul nỗ lực đạt đến tình trạng an bình tốt đẹp cho toàn
dân A Phú Hãn. Sau hết, Tôi phải đề cập đến những căng thẳng lại xẩy ra giữa Ấn
Độ và Pakistan, để tha thiết yêu cầu các vị lãnh đạo hai đại quốc này hãy hết
lòng giành ưu tiên cho việc đối thoại và thương thảo với nhau…
“Tôi đang nghĩ đến Phi Châu, cũng như đến tình hình nguy cấp về sức khỏe cùng
với những đối chọi bằng vũ lực đang hủy diệt đi từng loạt dân lành của mình. Mới
đây, trong cuộc tranh luận ở Công Nghị của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc người ta thấy
có 17 vụ xung khắc đang xẩy ra ở đại lục Phi Châu!...
“Làm sao tôi lại không đề cập đến Mỹ Châu Latinh là nơi tôi quí mến được? Nơi
một số quốc gia thuộc đại lục này đang liên tục xẩy ra những chênh lệch về xã
hội, việc buôn bán thuốc phiện, tình trạng bại hoại và bạo chiến là những gì có
thể tác hại đến nền tảng của chủ nghĩa dân chủ và làm mất uy tín của đẳng cấp
chính trị. Gần đây nhất là tình hình khó khăn xẩy ra ở Á Căn Đình đã làm xáo
trộn cộng đồng, khiến cuộc sống dân chúng phải chịu đựng đau thương”.
Thế rồi, một năm sau đó, cũng với ngoại giao đoàn này, vào ngày 13/1/2003, vị
giáo hoàng này tiếp tục nhận định về tình hình thế giới vẫn không hơn gì năm
trước mà còn tệ hại và bí tắc hơn nữa như sau:
“Bản thân Tôi đã xúc động trước cảm giác sợ hãi thường ngự trị trong tâm can con
người đương thời của chúng ta. Một cuộc khủng bố bất ngờ có thể xẩy ra bất cứ
lúc nào và bất cứ ở đâu; vấn đề không giải quyết nổi ở Trung Đông, trong đó có
Thánh Địa và Iraq; tình trạng hỗn loạn gây đổ vỡ ở Nam Mỹ Châu, nhất là ở Á Căn
Đình, Colombia và Venezuela; những cuộc xung đột gây cho nhiều quốc gia Phi Châu
không thể tập trung nổi vào việc phát triển; những thứ bệnh hoạn lây nhiễm và
chết chóc; tình trạng đói khát trầm trọng, nhất là ở Phi Châu; thái độ vô trách
nhiệm làm cạn kiệt các nguồn nhiên liệu của trái đất này, tất cả những điều này
là các thứ dịch đe dọa sự sống còn của nhân loại, tình trạng an bình của con
người cũng như tình trạng an ninh của các xã hội”.
Để xây dựng hòa bình, trước hết, ngài đã lên tiếng kêu gọi thế giới và chư quốc
hãy sống đoàn kết yêu thương nhau như một đại gia đình nhân loại qua các Sứ Điệp
cho Ngày Hòa Bình Thế Giới hằng năm, một ngày đã được Đức Phaolô VI thiết lập từ
năm 1968. Một trong sứ điệp khó huấn dụ nhất và khó thực hiện nhất đó là sứ điệp
trực tiếp liên quan đến lòng xót thương và tha thứ của Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 1/1/2002, với tựa đề: “Hòa Bình Không Thể
Thiếu Công Lý, Công Lý Không Thể Thiếu Thứ Tha”, một đề tài áp dụng cho cả thành
phần bị khủng bố tấn công lẫn thành phần tấn công khủng bố.
