GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ NĂM 30/11/2006 TUẦN XXXIV THƯỜNG NIÊN |
? ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 29/11 – Đức Thượng Phụ Bartholomew I ngỏ lời nghênh đón sau Buổi Cầu Nguyện ở Vương Cung Thánh Đường Thánh George ở Phanar, Istanbul
? ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 29/11 – Đáp từ Đức Thượng Phụ Bartholomew I vào buổi Cầu Nguyện tại Vương Cung Thánh Đường Thánh George ở Phanar, Istanbul
? ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 28/11 – Diễn Từ ngỏ cùng Phái Đoàn Ngoại Giao ở Ankara
"Huynh thân mến, xin chào mừng huynh. ‘Chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến’".
ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 29/11 – Đức Thượng Phụ Bartholomew I ngỏ lời nghênh đón sau Buổi Cầu Nguyện ở Vương Cung Thánh Đường Thánh George ở Phanar, Istanbul
Trọng Kính Đức Thánh Cha, người Anh Em yêu dấu trong Chúa Kitô,
Với những tâm tình chân thành hân hoan và thỏa nguyện chúng tôi nghênh đón ngài đến với thành phố linh thánh và lịch sử Istanbul này.
Đây là một thành phố được tiếng là gia sản được bảo trì cho việc tăng trưởng của Giáo Hội qua các thế kỷ. Chính tại nơi đây Thánh Anrê, ‘người tông đồ đầu tiên được kêu gọi’ trong các Tông Đồ đã thành lập Giáo Hội địa phương Byzantium này và đã tấn phong Thánh Stachys làm vị giám mục tiên khởi của nó. Chính ở nơi đây mà vị Hoàng Đế và vị ‘tương đương với các Vị Tông Đồ’ là Thánh Constantine Cả đã thành lập một Tân Rôma. Chính ở nơi đây mà các Đại Công Đồng Chung của thời Giáo Hội sơ khai đã nhóm họp để hình thành bản Tuyên Xưng Đức Tin. Chính ở nơi đây các vị tử đạo và các thánh nhân, các vị giám mục và các đan sĩ, các thần học gia và các bậc thày, cùng với ‘đông đảo các chứng nhân’ đã tuyên xưng những gì được các vị tiên tri trông thấy, những gì được các vị tông đồ giảng dạy, những gì được Chúa Hội lãnh nhận, những gì được các bậc thày làm thành tín lý, những gì thế giới hiểu biết, những gì ân sủng sáng soi, tức là… chân lý được nhận lãnh, là niềm tin của cha ông. Đó là niềm tin của Chính Thống Giáo. Niềm tin này đã thiết lập vũ trụ.
Bởi vậy, với vòng tay rộng mở chúng tôi ngênh đón ngài nhân dịp hồng ân đến thăm Thành Phố này lần đầu tiên, như các vị tiền nhiệm của tôi là các Đức Thượng Phụ Athenagoras và Demetrios, đã tiếp đón các vị tiền nhiệm của ngài là Giáo Hoàng Phaolô VI và Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Những con người khả kính này của Giáo Hội cảm nhận được giá trị khôn lường và nhu cầu khẩn thiết về những cuộc gặp gỡ như thế trong tiến trình hòa giải bằng việc đối thoại trong yêu thương và chân lý.
Bởi thế, cả hai chúng ta, như những người thừa kế của các vị và là những người thừa kế Ngai Tòa Rôma và Tân Rôma, chúng ta đồng chịu trách nhiệm về những bước – dĩ nhiên như chúng ta chịu trách nhiệm về những lỡ bước – trong cuộc hành trình này cũng như trong cuộc chiến đấu của chúng ta để tuân lệnh của Chúa chúng ta đó là xin cho thành phần môn đệ của Người ‘được nên một’.
