GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ TƯ 8/11/2006 TUẦN XXXI THƯỜNG NIÊN |
? ĐTC Biển Đức XVI - Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 25/10/2006: Bài Giáo Lý 23 về Giáo Hội Tông Truyền: Tông Đồ Phaolô thành Tarsus
? ĐTC Biển Đức XVI: "Không có vấn đề tự do thiếu sự thật được; bằng không chúng ta không hoàn toàn sống hòa hợp với dự án nguyên thủy của Đấng Hóa Công"
? ĐTC Biển Đức XVI: "Thiên Chúa là sự thật tối hậu mà tất cả mọi tâm trí tự nhiên hướng tới, một sự thật lôi kéo ước vọng muốn hoàn toàn thực hiện trọn vẹn cuộc hành trình hướng về nó"
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 25/10/2006: Bài Giáo Lý 23 về Giáo Hội Tông Truyền: Tông Đồ Phaolô thành Tarsus
Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta đã kết thúc những bài chia sẻ của chúng ta về 12 Tông Đồ, những vị được Chúa Giêsu đích thân kêu gọi trong khi Người còn sống trên trần gian. Hom nay chúng ta bắt đầu tiến tới những hình ảnh về các nhân vật quan trọng khác trong Giáo Hội sơ khai. Các vị cũng đã hiến đời mình cho Chúa Kitô, cho Phúc Âm và cho Giáo Hội. Các vị là những con người nam nữ, thành phần, như Thánh Luca viết trong Sách Tông Vụ là “đã liều mạng vì Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (15:26).
Vị đầu tiên trong thành phần này, được chính Chúa Giêsu kêu gọi, được Đấng Phục Sinh kêu gọi, cũng là một vị tông đồ đích thực, không ai khác ngoài Tông Đồ Phaolô thành Tarsus. Ngài sáng chói như một ngôi sao cao cả nhất trong lịch sử Giáo Hội, chứ không phải chỉ trong lịch sử của những thuở ban đầu ấy mà thôi.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã tôn tụng ngài như là một nhân vật trổi vượt thậm chí hơn cả nhiều thiên thần và tổng lãnh thiên thần (x "Panegyric" 7,3). Trong vở Hài Kịch Thần Linh, thi sĩ Dante Alighieri, được cảm hứng bởi trình thuật của Thánh Luca trong Sách Tông Vụ (x 9:15), đã diễn tả ngài như là “một bình chứa ưu tuyển” (Inferno 2,28), tức là dụng cụ được Thiên Chúa chọn lựa. Những người khác gọi ngài là “Vị Tông Đồ Thứ 13” – và ngài thực sự cũng nhấn mạnh nhiều đến sự kiện là một tông đồ đích thực, được Đấng Phục Sinh tuyển chọn, hay thậm chí “là tông đồ đệ nhất sau Đấng Duy Nhất”.
Thật sự sau Chúa Giêsu, ngài là nhân vật từ ban đầu được chúng ta biết tới nhất. Đúng thế, chúng ta không những chỉ có trình thuật của Thánh Luca trong Sách Tông Vụ mà còn có cả hàng loạt các bức thư do đích thân ngài viết, không qua trung gian nào, cho chúng ta thấy con người của ngài và tư tưởng của ngài. Thánh Luca nói với chúng ta rằng tên thật của ngài là Saolê (x Acts 7:58, 8:1 v.v.), theo tiếng Do Thái cũng là Saolê (x Acts 13:21), và ngài là một người Do Thái thuộc Cộng Đồng Do Thái Tha Hương, căn cứ vào thành Tarsus ở giữa Anatolia và Syria.
Ngài đã sớm lên Giêrusalem để học hỏi lề luật Moisen một cách sâu rộng nơi vị đại tôn sư Gamaliel (x Acts 22:3). Ngài cũng đã học nghề tay chân và thông thường, nghề làm lều (x Acts 18:3), một nghề sau đó đã giúp ngài tự lực mưu sinh không trở thành gánh nặng cho các Giáo Hội (x Acts 20:34; 1Cor 4:12; 2Cor 12:13-14).
Ngài cảm thấy rất cần phải hiểu biết cộng đồng của những ai tuyên xưng mình là môn đệ Chúa Giêsu. Qua họ, ngài thấy được một niềm tin mới, một “đường lối” mới như được nói tới, một đường lối không lấy lề luật của Thiên Chúa làm chính yếu mà là con người Chúa Giêsu, Đấng tử giá và phục sinh, Đấng được cho là xóa bỏ tội lỗi.