“Chính vì hòa bình phát xuất từ công lý cũng như từ thứ tha mà hôm nay đây nó đã
bị cuộc khủng bố thế giới tấn công. Trong những năm vừa rồi, nhất là từ khi kết
thúc tình trạng Chiến Tranh Lạnh, công cuộc khủng bố đã phát triển thành một hệ
thống tổ chức tinh vi về cấu kết chính trị, kinh tế và kỹ thuật, một kết cấu
vượt ra ngoài lãnh địa quốc gia, tới chỗ bao trùm toàn thể thế giới. Khi những
tổ chức khủng bố sử dụng những tay sai của mình như khí cụ để khai chiến chống
lại người vô phương chống đỡ và ngay lành là họ rõ ràng chứng tỏ cho thấy họ
đang nung nấu một ý muốn sát hại. Khủng bố phát xuất từ hận thù và gây ra tình
trạng cô lập, ngờ vực và khép kín… Khủng bố xẩy ra là do lòng khinh thường sự
sống con người. Bởi thế, nó không chỉ gây ra những tội ác bất khả dung, mà tự
mình nó còn là một tội ác phạm đến nhân loại nữa, bởi nó dùng đến những đường
lối khủng bố về chính trị và quân sự” (khoản số 4).
“Thế nên, cần phải có quyền tự vệ đối với hành động khủng bố, một quyền bao giờ
cũng phải thi hành bằng cách tôn trọng những giới hạn về luân lý và pháp lý,
trong việc chọn lựa giữa cùng đích và phương tiện. Lỗi lầm cần phải nhận diện
một cách xác đáng, vì tính chất vấp phạm tội ác bao giờ cũng thuộc về cá nhân,
không thể qui cho cả một dân nước, cả một nhóm chủng tộc hay tôn giáo có phần tử
là những người khủng bố. Việc quốc tế hợp tác vào việc chống lại những hoạt động
khủng bố cũng đòi phải là một việc làm chính trị đầy can đảm và quyết tâm, một
việc dấn thân về ngoại giao và kinh tế, để làm giảm bớt những tình trạng đè nén
và hất hủi là những gì sinh ra mưu cơ tác hành của thành phần khủng bố. Ngoài ra,
cũng cần phải nhấn mạnh là tình trạng bất công hiện nay trên thế giới không bao
giờ được lấy đó là cớ cho những hành động khủng bố cả” (khoản số 5).
“Tha thứ… dầu sao… cũng là một sứ điệp nghịch thường. Thật vậy, thứ tha bao giờ
cũng bao gồm một hình thức thua thiệt ngắn hạn để cho một lợi lộc dài hạn thật
sự. Bạo lực thì hoàn toàn ngược lại; chọn làm một việc bề ngoài có lợi ngắn hạn
lại bao hàm cả một mất mát thực sự và vĩnh viễn. Thứ tha là việc xem ra có vẻ
hèn yếu, song nó lại đòi phải có một sức mạnh về tinh thần cao cả cũng như phải
có một tấm lòng can đảm về luân lý, cả hai điều này cần phải có trong việc thực
hiện thứ tha cũng như trong việc chấp nhận được tha thứ. Vai trò thừa tác của
Tôi trong việc phục vụ Phúc Âm đã thúc buộc Tôi, đồng thời cũng cho tôi sức mạnh,
để Tôi lập lại việc cần phải thứ tha này. Hôm nay đây, một lần nữa, Tôi xin nhắc
lại điều này, hy vọng làm khơi dậy việc nghiêm chỉnh và chín chắn suy nghĩ về
vấn đề ấy, để nhờ đó thực hiện một việc quật khởi xa tầm tay đối với tinh thần
con người, nơi con tim của từng người cũng như trong mối liên hệ giữa các dân
tộc trên thế giới với nhau” (khoản số 10).
“Các nhà lãnh đạo tôn giáo có một trọng trách đối với tất cả những nỗ lực này.
Các tín hữu Kitô giáo, cũng như các tôn giáo lớn trên thế giới, cần phải cùng
nhau hoạt động để loại trừ những căn gốc về xã hội cũng như về văn hóa gây ra
hành động khủng bố. Các vị có thể làm điều này bằng việc giảng dạy sự cao cả và
phẩm vị của con người, cũng như bằng việc truyền bá cảm quan rõ nét hơn nữa về
tính cách hiệp nhất nên một của gia đình nhân loại. Tôi đặc biệt mong rằng những
vị lãnh đạo Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo giờ đây phải dẫn đầu trong việc
công khai lên án hành động khủng bố, cũng như phải chối bỏ những người khủng bố
bất cứ hình thức hợp pháp nào về tôn giáo hay luân lý” (Khoản số 12).
