GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ BẢY 7/5/2005 |
1) ĐTC Biển Đức XVI là một trong hiếm người Thông Hiểu về ông tổ Thệ Phản Martin Lutherô
3) KHOA GIÁO HỘI HỌC HIỆP THÔNG CỦA CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICANÔ II
ĐTC Biển Đức XVI là một trong
hiếm người Thông Hiểu về ông tổ Thệ Phản Martin Lutherô
Một Kitô hữu Luthêrô Đức quốc là Sigrid Spath, người nữ làm việc trên 30 năm ở
hội đồng tổng quản Dòng Tên và cộng tác với Tòa Thánh, có những lúc đã là dẫn
giải viên của Đức Hồng Y Ratzinger. Trong một cuộc họp chung năm 1998, có bà
chứng kiến, giữa vị Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin và nguyên Giám Mục Tin
Lành Luthêrô Wolfgang Huber ở Bálinh nay làm chủ tịch Hội Đồng Giáo Hội Tin Lành
Đức Quốc, Bà cho biết, vị giám mục này đã nói rằng ĐHY là một trong ít người
thực sự hiểu được Martin Luthêrô.
Trong cuộc tranh luận về thông điệp “Đức Tin và Lý Trí” xẩy ra tại Rôma vào
Tháng 10/1998, vị hồng y này đã cho biết rằng trước khi ngài lên đại học, ngài
đã đọc tất cả các tác phẩm của Luthêrô được viết trước thời Cải Cách.
Bà này nói với mạng điện toán toàn cầu Zenit rằng: “Tức là những suy nghĩ của
một Luthêrô Công giáo. ĐHY Ratzinger đã kêu gọi những ai hiện diện hãy đọc lại
những bản văn đó, vì chúng cho thấy cuộc chiến đấu cả thể Luthêrô đã phải đương
đầu với bản thân mình để sống và chấp nhận những giáo huấn của Vị Thiên Chúa
công minh và thiện hảo. ‘Các bạn Thệ Phản thân mến, (vị hồng y kêu gọi), hãy tái
khám phá ra Luthêrô vào những năm ấy’. Cuộc tranh luận kéo dài mấy tiếng đồng hồ.
Giám Mục Huber lấy làm cảm phục trước sự ứng đáp của vị tổng trưởng Thánh Bộ Tín
Lý Đức Tin và khen Đức Ratzinger là một trong ít người thực sự hiểu được Luthêrô”.
Kiến thức của ĐHY Ratzinger về Luthêrô đã làm hiện thực việc ký kết lịch sử Bản
Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa, một bản tuyên ngôn chung được chấp
thuận bởi cả Giáo Hội Công Giáo lẫn Liên Hiệp Thế Giới Luthêrô.
Có một số điểm trong bản dự thảo của bản tuyên ngôn này được trình bày trong năm
1998 đã bị cả Tòa Thánh lẫn hiệp hội loại bỏ. Khi tình hình cho thấy dự án có
thể hỏng cuộc, thì những khó khăn ấy đã được thắng vượt bởi Giám Mục Johannes
Hanselmann, nguyên chỉ tịch Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới, và ĐHY Ratzinger, nhờ
tình thân hữu lâu đời của hai vị này, tình thân hữu đã thực hiện một cuộc họp
riêng giữa hai người vào Tháng 11/1998.
Sauk hi Tiến Sĩ Hanselmann chết vào ngày 2/10/1999, ĐHY Ratzinger đã tiết lộ
trong một bài diễn thuyết là: “Chúng tôi đã thực hiện một cuộc gặp gỡ ở nhà của
người anh em của tôi, tại Đức quốc, khi mà dường như việc thỏa thuận về Tín Lý
Công Chính Hóa đã bất thành. Nhờ đó, trong diễn trình của một cuộc tranh luận
kéo dài cả một ngày, chúng tôi đã tìm thấy được những công thức làm sáng tỏ
những điểm vẫn còn gặp trục trặc…
“Với công thức được dẫn giải vào những ngày ấy, theo cả Liên Hiệp Luthêrô lẫn
giáo huấn của Công Giáo, họ đã có thể công nhận rằng họ đi đến việc thỏa thuận
về một số điển nồng cốt của Tín Lý Công Chính Hóa. Nó không phải là một việc
thỏa thuận có tính cách toàn cầu, thế nhưng, với công thức này mới có thể tiến
đến chỗ ký vào một văn bản thỏa thuận ở những gì căn bản”.