Là một người Do Thái nhiệt thành, ngài đã coi sứ điệp ấy là những gì bất khả chấp, hơn thế nữa, là những gì gây gương mù gương xấu, và cảm thấy có nhiệm vụ rat ay bách hại thành phần môn đệ Chúa Kitô, cả ở ngoài thành Giêrusalem. Chính trên đường đi Đamascô, vào đầu thập niên 30, theo lời của ngài, “Chúa Giêsu Kitô” đã chiếm đoạt Saul “làm của Người”. Trong khi Thánh Luca trình thuật lại những diễn tiến xẩy ra với đầy những chi tiết – cách thức ánh sáng của Đấng Phục Sinh tỏa ra cho ngài, biến đổi hoàn toàn cuộc sống của ngài – thì trong các bức thư của mình, ngài nói thẳng tới những gì là chính yếu và nói chẳng những đến một thị kiến (x 1Cor 9:1), mà còn đến việc khải ngộ (x 2Cor 4:6), nhất là về một mạc khải và một ơn gọi trong cuộc gặp gỡ Đấng Phục Sinh (x Gal 1:15-16).
Thật vậy, ngài minh nhiên nói về mình như là “vị tông đồ theo ơn gọi” (x Rm 1:1; 1Cor 1:1) hay “vị tông đồ theo ý muốn của Thiên Chúa” (2Cor 1:1; Eph 1:1; Col 1:1), như thể muốn nhấn mạnh tới việc hoán cải của ngài không phải là thành quả bởi những tư tưởng hay đẹp, của những phản tỉnh, mà là hoa trái của việc Thiên Chúa can thiệp, của một ân sủng thần linh không hề biết trước. Bởi thế, hết mọi sự trước đó đối với ngài là trân qúi đã trở thành, ngược đời thay, theo lời lẽ của ngài, những gì thua lỗ và phế thải (x Phil 3:7-10). Để rồi, tứ lúc ấy, ngài dốc toàn lực của mình vào việc phục vụ một mình Chúa Giêsu Kitô và Phúc Âm của Người. Cuộc sống của ngài trở thành cuộc sống của một vị tông đồ muốn hoàn toàn “trở nên mọi sự cho mọi người” (1Cor 9:22).
Ở đây chúng ta thấy có một bài học rất quan trọng, đó là vấn đề hãy lấy Chúa Giêsu Kitô làm tâm điểm cuộc sống của mình, nhờ đó căn tính của chúng ta được hiện lộ chính yếu bởi cuộc hội ngộ với Chúa Kitô, bởi việc hiệp thống với Người cũng như với lời của Người. Hết mọi thứ giá trị khác cần phải được tái phục hồi và thanh tẩy cho khỏi những gì là cặn bã khả dĩ trong ánh sáng soi của Người.
Một bài học quan trọng khác từ Thánh Phaolô đó là chân trời thiêng liêng làm nên đặc tính cho vai trò tông đồ của ngài. Cảm nhận một cách sâu sắc về vấn đề Dân Ngoại, tức là thành phần lương dân, có thể đạt tới Thiên Chúa, Đấng là Chúa Giêsu Kitô tử giá và phục sinh để hiến ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người bất kỳ ai, ngài đã dấn thân để loan truyền Phúc Âm này, nghĩa đen là “tin vui”, tức là loan truyền ân huệ được ban tặng để hòa giải con người với Thiên Chúa, với chính họ và với nhau. Ngay từ giây phút đầu tiên, ngài đã hiểu rằng đó là một thực tại không những liên can tới người Do Thái, một nhóm người nào đó, mà còn có một giá trị phổ quan liên quan tới tất cả mọi người nữa.
Giáo Hội ở Antiôkia xứ Syria là khởi điểm cho các cuộc hành trình của ngài, nơi Phúc Âm lần đầu tiên được loan báo cho những người Hy Lạp, và là nơi danh xưng “Kitô hữu” cũng được hình thành (x Acts 11:20,26), tức là thành phần tin vào Chúa Kitô. Từ đó, ngài bắt đầu chuyển tới Cyprus, rồi vào những lần khác nhau, tới những vùng Tiểu Á (Pisidia, Laconia, Galatia), và sau đó tới những vùng đất Âu Châu (Macedonia, Hy Lạp). Rõ ràng hơn là các thành phố Ephesus, Philipi, Thessalonica, Corinth, chưa kể tới Berea, Athens và Miletus.