“Chính vì lý do này, việc cầu nguyện cho hoà bình không phải là một việc hậu xét
trong việc hoạt động cho hòa bình. Nó phát xuất từ chính yếu tính của việc xây
dựng hòa bình trong trật tự, công bằng và tự do. Cầu nguyện cho hòa bình là việc
con người mở lòng mình ra cho quyền năng canh tân tất cả mọi sự của Thiên Chúa
chiếm đoạt… Cầu nguyện cho hòa bình là cầu nguyện cho công lý… Đó là việc cầu
nguyện cho tự do, nhất là cho tự do tôn giáo là một thứ nhân quyền căn bản và là
một thứ dân quyền của hết mọi người. Cầu nguyện cho hòa bình là tìm cầu ơn tha
thứ của Thiên Chúa. Vì tất cả những lý do đó, Tôi đã mời những vị đại diện các
tôn giáo trên thế giới đến Assisi là phố thị của Thánh Phanxicô vào ngày
24/1/2002 để cầu nguyện cho hòa bình thế giới vậy” (khoản số 14).
Thật vậy, việc cụ thể và rõ ràng nhất thế giới có thể thấy được vị giáo hoàng
“đến từ một xứ sở xa xăm” là quốc gia Balan thời cộng sản này của Giáo Hội Công
giáo đó là việc ngài triệu tập các vị lãnh đạo tôn giáo trên thế giới về Assisi,
quê hương của Thánh Phanxicô sáng lập dòng Anh Em Hèn Mọn, vị thánh tác giả của
Kinh Hòa Bình, để cùng nhau cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Assisi là một
trong hai nơi đặc biệt đầu tiên được ngài đã đến kính viếng sau khi vừa đăng
quang giáo hoàng (ngày 22/10/1978) đó là Đền Đức Trinh Nữ Maria ở Mentorella
Rôma ngày 29/10/1978 và Assisi ngày 5/11/1978.
Tổ chức Ngày Liên Tôn Cầu Cho Hòa Bình Thế Giới ở Assisi ngày 24/1/2002, như đã
được ngài loan báo từ ngày 18/11/2001, một biến cố ở cùng một địa điểm với cùng
một mục đích như thế, là biến cố vốn được ngài khởi xướng lần đầu tiên vào ngày
27/10/1986, và đã tái diễn vào ngày 9-10/1/1993 để cầu hòa bình cho riêng Âu
Châu. Chưa hết, cũng về vấn đề hòa bình và vì hòa bình chỉ phát xuất từ Thiên
Chúa, ngài còn kêu gọi tín hữu Công giáo cử hành Ngày Chay Tịnh cầu cho hòa bình
14/12/2001, sau biến cố 911 ở Hoa Kỳ, Ngày Cầu Nguyện Cho Hòa Bình ở Thánh Địa
7/4/2002, Chúa Nhật Chúa Tình Thương, khi Bêlem bị lực lương Do Thái phong tỏa
bởi thành phần khủng bố Palestine đang ở trong Đền Thờ Bêlem, và Ngày Chay Tịnh,
Thứ Tư Lễ Tro 5/3/2003 cầu cho hòa bình thế giới, nhất là ở Trung Đông, chưa kể
ngày 21/1/1994 Thứ Sáu cho hòa bình ở Bosnia.
Ngày Liên Tôn Cầu Cho Hòa Bình Thế Giới ở Assisi ngày 24/1/2002 thật sự là một
biến cố đại thể chưa từng. Qua lời chào mừng của ĐTC GPII ở Assisi hôm ấy, chúng
ta thấy Ngài liệt kê quan khách đến tham dự ngày lịch sử này. Danh sách của tham
dự viên, một danh sách gồm hơn 221 vị: 33 Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, 18
vị Giáo Hội Cải Cách Tây Phương, 11 vị Do Thái Giáo, 31 vị Hồi Giáo, 28 vị Phật
Giáo, 6 vị Nhật Giáo, 1 vị Khổng Giáo, 1 vị Giainismo, 10 vị Sikhismo, 5 vị Ấn
Giáo, 1 vị Zoroastrianesimo, 3 vị Cổ Giáo Phi Châu, 66 vị Công Giáo và 7 vị
Chính Quyền Dân Sự. Và thành quả của Ngày Liên Tôn Cầu Cho Hòa Bình Thế Giới ở
Assisi này là một Bản Liên Tôn Tuyên Ngôn Hòa Bình như sau:
Đức Thượng Phụ Bartholomew I, Giáo Chủ Contantinopoli:
Mở: “Qui tụ lại tại Assisi đây, chúng tôi cùng nhau suy nghĩ về hòa bình, một
tặng ân của Thiên Chúa và là một công ích của toàn thể nhân loại. Cho dù có
thuộc về những truyền thống tôn giáo khác nhau đi nữa, chúng tôi cũng xác nhận
rằng hòa bình đòi chúng tôi phải biết yêu thương tha nhân của nhau, hợp với
Khuôn Vàng Thước Ngọc là hãy làm những gì anh em muốn người khác làm cho mình.