ĐTC Biển Đức XVI về tình hình Giáo Hội trong Thế Giới Tân Tiến trước nhận định của Hồng Y Ratzinger năm 2002 (tiếp theo Thứ Tư 4/5 và Thứ Sáu 6/5)
Nhân dịp Hội Nghị về chủ đề “Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” ở Viện Đại Học Công Giáo Thánh Antôn ở Murcia Tây Ban Nha hôm Thứ Bảy 30/11/2002, các phóng viên báo chí, trong đó có cả của Zenit, đã phỏng vấn ngài về một số vấn đề liên quan đến tình trạng Giáo Hội Hiện Thế ở nhiều phương diện khác nhau như sau:
Vấn Nếu chúng ta thực hiện một cuộc thẩm định về hoạt động phi thường của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thì việc đóng góp quan trọng nhất của triều đại giáo hoàng này là gì? Kitô Giáo sẽ nhớ đến vị Giáo Hoàng này như thế nào?
Đáp Tôi không phải là một vị tiên tri; đó là lý do tại sao tôi không dám nói những gì họ sẽ nói trong vòng 50 năm nữa, thế nhưng tôi nghĩ sự kiện Đức Thánh Cha đã từng hiện diện nơi tất cả mọi lãnh vực của Giáo Hội sẽ là một sự kiện hết sức quan trọng.
Theo chiều hướng này, Ngài đã tạo nên một kinh nghiệm hết sức năng động về công giáo tính cũng như về mối hiệp nhất của Giáo Hội. Sự tổng hợp giữa công giáo tính và mối hiệp nhất là một hợp tấu, chứ không phải là một đồng nhất. Các Vị Giáo Phụ đã nói đến điều này. Babylon là vấn đề đồng nhất, và kỹ thuật tạo nên việc đồng nhất.
Đức tin, như đã được thấy ở Ngày Lễ Ngũ Tuần, thời điểm các vị tông đồ nói tất cả mọi thứ ngôn ngữ, lại là một cuộc hợp tấu. Điều này đã được biểu lộ hết sức rõ ràng nơi giáo triều của Đức Thánh Cha đây, qua các cuộc viếng thăm mục vụ của Ngài, qua các cuộc gặp gỡ của Ngài.
Tôi nghĩ một số văn kiện sẽ mãi mãi có một tầm mức quan trọng, tôi muốn đề cập đến những bức thông điệp “Redemptoris Missio” (Sứ Vụ của Đấng Cứu Chuộc – 7/12/1990 - về giá trị vĩnh viễn của việc Giáo Hội cần phải Truyền Giáo), “Veritatis Splendor” (Rạng Ngời Chân Lý – 6/8/1993 - về một số vấn đề trọng yếu thuộc giáo huấn luân lý của Giáo Hội), “Evangelium Vitae” (Phúc Âm Sự Sống – 25/3/1995 - về giá trị và tính cách bất khả vi phạm của sự sống con người) cũng như “Fides et Ratio” (Đức Tin và Lý Trí – 14/9/1998 - về chân lý và đức tin, và phương tiện để thấu hiểu và truyền đạt đức tin là triết lý). Đầy là 4 văn kiện thực sự sẽ là những đài tưởng niệm trong tương lai.
Sau hết, tôi nghĩ rằng Ngài sẽ được nhớ đến bởi việc Ngài cởi mở với các cộng đồng Kitô Hữu khác, với các tôn giáo khác trên thế giới, với thế giới trần thế, với các ngành khoa học, với giới chính trị. Trong các lãnh vực này, Ngài luôn qui hướng chúng về đức tin và những giá trị của chúng, nhưng đồng thời Ngài cũng cho thấy rằng đức tin có thể nhập cuộc đối thoại với hết mọi người.