Vai trò tông đồ của Thánh Phaolô không thiếu những khốn khó là những gì được ngài hiên ngang đương đầu vì yêu mến Chúa Kitô. Chính ngài đã nhắc lại rằng ngài đã chịu đựng “lao nhọc… tù hãm… đánh đập; nhiều lần nguy tử… Ba lần tôi đã bị đánh bằng roi; một lần bị ném đá. Ba lần tôi đã bị đắm tầu… vào những cuộc hành trình thường xuyên, nguy hiểm ở trên sông, nguy hiểm bị cướp bóc, nguy hiểm bởi dân mình, nguy hiểm bởi Dân Ngoại, nguy hiểm trong thành thị, nguy hiểm ngoài hoang vắng, nguy hiểm trên biển cả, nguy hiểm nơi anh em gian trá; chịu vất vả cực nhọc, nhiều đêm bị mất ngủ, chịu đói chịu khát, thường không có của ăn, chịu lạnh lẽo và trần trụi. Ngoài ra tôi còn chịu day dứt hằng ngày bởi mối quan tâm cho tất cả mọi Giáo Hội” (2Cor 11:23-28).
Trong một đoạn thư gửi cho giáo đoàn Rôma (x 15:24,28) ngài tỏ ý định đi Tây Ban N ha, đi tới các giới tuyến của Tây phương, để loan truyền Phúc Âm khắp nơi cho đến tận cùng trái đấy bấy giờ. Làm sao không ca ngợi một con người như thế chứ? Làm sao chúng ta không cám ơn Chúa vì đã ban cho chúng ta một vị tông đồ có một tầm cỡ như vậy chứ? Hiển nhiên là ngài không thể nào đương đầu nổi với tình trạng khốn khó như vậy và có những lúc có những trường hợp thật là tuyệt vọng, nếu ngài không có một lý do chất chứa giá trị tuyệt đối vượt trên tất cả mọi sự. Chúng ta biết rằng, đối với Thánh Phaolô thì lý do ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng ngài đã viết: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta… Người đã chết cho tất cả chúng ta, để những ai sống thì không còn sống cho chính mình nữa mà là cho Đấng đã chết đi và sống lại vì họ” (2Cor 5:14-15), vì chúng ta, vì tất cả mọi người.
Thật vậy, vị Tông Đồ này đã cống hiến chứng từ tối hậu bằng máu của mình dưới thời hoàng đế Nero ở Rôma đây, nơi chúng ta gìn giữ và tôn kính những hài tích tử nạn của ngài. Vào những năm cuối cùng của thế kỷ thứ nhất, vị tiền nhiệm của tôi là Clementê thành Rôma ở Tòa Thánh này đã viết: “Bởi bị ghen ghét và bất đồng, Thánh Phaolô đã buộc phải cho chúng ta thấy làm thế nào người ta chiếm đạt được phần thưởng của sự nhẫn nại… Sau khi rao giảng công lý cho tất cả mọi người trên thế giới, và sau khi đã tiến đến những giới hạn của Tây phương, ngài đã chịu tử đạo trước thành phần cầm quyền chính trị; ngài đã để lìa bỏ thế giới này bằng cách ấy để tiến đến nơi thánh, nhờ đó trở thánh mẫu gương vĩ đại nhất cho sự kiên trì” (Thư cho Corintô, 5).
Chớ gì Chúa Kitô
giúp chúng ta biết sống lời huấn dụ của Vị Tông Đồ này đã để lại cho chúng ta
trong các bức thư của ngài, đó là “anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt
chước Chúa Kitô’ (1Cor 11:1).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được
Zenit phổ biến ngày 25/10/2006
? "Không có vấn đề tự do thiếu sự thật được; bằng không chúng ta không hoàn toàn sống hòa hợp với dự án nguyên thủy của Đấng Hóa Công"
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI viếng thăm và huấn dụ ở Đại Học Đường Tòa Thánh Laterano 21/10/2006 dịp bắt đầu Năm Học mới
(Lời chào ứng khẩu mở đầu:)
Tôi lấy làm sung sướng được ở Viện Đại Học “của tôi” đây, vì đây là Viện Đại Học của Vị Giám Mục Rôma. Tôi biết rằng sự thật được tìm kiếm ở chỗ này, mà vì thế cuối cùng là Chúa Kitô được tìm kiếm, vì bản thân Người là Sự Thật. Cuộc hành trình hướng về sự thật này – việc cố gắng hiểu biết sự thật hơn nơi tất cả mọi hình thức diễn đạt của nó – thực sự là công việc phục vụ quan trọng của Giáo Hội.
Một đại thần học gia người Bỉ đã viết một cuốn sách mang tựa đề “Lòng Yêu Nghệ Thuật và Ước Vọng Thiên Chúa”, đã cho thấy rằng theo truyền thống đan viện có hai điều đi với nhau, vì Thiên Chúa là Lời, nói với chúng ta qua Thánh Kinh. Bởi thế, vấn đề ở đây là chúng ta bắt đầu đọc, bắt đầu học và đào sâu kiến thức về Nghệ Thuật nhờ đó mà chúng ta đào sâu kiến thức của chúng ta về Lời.
Theo chiều hướng đó, việc khai trương một Thư Viện vừa là một biến cố hàn lâm đại học vừa là một biến cố tu đức thần học, chính vì nhờ đọc trong cuộc hành trình hướng về sự thật, nhờ học những lời lẽ trong việc tìm Lời, mà chúng ta thực hiện việc phục vụ Chúa, một việc phục vụ Phúc Âm cho thế giới, vì thế giới cần đến sự thật. Không có vấn đề tự do thiếu sự thật được; bằng không chúng ta không hoàn toàn sống hòa hợp với dự án nguyên thủy của Đấng Hóa Công.
Cám ơn hoạt động của anh chị em! Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em trong Năm Học này.
(xin xem tiếp bài huấn từ chính thức của ngài dưới đây)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/11/2006
"Thiên Chúa là sự thật tối hậu mà tất cả mọi tâm trí tự nhiên hướng tới, một sự thật lôi kéo ước vọng muốn hoàn toàn thực hiện trọn vẹn cuộc hành trình hướng về nó"
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI viếng thăm và huấn dụ ở Đại Học Đường Tòa Thánh Laterano 21/10/2006 dịp bắt đầu Năm Học mới
(Huấn từ chính thức sau đó:)
Quí Đức Hồng Y,
Chư Huynh khả kính trong hàng Giáo Phẩm và Linh Mục,
Quí Tôn Vị Nữ Nam,
Quí Sinh Viên rất thân mến,
Tôi đặc biệt lấy làm hân hoan được chia sẻ với anh chị em vào lúc mở màn cho Năm Học này, một thời điểm trùng hợp với việc long trọng khánh thành một Thư Viện mới và Giảng Đường mới này.
Tôi xin cám ơn Vị Đại Chưởng Ấn là Đức Hồng Y Camillo Ruini về những lời lẽ đón mừng được ngài đại diện anh chị em ân cần ngỏ cùng tôi.
Tôi xin chào vị Viện Trưởng Đại Học này là Đức Giám Mục Rino Fisichella, và xin cám ơn ngài về bài ngài nói để mở màn cho biến cố trọng thể về hàn lâm này.
Tôi xin chào các vị Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, các vị Thẩm Quyền về Hàn Lâm cũng như toàn thể các vị Giáo Sư, cùng tất cả những ai hoạt động trong viện Đại Học này. Và tôi quí mến chào tất cả mọi sinh viên, vì Đại Học đường này được kiến tạo nên cho họ.
Tôi nhớ lại cuộc tôi mãn nguyện Viếng Thăm Đại Học Latêranô lần trước của mình, và nếu không quá giờ, tôi muốn tiếp tục đề tài bấy giờ đang được bàn luận, hầu như chúng ta đã bị gián đoạn chỉ vì mấy giây đồng hồ.
Một môi trường như môi trường hàn lâm này là những gì đặc biệt mời gọi chúng ta hãy tái tiến vào đề tài về cuộc khủng hoảng văn hóa và căn tính, một cuộc khủng hoảng mà trong những thập niên này đã hiện lên một cách thê thảm ngay trước mắt chúng ta.
Đại Học Đường này là một trong những nơi chốn tốt nhất để cố gắng tìm kiếm những đường lối thích thuận để thoát khỏi tình trạng này. Thật thế, nơi Đại Học đây, cái phong phú về truyền thống vẫn còn tồn tại qua các thế kỷ là những gì đang được bảo tồn – và đặc biệt Thư Viện là một phương tiện thiết yếu để bảo toàn cái phong phú ấy của truyền thống – nơi đại học này, và có thể nói rõ hơn, nơi tính cách phong phú của sự thật, khi sự thật được đón nhận ở những gì xác thực của nó bằng một tâm hồn chân thành và cởi mở.
Ở Viện Đại Học này, các thế hệ trẻ được hình thành, thành phần mong chờ một chương trình nghiêm cẩn gắt gao có khả năng đáp ứng trong những môi trường mới cái vấn nạn lưu tồn về ý nghĩa của cuộc sống chúng ta. Không được làm thất vọng niềm mong đợi này.
Môi trường hiện đại dường như đặt ưu tiên cho một thứ lý trí nhân tạo càng ngày càng bị chi phối bởi những thứ kỹ thuật thực nghiệm, bởi đó quên đi rằng tất cả mọi khoa học bao giờ cũng cần phải là những gì bảo toàn con người và cổ võ ước vọng của họ đối với sự thiện chân thực.
Việc đặt nặng “cái làm”, bằng cách gây lu mờ đi “cái là”, không giúp gì vào việc tái tạo mức quân bình trọng yếu cần thiết cho mọi người để cống hiến cuộc sống của họ một nền tảng chắc chắn và một mục đích vững vàng.
Thật vậy, hết mọi người được kêu gọi để hiến cho những hoạt động của mình cái ý nghĩa, nhất là khi cái ý nghĩa ấy liên quan tới quan điểm của một thứ khám phá khoa học làm suy yếu đi chính yếu tính của cuộc sống cá nhân.
Việc để cho mình bị lôi kéo bởi cái hoan hưởng khám phá mà không biết bảo toàn những qui chuẩn xuất phát từ một nhãn quan sâu xa hơn sẽ dễ dàng trở thành một thảm kịch được một huyền thoại xưa nói tới, đó là Young Icarus, hồ hởi trước cuộc bay đến cõi tuyệt đối tự do, không thèm nghe lời cảnh báo của người cha già của mình là Deadalus, đã bay gần đến mặt trời hơn bao giờ hết, quên đi rằng những cánh anh ta dùng để bay trên bầu trời được làm bằng sáp. Việc anh ta rơi xuống chết đi một cách dữ dội là cái giá phải trả cho cái ảo tưởng của anh ta vậy.
Câu truyện ngụ ngôn cổ tích này chất chứa một bài học mãi mãi đáng giá. Trong cuộc sống có những thứ ảo tưởng khác người ta không thể nào tin tưởng mà lại không liều mình gặp phải những hậu quả thảm khốc cho chính cuộc sống của bản thân cũng như của người khác.
Vị giáo sư đại học có nhiệm vụ chẳng những truy tầm sự thật và làm gợi lên cái kỳ diệu vĩnh tại của nó, mà còn nuôi dưỡng kiến thức về nó ở mọi phương diện, cùng bênh vực nó khỏi bị những giải thích giảm thiểu và méo mó.
Để làm cho đề tài về sự thật trở thành chính yếu thì không phải chỉ là một tác động suy đoán, bị hạn hẹp vào lãnh vực nhỏ bé của các tư tưởng gia; trái lại, nó là một vấn đề sống còn để cống hiến một cái căn tính sâu xa hơn nữa cho cuộc sống cá nhân và đề cao trách nhiệm nơi các mối liên hệ về xã hội (x Eph 4:25).
Thật vậy, nếu con người bỏ qua vấn đề về sự thật và cơ hội cụ thể để có thể đạt được sự thật thì đời sống của họ cuối cùng bị trở thành một thứ thừa thãi theo đủ loại giả định, không còn gì là bảo đảm vững chắc và căn cứ nữa.
Nhà nhân bản danh tiếng Erasmus có lần đã nói: “Các ý nghĩ vu vơ nông cạn là nguồn mạch của một thứ hạnh phúc rẻ mạt! Để hiểu được yếu tính thực sự của các sự vật thì cần phải thực hiện nhiều nỗ lực, cho dù có coi các sự vật chẳng quan trọng mấy đi chăng nữa” (cf. "The Praise of Folly," XL, VII).
Chính vì nỗ lực này mà Viện Đại Học đây cần phải dấn thân hoàn thành; nó cần phải theo đuổi bằng việc học hỏi và nghiên cứu trong một tinh thần kiên trì nhẫn nại. Tuy nhiên, nỗ lực này lại là những gì giúp cho con người có thể từ từ tiến vào tâm điểm của những vấn đề và hướng tới việc đam mê sự thật cũng như tới niềm vui tìm thấy được sự thật.
Những lời lẽ của vị thánh Giám Mục Anselmô ở Aosta vẫn là những gì hoàn toàn hiện đại, đó là: “Ta có thể tìm kiếm ngươi khi mong muốn ngươi, ta có thể mong muốn ngươi khi tìm kiếm ngươi, ta có thể tìm thấy ngươi khi mộ mến ngươi, và khi mộ mến ngươi ta lại tìm thấy ngươi” (cf. "Proslogion," 1).
Chớ gì khoảng trống của việc thinh lặng và chiêm ngắm, những gì là bối cảnh bất khả thiếu để tập trung những vấn đề do tâm trí khơi lên, tìm thấy trong những bức tường đại học này những con người ân cần biết trân quí tầm quan trọng, tính cách hiệu năng cùng với các thành quả đối với cuộc sống cá nhân cũng như xã hội.
Thiên Chúa là sự thật tối hậu mà tất cả mọi tâm trí tự nhiên hướng tới, một sự thật lôi kéo ước vọng muốn hoàn toàn thực hiện trọn vẹn cuộc hành trình hướng về nó. Thiên Chúa không phải là một lời trống rỗng hay một giả định trừu tượng, trái lại, Ngài là nền tảng cần thiết cho việc xây dựng cuộc sống của con người.
Việc sống trong một thế giới ‘veluti si Deus daretur’ là những gì cần đến việc đảm nhận một thứ trách nhiệm biết quan tâm tới vấn đề truy tìm hết mọi đường lối khả dĩ hầu có thể tiến gần đến với Ngài bao nhiêu có thể, Đấng là đích điểm mà tất cả mọi sự hướng về (x 1Cor 15:24).
Thành phần tín hữu biết rằng vị Thiên Chúa này có một Dung Nhan, và Ngài đã một lần vĩnh viễn đến gần với mỗi một người qua Chúa Giêsu Kitô.
Công Đồng Chung Vaticanô II đã sâu xa nhắc nhở điều này như sau: ‘Vì, nhờ việc nhập thể, Đấng là Người Con Thiên Chúa, một cách nào đó, đã liên kết bản thân mình với từng người. Người đã làm việc với bàn tay của con người, Người đã suy nghĩ bằng trí khôn của con người. Người đã hành động với ý muốn của con người, và Người đã yêu thương bằng con tim của con người. Được hạ sinh bởi Trinh Nữ Maria, Người đã thực sự trở thành một người trong chúng ta, giống như chúng ta trong tất cả mọi sự ngoại trừ tội lỗi’ ("Gaudium et Spes," n. 22). Việc nhận biết Người là việc nhận biết tất cả sự thật, một sự thật nhờ đó con người mới có thể tìm thấy tự do: ‘Các người sẽ nhận biết chân lý, và chân lý sẽ giải thoát các người’ (Jn 8:32).
Trước khi kết thúc, tôi muốn bày tỏ lòng sâu xa cảm nhận của tôi đối với việc kiến thiết khu tòa nhà mới này để hoàn thành tốt đẹp cấu trúc viện đại học đây, làm cho nó xứng hợp hơn cho vấn đề học hỏi, nghiên cứu và tính cách sinh động nơi đời sống của toàn cộng đồng đại học này.
Anh chị em muốn dâng hiến Giảng Đường này cho con người tầm thường của tôi. Tôi cám ơn về ý nghĩ của anh chị em; tôi hy vọng rằng nó có thể trở thành một trung tâm lợi ích cho hoạt động khoa học, nhờ đó Viện Đại Học Latêranô có thể phục vụ như là một dụng cụ cho vấn đề trao đổi tốt đẹp giữa những thực tại khác nhau về tôn giáo và văn hóa, trong việc cùng tìm kiếm những đường lối hướng về sự thiện và tôn trọng tất cả mọi sự.
Với những niềm cảm mến ấy, khi xin Chúa ban tràn đầy ánh sáng của Ngài cho chốn này, tôi xin phó thác cuộc hành trình của Năm Học đây cho việc bảo hộ của Rất Thánh Trinh Nữ, và tôi thân ái ban Phép Lành Tòa Thánh cho tất cả mọi người.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/11/2006