Với niềm xác tín này, chúng tôi sẽ không ngừng hoạt động lãnh nhận trọng trách
xây dựng hòa bình. Bởi thế:
Mục Sư Konrad Raiser, Tổng Thư Ký của Hội Đồng Các Giáo Hội Thế Giới, đại diện
Giáo Hội Cải Cách Tây Phương:
1. “Chúng tôi quyết tâm lên tiếng công bố niềm xác tín mạnh mẽ của chúng ta là
bạo lực và khủng bố không hợp với Tinh Thần đích thực của tôn giáo, và khi chúng
tôi lên án mọi phương sách gây bạo lực và chiến tranh vì danh Thiên Chúa hay tôn
giáo, chúng tôi cũng quyết tâm thực hiện mọi sự có thể để nhổ tận gốc những căn
rễ gây ra khủng bố.
Vị đại diện đạo Sikh, Bhai Sahioài Mohinder Singh
2. “Chúng tôi quyết tâm giáo dục cho dân chúng biết tôn trọng và quí mến lẫn
nhau, để góp phần vào việc mang lại một cuộc sống chung an bình và huynh đệ giữa
những con người thuộc về các nhóm chủng tộc, văn hóa và tôn giáo khác nhau.
TGM Chính Thống Pitirim ở Moscow
3. “Chúng tôi quyết tâm bồi dưỡng một thứ văn hóa đối thoại, để làm tăng thêm
việc hiểu biết và tin tưởng nhau hơn giữa cá nhân với nhau cũng như nơi các dân
tộc, vì những việc này là những điều kiện tiên quyết cho hoà bình chân thực.
TGM Chính Thống Jovan ở Serbia
4. “Chúng tôi quyết tâm bảo vệ quyền mọi người được sống một đời sống xứng đáng
với bản chất văn hóa riêng của họ cũng như được tự ý lập gia đình riêng của mình
Vị đại diện Hồi Giáo, Sheikh Abdel Salam Abushukhadaem
5. “Chúng tôi quyết tâm thực hiện việc đối thoại thẳng thắn và nhẫn nại, không
coi những khác biệt của chúng tôi như là chướng ngại bất khả thắng vượt, trái
lại, chúng tôi nhìn nhận rằng việc tiếp cận khác biệt của nhau có thể trở thành
cơ hội để hiểu biết nhau hơn.
ĐGM Chính Thống Vasilios ở Cypriot
6. “Chúng tôi quyết tâm tha thứ cho nhau những lỗi lầm và tổn thương nơi quá khứ
cũng như hiện tại, và nâng đỡ nhau trong nỗ lực chung để chế ngự vị kỷ và tự đắc,
hận thù và bạo lực, cũng như để học lấy kinh nghiệm đã qua là hòa bình mà thiếu
công lý không phải là hòa bình đích thực.
Vị đại diện Khổng Giáo người Đại Hàn, Chang-Gyou Choi
7. “Chúng tôi quyết tâm đứng về phía thành phần nghèo khổ và vô dụng, lên tiếng
bênh vực những ai không có tiếng nói và khôn ngoan hoạt động để thay đổi những
tình trạng này, với niềm xác tín là không ai có thể một mình hạnh phúc được.