Chính trong tinh thần này mà nhờ ơn Chúa, chúng tôi đã nhiều lần đến viếng Rôma và hai năm trước đây để hộ tống các hài tích của Thánh Grêgôriô Thần Học Gia và Thánh Gioan Kim Khẩu, nguyên là những vị Tổng Giám Mục của Thành Phố này, những vị có thánh tích được cố Giáo Hoàng quảng đại trả về cho Vương Cung Thánh Đường Thượng Phụ này. Chính trong tinh thần ấy nữa mà chúng tôi đã đến Rôma vào những tháng sau đó để tham dự lễ an táng của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Chúng tôi hết lòng cảm tạ Thiên Chúa về việc Đức Thánh Cha đã thực hiện những bước tương tự hôm nay đây với cùng một tinh thần. Chúng tôi dâng lời tạ ơn Thiên Chúa bằng lời kinh ca tụng và bày tỏ lời đa tạ cùng Đức Thánh Cha trong lòng quí mến huynh đệ.
Huynh thân mến, xin chào mừng huynh. ‘Chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến’.
‘Chúc tụng Danh Chúa bây giờ và cho đến muôn đời’
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 29/11/2006
? "Chớ gì cuộc gặp gỡ này củng cố lòng quí mến nhau của chúng ta và lập lại việc chúng ta cùng nhau quyết tâm kiên trì tiến bước trong cuộc hành trình tiến tới chỗ hòa giải và an bình của hai Giáo Hội".
ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 29/11 – Đáp từ Đức Thượng Phụ Bartholomew I vào buổi Cầu Nguyện tại Vương Cung Thánh Đường Thánh George ở Phanar, Istanbul
’Kìa, anh
em xum họp một nhà bao là tốt đẹp bao là sướng vui’ (Ps 133:1)
Trọng Kính Đức Thượng Phụ,
|
Tôi hết lòng cám ơn về việc tiếp đón huynh đệ giành cho tôi với tư cách cá nhân ngài cũng như với tư cách của một Tòa Thượng Phụ Toàn Cầu Chính Thống Giáo. Tôi sẽ mãi mãi ghi nhớ cử chỉ này. Tôi cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta thực hiện được cuộc hội ngộ này, với đầy những thiện chí chân thành và ý nghĩa giáo hội.
Tôi cảm thấy hết sức vui mừng được ở giữa những người anh em của tôi trong Chúa Kitô, nơi Vương Cung Thánh Đường này, để cùng nguyện cầu với Chúa cũng như để nhớ lại những biến cố trọng yếu đã từng bảo trì cuộc dấn thân của chúng ta trong việc hoạt động cho mối hiệp nhất trọn vẹn giữa Kitô hữu Công Giáo và Chính Thống Giáo. Trước hết tôi muốn nhắc lại quyết định can đảm trong việc xóa bỏ đi cái ký ức về những cuộc tuyệt thông nhau vào năm 1054. Bản tuyên ngôn chung của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Athenagoras, một bản tuyên ngôn được viết lên bằng một tinh thần tái ý thức yêu thương, được long trọng đọc trong một cuộc cử hành cùng một lúc tại cả Đền Thờ Thánh Phêrô ở Rôma lẫn tại Vương Cung Thánh Đường Thượng Phụ này. Câu Tomos của vị Thượng Phụ này được căn cứ vào lời tuyên xưng đức tin của Thánh Gioan: ‘Ho Theós agapé estin’ (1Jn 4:8) - Thiên Chúa là tình yêu! Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cũng đã chọn để bắt đầu cuộc Brief riêng của ngài cũng hoàn toàn xứng hợp như thế, với lời khuyến dụ của Thánh Phaolô là: ‘Ambulate in dilectione’ (Eph 5:2) – ‘Hãy tiến bước trong yêu thương’. Chính trên nền tảng yêu thương nhau này mà những mối liên hệ mới giữa hai Giáo Hội Rome và Constantinople đã phát triển.