Vấn Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã góp phần vào vấn đề đối thoại liên tôn những gì?
Đáp Đức Thánh Cha này cảm thấy sứ vụ của Ngài là một sứ vụ hòa giải trên thế giới, một sứ vụ hòa bình. Trong khi quá khứ bất hạnh thay có những cuộc chiến tranh về tôn giáo thì Đức Thánh Cha đây muốn chứng tỏ cho thấy rằng mối liên hệ thực sự nơi tôn giáo không phải là chiến tranh, là bạo lực, mà là đối thoại và nỗ lực tìm hiểu những yếu tố của sự thật được thấy nơi các tôn giáo khác.
Đức Thánh Cha không muốn tương đối hóa vai trò độc nhất vô nhị của Chúa Kitô, Đấng là đường, là sự thật và là sự sống, nhưng Ngài muốn chứng tỏ cho thấy rằng sự thật về Chúa Kitô ấy không được loan báo bằng võ lực hay bằng quyền năng nhân loại, mà chỉ bằng sức mạnh của chính sự thật thôi. Đó là lý do cần phải thực hiện việc giao tiếp giữa loài người với nhau về vấn đề đối thoại và yêu thương, như các vị tông đồ đã cho thấy trong cuộc đại truyền giáo thời Giáo Hội sơ khai, ở chỗ các vị không sử dụng đến quyền lực trần gian mà là sức mạnh của niềm tin.
Chứng từ khổ đau, bác ái và đối thoại đã chinh phục được thế giới xưa kia. Đức Thánh Cha này chỉ muốn cố gắng nuôi dưỡng sức mạnh của việc đối thoại và yêu thương này của những thế kỷ đầu tiên trong mối liên hệ với các tôn giáo mà thôi.
Vấn Đã từng được nói đến là cần phải triệu tập một Công Đồng Chung Vaticanô III để Giáo Hội có thể thích ứng với thời đại mới này. Đức Hồng Y nghĩ sao?
Đáp Trước hết, tôi xin được nói rằng đây là một vấn đề thực tiễn. Chúng ta chưa áp dụng đủ di sản của Công Đồng Chung Vaticanô II. Chúng ta vẫn còn đang hiện thực và giải thích di sản này theo những diễn tiến trọng yếu của nó. Có thể áp dụng biện pháp kỹ thuật một cách nhanh chóng, nhưng sự sống đi theo những đường lối lâu dài hơn. Cần có thời gian cho một khu rừng mọc lên; cần có thời gian cho một con người tăng trưởng.
Bởi thế, những thực tại thiêng liêng này, như việc hiện thực của một công đồng, là những đường lối sống cần một thời khoảng nào đó chứ không thể được hoàn tất ngày trước ngày sau. Đó là lý do tại sao chưa đến lúc cần phải có một công đồng mới.
Đây không phải chỉ là vấn đề trọng yếu mà còn là một vấn đề thực tế nữa, ở chỗ, chúng ta thấy có 2 ngàn vị giám mục tham dự Công Đồng Chung Vatican II, và đã cả là một vấn đề khó khăn để họp lại trao đổi với nhau. Hiện nay chúng ta có tới 4 ngàn vị, nên tôi nghĩ chúng ta cần phải sáng chế ra một thứ kỹ thuật trao đổi.
Tôi xin nhắc lại những gì đã xẩy ra ở thế kỷ thứ bốn, một thế kỷ của các đại công đồng. Đó là vào thời điểm 10 năm sau một công đồng, Thánh Gregory Nazianzen được mời tham dự một công đồng mới, thánh nhân đã nói: “Không! Tôi không tham dự đâu. Hiện nay chúng ta phải tiếp tục làm việc cho công đồng trước đã. Chúng ta có rất nhiều vấn đề. Tại sao anh em muốn triệu tập liền một công đồng khác vậy?” Tôi nghĩ rằng tiếng nói có tác dụng cảm kích một cách nào đó ấy cho thấy rằng cần phải có thời gian để hiện thực một công đồng.
Trong thời gian giữa hai đại công đồng, cần phải có những hình thức liên hệ khác nơi các hàng giáo phẩm, chẳng hạn như những cuộc họp thượng hội giám mục ở Rôma. Chắc chắn cần phải cải tiến về phương thức vì có rất nhiều tính cách đơn điệu. Chúng ta thực sự cần phải tìm ra một tiến trình cho thượng hội giám mục, một đường lối chung. Thế rồi có cả những hội nghị giám mục theo địa lục, theo miền v.v., có hoạt động hiệu nghiệm của các hội đồng giám mục, có những cuộc họp của các hội đồng giám mục với Tòa Thánh.
Trong thời gian 5 năm, chúng tôi (ở Giáo Triều Rôma) được gặp tất cả các vị giám mục trên thế giới. Chúng tôi đã cải tiến những cuộc viếng thăm “ngũ niên” này rất nhiều, những cuộc viếng thăm trước đây rất trang trọng nhưng nay thực sự là những cuộc gặp gỡ trao đổi với nhau. Bởi thế, chúng ta cần phải cải tiến những dụng cụ này để thực hiện việc trao đổi thường xuyên nơi tất cả mọi lãnh vực của Giáo Hội cũng như nơi tất cả mọi lãnh vực của Tòa Thánh, hầu chiếm đạt hơn nữa việc áp dụng Công Đồng Chung Vaticanô II. Thế rồi, chúng ta hãy chờ coi …
Còn tiếp
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu được Màn Điện Toán Zenit phổ biến những ngày Thứ Ba 3/12/2002 và Thứ Tư 4/12/2002, sau khi hồng y Ratzinger trở thành Giáo Hoàng ngày 19/4/2005, Zenit lại cho phổ biến bài phỏng vấn trên vào ngày Thứ Sáu 22/4/2005)
KHOA GIÁO HỘI HỌC HIỆP THÔNG
CỦA CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICANÔ II
(tiếp theo Thứ Tư 4/5 và Thứ Sáu 6/5)
ĐHY Joseph Ratzinger, Tổng Trưởng
Thánh Bộ Đức Tin - Bài Mở Đầu cho Hội Nghị Mục Vụ của Giáo Phận Aversa Ý Quốc
chiều ngày 15/9/2001
II.- Giáo Hội là Dân Chúa
Sau cái hào hứng ban đầu trước sự khám phá ra tư tưởng Thân Mình Chúa Kitô, các
học giả đã phân tích và dần dần hoàn chỉnh quan niệm này và thực hiện những điều
sửa chữa theo hai chiều hướng. Chúng ta đã đề cập đến chiều hướng thứ nhất nơi
những điều sửa chữa này qua công cuộc của Henri de Lubac. Vị này đã nêu lên một
ý tưởng cụ thể về Thân Mình Chúa Kitô bằng cách thực hiện một khoa giáo hội học
về Thánh Thể, và từ đó gợi lên những vấn đề thực tiễn liên quan đến trật tự pháp
chế của Giáo Hội cũng như về những mối liên hệ hỗ tương giữa các Giáo Hội địa
phương và Giáo Hội hoàn vũ. Một hình thức khác của vấn đề sữa chữa này được bắt
đầu ở Đức vào thập niên 1930, nơi có một số thần học gia phê bình sự kiện là căn
cứ vào tư tưởng Nhiệm Thể thì có một số mối liên hệ không được rõ ràng giữa vấn
đề hữu hình và vô hình, giữa luật lệ và ân sủng, giữa trật tự và sự sống. Bởi
thế họ đề nghị quan niệm “Dân Chúa” là quan niệm trước hết được thấy trong Cựu
Ước, như là một quảng diễn về Giáo Hội giúp người ta có thể dễ dàng áp dụng vào
những thể loại về xã hội hay pháp chế. Tuy Nhiệm Thể Chúa Kitô thật sự vẫn là
một “hình ảnh” quan trọng, song tự mình, nó không thể đáp ứng nổi nhu cầu đòi
hỏi của thần học trong việc diễn đạt những điều liên quan đến “các thứ quan niệm”.
Thoạt tiên thì việc bình phẩm về tư tưởng Thân Mình Chúa Kitô
là một cái gì đó nông nổi. Việc tìm hiểu sâu xa hơn nữa về tư tưởng Thân Mình
Chúa Kitô đã cho thấy được những gì tích cực của nó; quan niệm “Dân Chúa”, cùng
với quan niệm Thân Mình Chúa Kitô, đã đi vào khoa giáo hội học của Công Đồng này.
Người ta đã nghĩ rằng hình ảnh Nhiệm Thể có thể là một khởi điểm quá hạn hẹp để
xác định nhiều hình thức thuộc về Giáo Hội mà giờ đây được thấy là rắc rối nơi
lịch sử loài người. Nếu chúng ta sử dụng hình ảnh thân thể để diễn tả “việc
thuộc về” là chúng ta chỉ giới hạn vào hình thức cho thấy là “phần tử”. Một là
phần tử hai là không phải là phần tử chứ không có những trường hợp khác. Vậy
người ta có thể đặt vấn đề là hình ảnh về thân thể quá hạn hẹp vì nó bộc lộ cho
thấy thực sự chỉ có những cấp độ trực tiếp thuộc về thôi. Vì lý do ấy, Hiến Chế
về Giáo Hội đã thấy rằng cần phải sử dụng quan niệm “Dân Chúa”. Quan niệm này có
thể diễn tả mối liên hệ của những anh chị em Kitô hữu không phải là Công Giáo
đối với Giáo Hội như đang “ở trong mối hiệp thông”, cũng như mối liên hệ của
những người không phải là Kitô hữu như đang “hướng về” Giáo Hội là nơi, trong cả
hai trường hợp, người ta có thể sử dụng tư tưởng Dân Chúa (Lumen Gentium,
15,16).
Về một phương diện người ta có thể nói rằng Công Đồng này đã sử dụng tư tưởng
“Dân Chúa” trước hết như là một chiếc cầu nối cho vấn đề đại kết. Nó còn áp dụng
cho cả khía cạnh khác nữa, đó là khía cạnh tái khám phá về Giáo Hội sau Thế
Chiến Thứ I, một thứ tái khám phá lúc ban đầu đã là một hiện tượng chung cho cả
người Công Giáo lẫn Tin Lành. Phong trào về phụng vụ thực sự không hề có ý định
chỉ giới hạn nơi Giáo Hội Công Giáo thôi. Đặc tính chung này đã gây nên vấn đề
phê phán lẫn nhau. Tư tưởng về Thân Mình Chúa Kitô đã được phát triển trong Giáo
Hội Công Giáo, khi Giáo Hội được ấn định như “Chúa Kitô tiếp tục sống trên trần
gian” và vì thế Giáo Hội được diễn tả như là việc nhập thể của Con tiếp tục cho
đến tận thế.
Tư tưởng này đã gây nên vấn đề chống đối nơi anh chị em Tin Lành, thành phần
thấy nơi giáo huấn này một thứ đồng hóa Giáo Hội với Chúa Kitô, một thứ đồng hóa
không thể nào chấp nhận được. Theo anh chị em Tin Lành thì Giáo Hội dường như
tôn thờ bản thân mình và cho rằng mình bất khả sai lầm. Dần dần, tư tưởng này đã
làm cho các tư tưởng gia Công Giáo suy nghĩ, thành phần, cho dù không đến nỗi đi
quá xa như thế, cũng thấy rằng ý thức về Giáo Hội ấy làm cho hết mọi tuyên ngôn
của Giáo Hội cùng với hoạt động mục vụ của Giáo Hội trở thành tối hậu đến nỗi
khiến cho bất cứ một lời bình phẩm nào cũng đều như là một thứ tấn công chính
Chúa Kitô mà hoàn toàn quên đi yếu tố con người, có những lúc rất con người, của
Giáo Hội. Cần phải rõ ràng nhấn mạnh đến việc phân biệt về Kitô Học, ở chỗ, Giáo
Hội không đồng hóa với Chúa Kitô, nhưng Giáo Hội đừng trước nhan Người. Giáo Hội
là một Giáo Hội của tội nhân, hằng cần phải được thanh tẩy và canh tân, cần phải
trở nên Giáo Hội. Tư tưởng về việc canh tân đã trở thành một yếu tố quan trọng
nơi quan niệm về Dân Chúa, nhưng khó phát triển quan niệm canh tân theo cấu trúc
về Thân Mình Chúa Kitô.
Còn một yếu tố thứ ba cũng thuận lợi cho tư tưởng về “Dân Chúa” nữa. Vào năm
1939, có một nhà diễn giải Thánh Kinh Tin Lành là Ernst Kasemann đã đặt tên cho
vấn đề chuyên khảo của mình về Bức Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái nhan đề Dân Chúa
Hành Hương. Trong tiến trình bàn luận của Công Đồng, nhan đề này lập tức trở
thành một câu tâm niệm, vì nó giúp làm cho một số vấn đề được hiểu rõ hơn nữa
trong những cuộc bàn luận liên quan đến Hiến Chế về Giáo Hội, ở chỗ, Giáo Hội
chưa đạt tới đích điểm của mình. Niềm hy vọng thực sự và xứng hợp của Giáo Hội
vẫn còn ở trước mặt Giáo Hội. Vấn đề chấp nhận “chiều kích cánh chung” liên quan
đến quan niệm về Giáo Hội đã sáng tỏ. Cụm từ “Dân Chúa” bao hàm mối hiệp nhất
của lịch sử cứu độ liên quan đến cả dân Do Thái và Giáo Hội trong cuộc hành
trình của Giáo Hội. Cụm từ này cũng diễn tả cho thấy bản chất lịch sử của một
Giáo Hội hành hương sẽ chưa đạt tới tầm vóc viên trọn của mình cho tới khi trải
qua cuộc hành trình theo giòng thời gian và phát triển trong bàn tay Thiên Chúa.
Cụm từ ấy cho thấy mối hiệp nhất của Dân Chúa nơi tính cách đa dạng, như ở nơi
tất cả mọi dân tộc khác, của những thừa tác vụ và dịch vụ khác nhau; tuy nhiên,
vượt lên trên và vượt ra ngoài tất cả những khác biệt ấy, tất cả đều là những kẻ
hành hương thuộc về cùng một cộng đồng Dân Chúa hành hương. Tổng quát mà nói,
nếu người ta muốn tóm lại những yếu tố nào quan trọng đối với Công Đồng liên
quan tới quan niệm “Dân Chúa”, họ có thể nói rằng cụm từ “Dân Chúa” là yếu tố đã
cho thấy bản chất lịch sử của Giáo Hội, cho thấy mối hiệp nhất nơi lịch sử của
Thiên Chúa với con người, mối hiệp nhất nội tại của dân Chúa vượt ra ngoài các
biên giới của những bậc sống về bí tích. Nó bao hàm cả động năng cánh chung, bao
hàm bản chất tạm thời và mỏng dòn của Giáo Hội hằng cần phải canh tân; và sau
hết nó cho thấy chiều kích đại kết, một chiều kích đa dạng về đường lối là những
gì giúp cho mối hiệp thông cũng như cho việc hướng về Giáo Hội có thể hiện hữu
và thực sự hiện hữu, ngay cả ở ngoài biên giới của Giáo Hội Công Giáo.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu những nhà bình luận đã cắt nghĩa chữ “dân” trong quan
niệm “Dân Chúa” theo chiều hướng chính trị nói chung. Với những ai phát động thứ
thần học giải phóng thì “dân” nếu được hiểu theo nghĩa chủ nghĩa cộng sản
Marxist thì đó là thành phần chống lại tầng lớp cai trị, hay nói một cách tổng
quát hơn, nó được ám chỉ tới một thứ chủ quyền đại chúng vốn đã từng được áp
dụng vào trường hợp của Giáo Hội kéo dài một thời gian rất lâu. Vấn đề này đã
gây ra những cuộc tranh luận bao rộng liên quan đến các thứ cấu trúc về Giáo Hội.
Có trường hợp câu biểu hiệu này đã được hiểu theo một ý nghĩa chuyên biệt Tây
Phương như là “việc dân chủ hóa”, hay cũng theo ý nghĩa được gọi là Đông Phương
là “Các Thứ Cộng Hòa Nhân Dân”. Dần dần hiện tượng “pháo bông về ngôn từ” (N.
Lohfink) này tàn cuộc, một là vì những trò chơi thế lực bị kiệt sức, nhường bước
cho công việc bình thường ở các hội đồng giáo xứ, hai là vì cuộc nghiên cứu thần
học sáng giá đã cho thấy một cách vững chắc là không thể nào chính trị hóa một
quan niệm vốn đã được tạo nên theo một chiều hướng hoàn toàn khác biệt. Bochum
Werner Berg đã cống hiến một thí dụ về việc tỉ mỉ giải thích cho thấy cuộc
nghiên cứu thần học này khi khẳng định là: “Cho dù chỉ có một số ít đoạn đề cập
tới ‘Dân Chúa’ (một cụm từ hiếm thấy trong Thánh Kinh), vẫn hiển nhiên thấy được
một yếu tố chung duy nhất đó là: lời diễn đạt về ‘Dân Chúa’ nói lên mối liên hệ
với Thiên Chúa, mối liên hệ giữa Thiên Chúa với những ai được ấn định làm Dân
Chúa, bởi thế nó là một ‘liên hệ theo hàng dọc’. Lời diễn đạt ấy không dễ dàng
nghiêng chiều về một thứ cơ cấu phẩm trật của cộng đồng này, nhất là trường hợp
lời diễn đạt ‘Dân Chúa’ được sử dụng ‘nghịch lại’ với các vị thừa tác viên…” Nếu
chúng ta bắt đầu với ý nghĩa thánh kinh của lời diễn đạt này thì nó không còn
được hiểu một cách dễ dàng như là một tiếng kêu chống đối những vị thừa tác viên
nữa, vì “Chúng ta là Dân Chúa”. Josef Meyer zu Schlochtern, Giáo Sư Thần Học Cơ
Bản ở Paderborn, đã đúc kết việc bàn luận của mình về quan niệm “Dân Chúa” bằng
một nhận định liên quan đến Hiến Chế về Giáo Hội của Công Đồng. Bản hiến chế này
đã kết thúc bằng “việc phác tả cấu trúc Ba Ngôi Thiên Chúa như là nền tảng cho
ấn định tối hậu về Giáo Hội…”. Vấn đề bàn luận này đã xoay chiều về điểm chính
yếu của nó, đó là vấn đề Giáo Hội không hiện hữu cho mình; trái lại, Giáo Hội là
dụng cụ của Thiên Chúa trong việc qui tụ nhân loại lại trong Ngài và sửa soạn
cho thời điểm khi “Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự” (1Cor 15:28). Chính quan
niệm về Thiên Chúa đã không hề được đề cập tới trong suốt cuộc nổ “pháp bông”
liên quan đến lời diễn đạt này, do đó, đã làm mất đi ý nghĩa của nó. Một Giáo
Hội chỉ hiện hữu cho mình sẽ là một thứ giáo hội vô bổ. Dân chúng sẽ nhận ra
ngay điều ấy. Cuộc khủng hoảng về Giáo Hội được phản ảnh qua lời diễn đạt “Dân
Chúa” là một “cuộc khủng hoảng về Thiên Chúa”. Nó phát xuất từ việc chúng ta
loại trừ cái chính yếu. Tất cả những gì còn lại chỉ là một cuộc tranh đấu về
quyền lực mà thôi. Loại chiến đấu này vẫn từng xẩy ra đầy giẫy trên thế giới,
Giáo Hội không cần phải nhào vô đấu trường này.
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL
Chuyển dịch từ tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh Ngữ, N.4- 23/1/2002,
trang 5-7
(còn tiếp)