Vị đại diện Hồi Giáo, Hojjatoleslam Ghomi
8. “Chúng tôi quyết tâm lấn át tiếng kêu gào của những ai không chịu từ bỏ bạo
lực và sự dữ, và chúng tôi muốn vận dụng mọi nỗ lực để cống hiến cho con người
nam nữ của thời đại chúng ta một niềm hy vọng thực sự về công lý và hòa bình
Vị đại diện Phật Giáo người Nhật, Thượng Tọa Nichiko Niwano
9. “Chúng tôi quyết tâm khuyến khích tất cả mọi nỗ lực trong việc phát triển mối
thân hữu giữa các dân tộc, vì chúng tôi xác tín rằng nếu các dân tộc không biết
đoàn kết và thông cảm với nhau thì tình trạng tiến bộ về kỹ thuật chỉ làm cho
thế giới càng có nguy cơ bị hủy hoại và diệt vong mà thôi.
Vị đại diện Do Thái Giáo, Tôn Sư Rabbi Samuel-René Sirat
10. “Chúng tôi quyết tâm thôi thúc các vị lãnh đạo quốc gia phải vận dụng mọi nỗ
lực để kiến tạo và củng cố một thế giới hợp đoàn và bình an trong công lý, ở
bình diện quốc gia cũng như quốc tế.
Tiến Sĩ Mesach Krisetya thuộc Hội Nghị Quốc Tế Mennonite
Kết “Chúng tôi, những con người thuộc các truyền thống đạo giáo khác nhau, sẽ
không ngừng công bố là hòa bình và công lý bất khả tách biệt, và hòa bình trong
công lý là con đường duy nhất cho loài người tiến về một tương lai hy vọng.
Trong một thế giới, nhờ hệ thống bao rộng của các phương tiện truyền thông xã
hội, đang mở rộng các biên giới, đang thu lại cách quãng, và đang liên hệ với
nhau hơn bao giờ hết này, chúng tôi xác tín rằng, tình trạng an sinh, tự do và
hòa bình không bao giờ được bảo đảm bởi võ lực mà là bằng lòng tin tưởng nhau.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho những quyết tâm này của chúng ta và ban công lý
cùng hòa bình cho thế giới.
ĐTC Gioan Phaolô II, đại diện cho Giáo Hội Công Giáo Rôma:
“Không bao giờ còn bạo lực nữa! Không bao giờ còn chiến tranh nữa! Không bao giờ
còn khủng bố nữa! Chớ gì hết mọi tôn giáo hãy nhân danh Thiên Chúa để mang lại
công lý và hòa bình, thứ tha và sự sống cùng yêu thương đến cho thế giới này!”
Thế rồi, từ đó, dường như càng đẩy mạnh nỗ lực xây dựng và vận động hòa bình thì
hòa bình càng trở thành cao quí và khó với, hầu như bất khả đạt. Bởi vì, người
ta chưa thi hành được hay không muốn thi hành hoặc không dám thi hành sứ điệp (đúng
hơn thách thức) của ngài gửi cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2002 “Hòa Bình Không Thể
Thiếu Công Lý, Công Lý Không Thể Thiếu Thứ Tha”. Đó là lý do chiến tranh Iraq đã
không thể nào không xẩy ra, xẩy ra một cách phải gọi là “trắng trợn” (qua mặt cả
Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc), theo kiểu “luật lệ của sức mạnh” (law of force)
thay vì “sức mạnh của luật lệ” (force of law).
Trong vụ này, thế giới đã chứng kiến thấy Tòa Thánh nói chung và cá nhân Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II nói riêng đã tận dụng những gì có thể để ngăn ngừa
cuộc chiến bất chính này. Chính ngài đã trực tiếp nhúng tay vào can thiệp trước
khi xẩy ra cuộc chiến, bằng cách sai hai vị sứ giả, một là ĐHY Roger Etchegaray,
chủ tịch hưu trí Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình của Tòa Thánh, tới với Tổng Thống
Saddam Hussein ngày 10/2/2003, và một là ĐHY Pio Laghi, nguyên Khâm Sứ Tòa Thánh
ở Hoa Kỳ, đến với Tổng Thống George Bush ngày 1/3/2003.