Các dấu hiệu của tình yêu thương này đã được hiển nhiên nơi nhiều bản tuyên ngôn về việc quyết tâm chung cũng như nơi nhiều cử chỉ đầy ý nghĩa. Cả hai vị Giáo Hoàng Phaolô VI và Gioan Phaolô II đều đã được nồng hậu tiếp đón như những người viếng thăm Ngôi Thánh Đường Thánh George này, và đã trân trọng liên kết với các Đức Thượng Phụ Athenagoras I và Dimitrios I để củng cố động lực hướng tới chỗ tương kiến và tìm cầu mối hiệp nhất trọn vẹn. Chớ gì tên tuổi của các vị được kính nhớ và ca ngợi!
Tôi cũng hoan hỉ được ở trên mảnh đất liên hệ chặt chẽ với niềm tin Kitô Giáo này, nơi mà nhiều Giáo Hội đã được nẩy nở vào những thời điểm xa xưa. Tôi nghĩ đến những lời khuyến dụ của Thánh Phêrô ngỏ cùng các cộng đồng Kitô hữu ban đầu ‘ở Pontus, Galatia, Cappadocia, Asia, và Bithynis’ (1Pt 1:1), cũng như đến mùa gặt dồi dào các vị tử đạo, các thần học gia, các vị chủ chăn, các đan viện, và những con người nam nữ thánh đức xuất phát từ các Giáo Hội này qua các thế kỷ.
Tôi cũng đồng thời nhớ đến các vị thánh và các vị mục tử nổi nang đã từng trông coi Tòa Thánh Constantinople này, trong đó có Thánh Gregory Nazianzus và Thánh John Chrysostom, những vị cũng được Tây phương tôn kính như những vị Tiến Sĩ của Giáo Hội. Những hài tích của các vị còn tại Đền Thờ Thánh Phêrô ở Vatican, mà một phần đã được cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tặng cho Đức Thượng Phụ như dấu chỉ hiệp thông để tôn kính chính Vương Cung Thánh Đường này. Thật vậy, các ngài là những vị chuyển cầu xứng đáng cho chúng ta trước nhan Chúa.
Ở phần đất thuộc thế giới Đông phương này cũng là nơi đã diễn ra 7 Công Đồng Chung mà cả Kitô hữu Chính Thống Giáo và Công Giáo đều nhìn nhận là có thẩm quyền về đức tin và kỷ luật của Giáo Hội. Những Công Đồng ấy là những mốc điểm và là những chỉ dẫn lâu dài cho con đường của chúng ta tiến tới mối hiệp thông trọn vẹn.
Tôi xin đúc kết bằng việc bày tỏ một lần nữa niềm vui của tôi được ở cùng anh em. Chớ gì cuộc gặp gỡ này củng cố lòng quí mến nhau của chúng ta và lập lại việc chúng ta cùng nhau quyết tâm kiên trì tiến bước trong cuộc hành trình tiến tới chỗ hòa giải và an bình của hai Giáo Hội.