Trước khi xẩy ra cuộc chiến, ngoài việc gửi hai vị sứ giả đến gặp 2 vị lãnh tụ
của đôi bên, vào Chúa Nhật 23/2/2003 trước Thứ Tư Lễ Tro 10 ngày, trong Huấn Dụ
Truyền Tin, ngài đã nhận định và kêu gọi riêng con cái mình và chung thế giới
như sau:
"Nhiều tháng nay cộng đồng thế giới đã sống trong một tình trạng hết sức lo âu
trước cơn nguy hiểm xẩy ra một cuộc chiến tranh có thể làm rối loạn toàn vùng
Trung Đông và càng làm tăng thêm căng thẳng mà bất hạnh thay đã xẩy ra ngay từ
đầu kỷ nguyên này. Nhiệm vụ của tín hữu, bất kể theo tôn giáo nào, là tuyên bố
cho thấy rằng chúng ta sẽ không bao giờ hạnh phúc được nếu chúng ta cứ kình
chống nhau, tương lai của nhân loại sẽ không bao giờ được bảo đảm bằng nạn khủng
bố và lý lẽ chiến tranh. Đặc biệt là Kitô hữu chúng ta được kêu gọi để làm những
người bảo hộ hòa bình ở những nơi chúng ta sống và hoạt dộng. Chúng ta cần phải
tỉnh táo để lương tâm không lùi bước trước khuynh hướng vị ngã, sai lầm và bạo
lực. Bởi thế, Tôi mời gọi tất cả mọi người Công Giáo hãy tha thiết hiến ngày 5/3
tới đây, Ngày Thứ Tư Lễ Tro, để cầu nguyện và chay tịnh cho hòa bình, nhất là ở
vùng Trung Đông. Trước hết, chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa ban ơn hoán cải cho
các tâm hồn và có một cái nhìn rộng lượng ở những quyết định chính đáng để giải
quyết bằng những phương tiện xứng hợp và ôn hòa các thứ tranh đối làm cản bước
hành trình của nhân loại trong thời đại của chúng ta".
Ngoài ra, ngài còn tiếp những vị muốn đến yết kiến ngài tại chính Quốc Đô
Vatican về vấn đề Iraq, thứ tự như sau: trước hết là Phó Thủ Tướng Iraq Tariq
Aziz, vào Thứ Sáu, 14/2/2003, trước ngày khắp nơi trên thế giới xuống đường biểu
tình phản chiến Hoa Kỳ và trước ngày vị phó thủ tướng Công giáo này đi Assisi để
cầu nguyện hòa bình cho đất nước ông; sau đó là Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Kofi
Annan vào lúc chiều tối Thứ Ba 18/2/2003; tiếp theo là Thủ Tướng Hiệp Vương Quốc
Tony Blair, đệ nhất đồng minh của Tổng Thống Bush, hôm Thứ Bảy 22/2/2003; sau
hết là Thủ Tướng Ý Silvio Berlusconi, vị đồng ý và hỗ trợ chiều hướng tấn công
của Hoa Kỳ, hôm Thứ Ba 4/3/2003; trong thời gian này còn có cả Thủ Tướng José
Maira Aznar của Tây Ban Nha, đệ nhị đồng minh của Tổng Thống Bush..
Trong thời hạn tối hậu thư 48 tiếng của Tổng Thống Bush trước khi Hoa Kỳ chính
thức tấn công Iraq, Giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh là tiến sĩ Joaquin
Navarro-Valls đã phát biểu với phóng viên báo chí sáng Thứ Ba 18/3/2003, những
lời phát biểu mang tính cách cảnh giác cuối cùng như sau: “Ai bảo là tất cả mọi
đường lối ôn hòa chúng ta có được theo luật lệ quốc tế đã được tận dụng thì phải
trả lẽ nghiêm thẳng trước Thiên Chúa, trước lương tâm của mình cũng như trước
lịch sử”.
Thế nhưng, cuộc chiến (về phía kẻ tấn công) nhân danh hòa bình để giải giới,
nhưng (về phía kẻ bị tấn công) có tính cách xâm chiếm này vẫn xẩy ra hết sức
đáng tiếc và thảm khốc, thậm chí kéo dài cho tới sau khi vị giáo hoàng này nằm
xuống mà vẫn chưa biết đi về đâu, (hay lại trở thành một Việt Nam thứ hai). Phản
ứng trước hết về cuộc chiến bùng nổ này từ Tòa Thánh vào hôm Thứ Năm 20/3/2003,
qua vị Tiến Sĩ Giám Đốc Joaquin Navarro-Valls, Giám Đốc Văn Phòng Báo Chí Tòa
Thánh, qua những lời tuyên bố sau đây:
“Tòa Thánh hết sức đau khổ được tin về diễn tiến mới xẩy ra nhất ở Iraq. Trước
hết, Tòa Thành tiếc rằng chính quyền Iraq đã không chấp nhận những quyết định
của Liên Hiệp Quốc và lời kêu gọi của chính Đức Giáo Hoàng, khi cả hai đã yêu
cầu xứ sở này giải giới. Sau nữa, thật là đáng tiếc vì đường lối thương thảo
theo luật lệ quốc tế để mang lại giải pháp ôn hòa cho thảm kịch Iraq đã bị cắt
ngang”.
Phần vị giáo hoàng, trong Sứ Điệp gửi Ngày Thế Giới Hòa Bình ngày 1/1/2005, một
sứ điệp cuối cùng của ngài, với đề tài mang tính cách khuyến dụ hết sức thực tế
và khẩn trương là: “Đừng để sự dữ chế ngự nhưng hãy chế ngự sự dữ bằng sự lành”.
“Nếu chúng ta nhìn vào hiện tình thế giới, chúng ta không thể nào không nhận
thấy được tình trạng lan tràn đáng lo ngại nơi những thứ bộc phát khác nhau của
sự dữ về lãnh vực xã hội và chính trị: từ những lệch lạc về xã hội đến tình
trạng vô chính phủ và chiến tranh, từ tình trạng bất công tới những hành động
bạo lực và sát hại. Để xoay chiều đường hướng giữa những đòi hỏi xung khắc giữa
thiện và ác, gia đình nhân loại cần phải khẩn trương bảo trì và tôn trọng gia
sản chung những giá trị về luân lý được chính Thiên Chúa ban cho Đó là lý do
Thánh Phaolô khuyến khích tất cả những ai quyết tâm chế ngự sự dữ bằng sự lành
là hãy cao thượng và vô tư trong việc nuôi dưỡng lòng quảng đại và bình an (x Rm
12:17-21).
“Mười năm trước đây, khi ngỏ lời cùng Tổng Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về nhu cầu
cần phải cùng nhau dấn thân để phục vụ hòa bình, tôi đã đề cập tới một ‘thứ văn
phạm’ của lề luật luân lý phổ quát (Cf. Address to the General Assembly of the
United Nations for its Fiftieth Anniversary [5 October 1995], 3: Insegnamenti
XVIII/2 [1995], 732), một thứ lề luật Giáo Hội, qua những lời công bố về lãnh
vực này, kêu gọi áp dụng. Bằng những giá trị và nguyên tắc chung mang tính cách
tác động, lề luật này liên kết nhân loại lại với nhau, bất chấp những thứ văn
hóa khác biệt của họ, và là những gì tự nó không đổi thay: ‘nó tồn tại theo các
luồng tư tưởng và tập tục, cũng như hỗ trợ việc tiến bộ của những tư tưởng và
tập tục ấy… Cho dù nó có bị loại trừ ở nơi chính các nguyên tắc của mình, nó vẫn
không thể bị hủy hoại hay bị loại trừ khỏi tâm can con người. Nó luôn bừng lên
nơi đời sống của cá nhân con người cũng như của xã hội’ (Catechism of the
Catholic Church, No. 1958)”. (Khoản số 3)
“Thứ văn phạm chung về lề luật luân lý này đòi phải thực hiện việc dấn thân và
trách nhiệm hơn nữa trong vấn đề làm sao để bảo đảm sự sống của cá nhân con
người cũng như của các dân tộc được tôn trọng và tiến triển. Như thế, những sự
dữ có tính chất về xã hội và chính trị đang hành hạ thế giới này, nhất là những
sự dữ xuất phát từ các cuộc bùng nổ về bạo lực, là những gì cần phải mạnh mẽ lên
án. Tôi nghĩ ngay đến châu lục thân yêu Phi Châu, nơi mà các cuộc xung đột đã
gây thiệt hại cho hằng triệu triệu nạn nhân vẫn đang tiếp tục xẩy ra. Hay tình
trạng nguy hiểm ở Palestine, Quê Hương của Chúa Giêsu, nơi mà vấn đề hiểu biết
nhau, vì bị xâu xé bởi một cuộc xung đột hằng ngày gây ra từ những hành động bạo
lực và trả đũa, vẫn chưa thể nào hàn gắn lại trong công lý và sự thật. Và hiện
tượng bạo động khủng bố đang xuất hiện để đẩy cả thế giới đến một tương lai sợ
hãi và ưu phiền thì sao? Sau hết, làm sao chúng ta lại không thể lấy làm hết sức
tiếc xót chứ, trước màn bi kịch đang diễn tiến ở Iraq, một màn bi kịch từng gây
ra những tình trạng thê thảm làm xao động và bất ổn đối với tất cả mọi người?