Tôi xin chào anh em trong tình yêu của Chúa Kitô. Xin Chúa luôn ở với anh em.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 29/11/2006
‘Chúng ta rất cần đến việc thực sự đối thoại giữa các tôn giáo cũng như giữa các nền văn hóa, có khả năng hỗ trợ chúng ta, trong tinh thần hợp tác hiệu năng, thắng vượt tất cả mọi thứ căng thẳng’
ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ (28/11-1/12/2006): 28/11 – Diễn Từ ngỏ cùng Phái Đoàn Ngoại Giao ở Ankara
Thưa Quí Vị Đại Sứ,
Cùng Quí Bà và Quí Ông,
|
Tôi rất hân hoan gửi lời chào tới quí vị, Chư Vị Đại Sứ mang một trọng trách cao quí trong việc đại diện cho xứ sở của mình tại nước Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ, và qui tụ lại nơi đây tại Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh để gặp gỡ vị Thừa Kế Thánh Phêrô. Tôi xin cám ơn vị Phó Đoàn của quí vị là Đại Sứ nước Lebanon, về những lời lẽ tốt đẹp ngỏ cùng tôi. Tôi vui mừng tái xác nhận việc tri ân cảm tạ Tòa Thánh thường bày tỏ đối với những nhiệm vụ quan trọng được quí vị thi hành, một nhiệm vụ ngày nay đang càng ngày càng có chiều kích quốc tế. Thật vật, sứ vụ cxủa quí vị trước hết kêu gọi quí vị bảo vệ và cổ võ những thiện ích hợp lý của quốc gia riêng biệt của quí vị, ‘một thứ liên thuộc bất khả tránh mà ngày nay đang càng ngày càng liên kết các dân tộc trên thế giới lại với nhau, kêu mời những vị ngoại giao, bằng một đường lối mới mẻ và sáng tạo, trở thành những người cổ võ mối cảm thông, tình hình an ninh quốc tế và hòa bình giữa các quốc gia’ (John Paul II, Address to the Diplomatic Corps, Mexico, 29 June 1979).
Tôi muốn mở đầu bằng việc gợi nhớ tới những chuyến viếng thăm đáng nhớ của hai vị tiền nhiệm tôi ở Thổ Nhĩ Kỳ, đó là Giáo Hoàng Phaolô VI vào năm 1967 và Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1979. Tôi cũng không thể không đề cập tới Giáo Hoàng Biển Đức XV, một cổ động viên hòa bình không biết mệt mỏi trong thời Thế Chiến I, và Chân Phước Gioan XXIII, vị Giáo Hoàng được tiếng là ‘người bạn của dân Thổ’, vị mà sau những tháng năm làm Đại Điện Tòa Thánh ở Thổ Nhĩ Kỳ và Quản Nhiệm Tòa Thánh Hạt Latinh ở Istanbul, đã lưu lại nơi mọi người nỗi nhớ nhung về một vị mục tử ân cần và yêu thương, nhất là nhiệt tình gặp gỡ và tìm hiểu nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ, thành phần nhận ngài là một vị khách ưu ái của họ! Bởi thế tôi sung sướng được làm một người khách của nước Thổ hôm nay đây, đến đây như là một người bạn và như là một tông đồ của việc đối thoại và bình an.
Trên 40 năm trước đây, Công Đồng Chung Vaticanô II đã viết rằng ‘Bình an không phải chỉ là tình trạng vắng bóng chiến tranh: nó không thể trở thành một thứ bảo trì mức độ quân bình về quyền lực giữa các lực lượng đối nghịch nhau…. Mà là hoa trái của trật tự xác đáng của sự vật được vị sáng lập thần linh đã ấn định nơi xã hội loài người và là những gì cần phải được nhân loại đạt tới theo nỗi khát khao của họ mong cho công lý được hoàn toàn sáng tỏ hơn’ (Gaudium et Spes, 78). Chúng ta đã nhận thấy rằng bình an đích thực là những gì cần đến công lý, trong việc điều chỉnh những tình trạng bất quân bình về kinh tế và những hỗn loạn về chính trị luôn làm căng thẳng và đe dọa hết mọi xã hội. Những diễn tiến gần đây về tình trạng khủng bố và về những cuộc xung đột ở một miền đất nào đó, đã là những gì đề cao việc cần phải tôn trọng những quyết định của các tổ chức quốc tế, cũng như cần phải ủng hộ những quyết định ấy, đặc biệt bằng cách cống hiến cho chúng phương tiện hiệu nghiệm, hầu có thể ngăn ngừa những cuộc xung đột và duy trì những vùng trung lập giữa thành phần tham chiến, nhờ sự hiện diện của các lực lượng bảo vệ hòa bình.
Tuy nhiên, tất cả những điều ấy cũng chưa đủ trừ phi thực hiện một cuộc thực sự đối thoại với nhau, tức là thực hiện một cuộc tranh cãi tốt đẹp giữa những phe phái liên quan, để tiến tới những giải pháp lâu bền và khả chấp về chính trị, những giải pháp tôn trọng con người và thành phần dân chúng. Tôi đang đặc biệt nghĩ tới cuộc xung đột náo động ở Trung Đông, không có dấu hiệu hạ bớt và đang đè nặng trên toàn thể đời sống quốc tế; tôi đang nghĩ tới cái nguy cơ của những cuộc xung đột về ngoại biên đang tăng bội và những hành động khủng bố đang lan tràn. Tôi cám ơn những nỗ lực của nhiều quốc gia hiện đang dấn thân vào cuộc tái thiết hòa bình ở Lebanon, trong số đó có Thổ Nhĩ Kỳ.
Hỡi quí vị Đại Sứ, trước sự hiện diện của quí vị đây, một lần nữa tôi kêu gọi việc khôn ngoan tỉnh táo của cộng đồng quốc tế, đừng bỏ bê trách nhiệm của mình, trái lại, hãy hết sức cố gắng cổ võ việc đối thoại giữa các phe phái trong cuộc, một cuộc đối thoại duy nhất có thể bảo đảm việc tôn trọng kẻ khác, trong khi vẫn bảo toàn được những lợi ích hợp lý mà lại loại trừ được việc sử dụng phương tiện bạo lực. Như tôi đã viết trong sứ điệp đầu tiên của mình cho Ngày Thế Giới Hòa Bình, ‘chân lý của sự bình an kêu gọi hết mọi người hãy vun trồng những mối liên hệ bổ ích và chân thành; nó phấn khích họ tìm kiếm và theo đuổi những đường lối thứ tha và hòa giải, minh bạch trong việc đối xứ với kẻ khác, và trung thành với lời nói của họ’ (1/1/2006, đoạn 6).
Thổ Nhĩ Kỳ bao giờ cũng giữ vai trò như là một chiếc cầu nối giữa Đông và Tây, giữa Á Châu và Âu Châu, và như một giao điểm của các nền văn hóa và tôn giáo. Trong thế kỷ vừa qua, quốc gia này đã có cách để trở thành một đại Quốc Gia tân tiến, đáng kể ở chỗ chọn một thể chế trần thế, phân biệt rõ ràng giữa xã hội dân sự và tôn giáo, một bên có tính cách tự lập theo lãnh vực xứng hợp của mình mà vẫn tôn trọng lãnh vực của nhau. Sự kiện đa số dân chúng của xứ sở này là tín đồ Hồi Giáo là một yếu tố quan trọng trong sinh hoạt xã hội, một yếu tố mà Quốc Gia này không thể không chú trọng tới, tuy nhiên, Bản Hiến Pháp của Thổ Nhĩ Kỳ công nhận quyền lợi của hết mọi người công dân trong việc được tự do thờ phượng và được tự do theo lương tâm. Các quyền bính dân sự của hết mọi quốc gia dân chủ có phận sự phải bảo đảm quyền tự do hiệu lực này của tất cả mọi tín hữu và cho phép họ được tự do tổ chức sinh hoạt nơi các cộng đồng tôn giáo của họ.
Dĩ nhiên là tôi hy vọng rằng các tín hữu, bất kể họ thuộc về cộng đồng tôn giáo nào, sẽ tiếp tục được hưởng lợi ích từ các quyền lợi ấy, vì tôi tin tưởng rằng quyền tự do tôn giáo là một biểu hiệu căn bản của quyền tự do làm người và việc hiện diện chủ động của các tôn giáo trong xã hội là một mạch nguồn cho sự tiến bộ và làm phong phú cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên điều này bao gồm việc các tôn giáo không tìm cách hành xử trực tiếp quyền lực chính trị, vì quyền này không thuộc lãnh vực của các tôn giáo, và cũng bao gồm việc các tôn giáo hoàn toàn từ khước vấn đề sử dụng bạo lực như một biểu hiệu hợp pháp của tôn giáo. Về vấn đề này, tôi cám ơn hoạt động của cộng đồng Công Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhỏ về con số nhưng hết sức dấn thân cho việc hết sức góp phần vào việc phát triển xứ sở này, nhất là về vấn đề giáo dục giới trẻ, cũng như về việc xây dựng hòa bình và hòa thuận nơi tất cả mọi người công dân.
Như tôi gần đây đã nhận định, ‘chúng ta rất cần đến việc thực sự đối thoại giữa các tôn giáo cũng như giữa các nền văn hóa, có khả năng hỗ trợ chúng ta, trong tinh thần hợp tác hiệu năng, thắng vượt tất cả mọi thứ căng thẳng’ (Address to the Ambassadors of Countries with a Muslim Majority, Castel Gandolfo, 25 September 2006). Cuộc đối thoại này cần phải khiến cho các tôn giáo khác nhau tiến đến chỗ hiểu biết nhau hơn và tôn trọng nhau, hầu hoạt động để làm mãn nguyện những khát vọng cao quí nhất của con người, trong việc tìm kiếm Thiên Chúa và tìm kiếm hạnh phúc. Về phần mình, vào dịp viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ này, tôi muốn lập lại lòng sâu xa quí mến của tôi đối với tín đồ Hồi Giáo, xin họ hãy tiếp tục hoạt động với nhau, trong sự tôn trọng lẫn nhau, để cổ võ phẩm vị của hết mọi người và việc tăng trưởng của một xã hội, nơi quyền tự do cá nhân và việc chăm sóc cho người khác là những gì mang lại hòa bình và an vui cho tất cả mọi người. Có thế, các tôn giáo mới có thể đóng vai trò của mình trong việc đáp ứng nhiều thách đố xã hội chúng ta đang phải đối diện. Chắc chắc là việc công nhận vai trò tích cực của các tôn giáo trong cơ cấu xã hội có thể và cần phải thúc đẩy chúng ta khám phá sâu xa hơn nữa kiến thức của các tôn giáo về con người và tôn trọng phẩm vị của họ, bằng việc lấy họ làm tâm điểm của hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Thế giới của chúng ta cần phải tiến đến chỗ nhận thức rằng tất cả mọi người đều được liên hệ với nhau bằng tình đoàn kết sâu xa, và họ cần phải được khích lệ để gìn giữ những khác biệt về lịch sử và văn hóa của họ, không phải để cạnh tranh với nhau mà là để nuôi dưỡng sự tôn kính lẫn nhau.
Giáo Hội, như quí vị biết, đã lãnh nhận một sứ vụ thiêng liêng từ Đấng Sáng lập của mình, và vì thế Giáo Hội không có ý định pha mình trực tiếp vào sinh hoạt chính trị hay kinh tế. Tuy nhiên, vì sứ vụ của mình và theo kinh nghiệm lâu dài của mình về lịch sử của các xã hội và các nền văn hóa, Giáo Hội muốn lên tiếng trong cuộc tranh luận quố ctế, để phẩm vị nồng cốt của con người, nhất là phẩm giá của thành phần yếu hèn nhất, bao giờ cũng được tôn kính. Trước tình trạng phát triển gần đây về hiện tượng truyền thông được toàn cầu hóa, Tòa Thánh mong thấy được cộng đồng quốc tế thực hiện vai trò dẫn lối minh bạch hơn nơi việc thiết lập những qui luật để kiểm soát tốt đẹp hơn tình trạng phát triển về kinh tế, qui định các thứ thị trường, và duy trì những thỏa ước theo vùng giữa các xứ sở với nhau. Thưa Quí Bà và Quí Ông, tôi tin tưởng rằng nơi sứ vụ của quí vị là thành phần ngoại giao, quí vị thiết tha muốn hòa hợp hóa những thiện ích đặc biệt của xứ sở quí vị với nhu cầu cần phải bảo trì những liên hệ tốt đẹp với các quốc gia khác, nhờ đó quí vị mới góp phần đáng kể vào việc phục vụ tất cả mọi người.
Tiếng nói của Giáo Hội trên hiện trường ngoại giao bao giờ cũng mang tính chất dấn thân của Phúc Âm trong việc phục vụ nhân loại, và tôi không chu toàn trách nhiệm cốt yếu này nếu tôi không nhắc nhở quí vị về nhu cầu cần phải luôn đặt phẩm giá của con người làm chính tâm điểm cho những mối quan tâm của chúng ta. Thế giới đang trải qua một cuộc phát triêån phi thường về khoa học và kỹ thuật, với những thành quả hầu hết liên quan tới y khoa, canh nông và việc sản xuất lương thực, mà còn tới cả việc truyền đạt kiến thức, tiến trình này không được thiếu hướng đi hay không qui chiếu về con người, khi việc phát triển ấy liên quan tới vấn đề sinh sản, giáo dục, đến cách thức sinh sống và hoạt động, đến tuổi già, hay đến sự chết. Cần phải đặt lại vị trí của tình trạng tiến bộ tân thời vào việc liên tục của lịch sử loài người chúng ta, nhờ đó hướng dẫn nó theo dự án đã được ghi khắc nơi bản tính của chúng ta đối với việc tăng trưởng của nhân loại – một dự án được diễn đạt theo những lời của Sách Khởi Nguyên như sau: ‘Hãy trổ sinh, hãy gia tăng, hãy tràn lan mặt đất và làm chủ nó’ (1:28).
Sau hết, khi tâm tưởng của tôi hướng về các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi được xuất phát từ mảnh đất này, nhất là đến Thánh Tông Đồ Phaolô, vị đã đích thân thành lập một số cộng đồng ấy, xin cho phép tôi đưoơc trích lại từ Bức Thư của ngài gửi cho cộng đoàn Galata: ‘Hỡi anh chị em, anh chị em được kêu gọi hưởng tự do; đừng sử dụng tự do như tạo dịp cho xác thịt mà là để phục vụ nhau trong tình yêu thương’ (5:13). Tôi thành thực hy vọng rằng những mối liên hệ tốt đẹp giữa các quốc gia, những quốc gia quí vị đang có nhiệm vụ phục vụ, cũng góp phần mỗi ngày một hơn vào việc đích thực tăng tưởng của nhân loại là thành phần được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Một đích điểm cao quí như thế cần đến việc đóng góp của tất cả mọi người.
Vì lý do này, Giáo Hội Công Giáo có ý định lập lại việc hợp tác của mình với Giáo Hội Chính Thống, và tôi hy vọng rằng cuộc gặp gỡ tới đây của tôi với Đức Thượng Phụ Bartholomew I ở Phanar sẽ hiệu nghiệm phục vụ cho mục tiêu ấy. Như Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhấn mạnh, Giáo Hội tìm cách côäg tác với các tín hữu và các nhà lãnh đạo của tất cả mọi tôn giáo, cách riêng với những tín đồ Hồi Giáo, để cùng nhau tất cả có thể ‘bảo trì và cổ võ hòa bình, tự do, công bình xã hội và các giá trị luân lý’ (Tuyên Ngôn Nostra Aetate, 3). Tôi hy vọng rằng, theo quan điểm ấy, cuộc hành trình của tôi đến Thổ Nhĩ Kỳ sẽ mang lại dồi dào hoa trái.
Quí Vị Đại Sứ, Quí Bà và Quí Ông, tôi hết lòng cầu khẩn Phúc Lành của Đấng Toàn Năng ban xuống cho quí vị, gia đình của quí vị và tất cả mọi cộng tác viên của quí vị.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến
ngày 28/11/2006