“Để đạt được sự thiện hòa bình, cần phải nhìn nhận một cách rõ ràng và ý thức
rằng bạo lực là một sự dữ bất khả chấp và không bao giờ nó có thể giải quyết
được vấn đề. ‘Bạo lực là một thứ dối trá điêu ngoa, vì nó phản lại sự thật đức
tin của chúng ta, sự thật nhân loại của chúng ta. Bạo lực hủy hoại những gì nó
cho rằng nó bênh vực, như phẩm giá, sự sống, tự do của con người’ (John Paul II,
Homily at Drogheda, Ireland [29 September 1979], 9: AAS 71 [1979], 1081). Những
gì cần thiết ở đây đó là hết sức nỗ lực để hướng dẫn lương tâm con người cũng
như để giáo dục thế hệ trẻ về sự thiện hảo, bằng việc tán thành chủ nghĩa nhân
bản nguyên vẹn và huynh đệ được Giáo Hội loan báo và phát động. Đó là nền tảng
cho một thứ trật tự về xã hội, kinh tế và chính trị biết tôn trọng phẩm giá, tự
do và những quyền lợi nồng cốt của mỗi một con người”. (Khoản số 4)
“Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay được cử hành trong cái ám ảnh thê thảm của biến
cố 11/9 vừa qua. Ngày hôm ấy đã xẩy ra một tội ác khủng khiếp, đó là, trong một
vài giờ khắc ngắn ngủi đã có cả mấy ngàn người vô tội thuộc nhiều chủng tộc khác
nhau bị thảm sát. Từ đó, dân chúng trên khắp thế giới đã cảm thấy mình có thể bị
tổn thương một cách sâu xa cũng như cảm thấy một mối phập phồng lo sợ mới trong
tương lai. Đối với tâm trạng này, Giáo Hội chứng tỏ cho thấy niềm hy vọng của
mình với một xác tín là sự dữ, mầu nhiệm bất chính ‘mysterium iniquitatis’,
không phải là phán quyết tối hậu nơi sinh hoạt trần thế. Đó là niềm hy vọng nâng
đỡ Giáo Hội bước vào năm 2002, ở chỗ, với ơn Chúa, cái thế giới mà, một lần nữa,
quyền lực sự dữ như đang làm chủ tình thế, thực sự sẽ được biến thành một thế
giới được chủ trì bởi những khát vọng cao cả nhất của con tim nhân loại, một thế
giới được sống trong hòa bình đích thực” (khoản số 1).
Trong một bối cảnh thật là thê thảm và hết sức chán nản như thế, mà ngài còn nói
lên được những lời đầy khích lệ và tích cực tin tưởng cuối cùng vừa rồi thì quả
thật đó là những gì chứng tỏ ngài đúng là vị giáo hoàng của Vui Mừng và Hy Vọng
“Gaudium et Spes”, vị giáo hoàng của “Giáo Hội trong thế giới tân tiến” vậy.
Ngài đã vô cùng tài tình phối hợp hiện tình vô cùng đáng thương của nhân loại
bấy giờ với Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis” ở Đường Thánh Giá ngài
dọn cho Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2003 như sau:
• “Mặt đất đã trở thành một nghĩa trang, với rất nhiều con người, rất nhiều nấm
mộ. Cả một hành tinh lớn đầy những mồ mả (…); trong số tất cả những ngôi mộ ở
khắp các lục địa trên trái đất của chúng ta, có một ngôi mộ trong đó Con Thiên
Chúa, con người Giêsu Kitô, đã chiến thắng tử thần bằng sự chết”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL