GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ HAI 16/1/2006 |
? Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật II Thường Niên 15/1/2006 về ý nghĩa Tìm Kiếm và Tìm Thấy Chúa Kitô
? Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Nguyên văn Diễn Từ Tất Niên với Giáo Triều Rôma ngày Thứ Năm 22/12/2005: Công Đồng Chung Vaticanô II - Bản chất của việc canh tân thực sự.
? Những Bí Mật quanh nhân vật ám sát Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật II Thường Niên 15/1/2006 về ý nghĩa Tìm Kiếm và Tìm Thấy Chúa Kitô
Anh Chị Em thân mến!
Chúa Nhật vừa rồi, Chúa Nhật chúng ta cử hành Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, là thời điểm bắt đầu Mùa Thường Niên. Cái đẹp của mùa này là ở chỗ nó mời gọi chúng ta hãy sống cuộc đời bình thường của mình như đường lối để nên thánh, tức là như cách để sống đức tin và thân tình với Chúa Giêsu, Đấng liên tục được nhận thức và tái nhận thức như là Thày và là Chúa, là đường, là sự thật và là sự sống của con người.
Đó là những gì Phúc Âm Thánh Gioan cho chúng ta thấy trong phụng vụ hôm nay, khi trình bày cho chúng ta về cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Chúa Giêsu với một số những người trở thành tông đồ của Người. Họ là những môn đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả, và thánh nhân đã thực sự mang họ đến với Chúa Giêsu, khi thánh nhân giới thiệu Người như “Chiên Thiên Chúa” (Jn 1:36) sau khi làm phép rửa cho Người ở Sông Dược Đăng.
Hai trong số những người môn đệ của thánh nhân bấy giờ đã đi theo Đấng Thiên Chúa, vị hỏi họ rằng: “Các anh tìm kiếm chi đó?” Hai người họi Người rằng: “Thưa Thày, Thày hiện đang ở đâu?” Và Chúa Giêsu đáp: “Hãy đến mà xem”, tức là, Người đã mời gọi họ hãy theo Người và bỏ giờ ra sống với Người.
Họ đã lấy làm cảm phục qua mấy tiếng đồng hồ ở với Chúa Giêsu, đến nỗi môä trong hai người họ là Anrê lập tức đi tìm người anh em của mình là Simon để nói với người anh em này là: “Chúng tôi đã gặp được Đấng Thiên Sai”. Ở đây chúng ta thấy có hai từ ngữ đặc biệt quan trọng, đoólà “tìm kiếm” (seek) và “tìm thấy” (find).
Chúng ta có thể diễn giải hai động từ này từ sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay và rút tỉa một hướng dẫn căn bản cho năm mới, một thời điểm chúng ta muốn canh tân cuộc hành trình thiêng liêng của mình với Chúa Giêsu, với niềm vui không ngừng tìm kiếm Người và tìm thấy Người. Thật vậy, niềm vui đích thực nhất là ở nơi mối liên hệ với Người, ở nơi việc tìm thấy Người, theo Người, nhận biết và yêu mến Người, bằng việc chuyên chú liên tục của tâm trí.
Được làm môn đệ của Chúa Kitô: đó là đủ cho thành phần Kitô hữu. Mối thân hữu với Chúa Vị Sư Phụ này bảo đảm linh hồn sống sâu xa bằng an và yên hàn, thậm chí trong những lúc tối tăm và những cơn thử thách khốn khó nhất. Khi đức tin trải qua những đêm tăm tối, khi con người không còn “nghe” hay “thấy” sự hiện diện của Thiên Chúa nữa, thì tình bằng hữu với Chúa Giêsu bảo đảm rằng thực sự không có gì phân tách nổi chúng ta khỏi tình yêu của Người hết (x Rm 8:39).
Việc tìm kiếm và tìm thấy Chúa Kitô, mạch nguồn vô tận của sự thật và sự sống, là những gì lời Chúa mời gọi chúng ta hãy bắt đầu lại, vào lúc mở màn cho một tân niên đây, cuộc hành trình đức tin không bao giờ kết thúc này. “Thưa Thày, Thày hiện sống ở đâu?” Chúng ta cũng hỏi Chúa Kitô và được Người đáp là “Hãy đến mà xem”.
Đối với tín hữu, đó là một việc liên lỉ tìm kiếm và là một cuộc khám phá mới mẻ, vì Chúa Kitô vẫn thế cả hôm qua, hôm nay và mãi mãi, còn chúng ta, thế giới, lịch sử lại không bao giờ vẫn thế, nên Người đến với chúng ta để ban cho chúng ta mối hiệp thông của Người và sự sống viên mãn của Người. Chúng ta hãy xin Trinh Nữ Maria giúp chúng ta theo Chúa Giêsu, hằng ngày cảm nghiệm được niềm vui thấm nhập hơn nữa vào mầu nhiệm của Người.
(Sau khi nguyện Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói tiếp:)
Ngày Thế Giới Di Dân và Tị Nạn 2006 được cử hành hôm nay đây. Các cuộc di dân tạo nên một hiện tượng rất lan rộng trong thế giới ngày nay: chúng ta một “dấu chỉ thời đại”. Hiện tượng này xuất hiện ở những cách thứ crất khác nhau: Việc di dân có thể là tự nguyện hay bị bắt buộc, hợp pháp hay bất hợp pháp, vì lý do công ăn việc làm hay học hành. Nếu, một đàng, cần phải tỏ ra tôn trọng những khác biệt về chủng tộc và văn hóa, thì mặt khác, lại có những khó khăn trong việc chấp nhận và hội nhập.
Giáo Hội khuyến khích việc lợi dụng những gì là tích cực của dấu chỉ thời đại này, bằng việc thắng vượt hết mọi hình thức kỳ thị, bất công và khinh miệt con người, vì mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa.
Hôm nay Giáo Phận Rôma cử hành Ngày Học Đường Công Giáo. Tôi gửi lời chào tới các vị hiệu trưởng, giáo chức, phụ huynh và học sinh qui tụ nơi đây, và tôi xin họ hãy tiếp tục dấn thân cho một nền giáo dục toàn diện, một thứ giáo dục nỗ lực liên kết tính chất của việc giáo dục với quan điểm của Kitô Giáo về con người và về xã hội.
Tôi mong ước thấy được sự hợp tác liên lỉ giữa gia đình và học đường, cũng như việc hết sức nhìn nhận công việc phục vụ của các học đường Công Giáo. Xin chúc một năm học tốt đẹp!
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
15/1/2006
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Nguyên văn Diễn Từ Tất Niên với Giáo Triều Rôma ngày Thứ Năm 22/12/2005: Công Đồng Chung Vaticanô II - Bản chất của việc canh tân thực sự.
Quí Đức Hồng Y
Chư Huynh Khả Kính trong Hàng Giáo Phẩm và Giáo Sĩ
Anh Chị Em thân mến,
(tiếp 10 Thứ Ba, 11 Thứ Tư, 12 Thứ Năm, 13 Thứ Sáu, 14 Thứ Bảy và 15 Chúa Nhật)
Chính ở nơi việc tổng hợp của tính cách liên tục và bất liên tục ở các cấp độ khác nhau hiện hữu chính bản chất của việc canh tân thực sự. Trong tiến trình canh tân theo chiều hướng liên tục này chúng ta cần phải học hiểu một cách cụ thể hơn trước khi quyết định của Giáo Hội về những vấn đề tùy thuộc – chẳng hạn như, về một số hình thức cụ thể của chủ nghĩa tự do hay về một thứ phóng khoáng dẫn giải Thánh Kinh – cũng tự mình cần phải tùy thuộc, chính là vì những quyết định này liên quan tới một thực tại đặc biệt tự bản chất khả hoán. Cần phải biết nhìn nhận rằng nơi những quyết định ấy chỉ có các nguyên tắc mới cho thấy được khía cạnh vĩnh tồn mà thôi, vì chúng vẫn như là một quyết định sâu xa tác động từ bên trong.
Ngoài ra, không có tính cách vĩnh tồn nơi các hình thức cụ thể là những gì lệ thuộc vào trường hợp lịch sử và do đó cần phải đổi thay.
Bởi vậy, những quyết định căn bản tiếp tục là những gì vững chắc, trong khi đó đường lối chúng được áp dụng vào các môi trường mới là những gì có thể đổi thay. Vậy, chẳng hạn, nếu quyền tự do tôn giáo đã được coi như là biểu hiện con người nơi khả năng khám phá ra chân lý và bởi thế trở thành một thứ phong thần cho chủ nghĩa tương đối, thì nhu cầu về xã hội và lịch sử này đã được đề cao một cách không thích đáng với tầm mức siêu hình học nên đã tước đi mất ý nghĩa đích thực của nó. Do đó, điều này không thể nào khả chấp đối với những ai tin rằng con người có khả năng biết được sự thật về Thiên Chúa, và dựa vào phẩm vị nội tại của sự thật, con người buộc phải gắn bó với kiến thức ấy.
Mặt khác, hoàn toàn khác hẳn trong việc coi quyền tự do tôn giáo như là một nhu cầu xuất phát từ việc con người chung sống, hay thực sự là một kết quả nội tại của sự thật là những gì không thể bị áp đặt theo bề ngoài nhưng là những gì con người cần phải chấp nhận chỉ qua tiến trình xác tín mà thôi.
Công Đồng Chung Vaticanô II, khi nhìn nhận và chấp nhận nguyên tắc thiết yếu về Quốc Gia tân tiến bằng Sắc Lệnh về Tự Do Tôn Giáo, đã tái phục hồi cái gia sản sâu xa nhất của Giáo Hội. Làm như thế, Giáo Hội có thể ý thức được việc mình hoàn toàn sống hòa hợp với giáo huấn của chính Chúa Giêsu (x Mt 22:21), cũng như với Giáo Hội của các vị tử đạo qua mọi thời đại. Giáo Hội cổ xưa thường nguyện cầu cho những vị hoàng đế và các vị lãnh đạo chính trị đã hết nhiệm vụ (x 1Tim 2:2); thế nhưng, trong khi nguyện cầu cho các vị hoàng đế như thế, Giáo Hội không chịu tôn thờ họ và do đó minh nhiên loại trừ thứ tôn giáo Quốc Gia. Các vị tử đạo thời Giáo Hội sơ khai đã chết vì đức tin của mình là niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra nơi Chúa Giêsu Kitô, và chính vì lý do này các vị cũng đã chết cho quyền tự do của lương tâm và quyền tự do tuyên xưng niềm tin của mình – một việc tuyên xưng không có một Quốc Gia nào có thể áp đặt, nhưng chỉ có thể được tuyên xưng nhờ ân sủng của Chúa theo quyền tự do của lương tâm. Một Giáo Hội truyền giáo mang danh loan truyền sứ điệp của mình cho tất cả mọi dân tộc cần phải hoạt động cho quyền tự do của niềm tin. Giáo Hội muốn truyền đạt tặng ân sự thật hiện hữu này cho từng người và mọi người.
Đồng thời Giáo Hội cũng bảo đảm với các dân tộc và Chính Quyền rằng Giáo Hội không muốn hủy hoại căn tính và văn hóa của họ khi làm như thế, trái lại, còn cống hiến một đáp ứng họ đang đợi chờ ở thẳm cung sâu xa nhất của họ – một đáp ứng mà tính cách đa diện của các nền văn hóa chẳng những không bị mất đi mà trái lại còn gia tăng mối hiệp nhất giữa con người nam nữ và cả hòa bình giữa các dân tộc nữa.
Công Đồng Chung Vaticanô II, với định nghĩa mới của mình về mối liên hệ giữa đức tin của Giáo Hội với một số yếu tố thiết yếu của tâm tưởng tân tiến, đã kiểm điểm hay thậm chí sửa sai một số những quyết định về lịch sử, thế nhưng, qua tính cách bất liên tục hiển nhiên này, Giáo Hội thực sự vẫn bảo trì và đi sâu vào bản chất thâm thúy nhất của mình cùng với căn tính đích thực của mình.
Giáo Hội, cả trước lẫn sau Công Đồng, đã và đang là một Giáo Hội như thế, duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, tiến bước qua giòng thời gian; Giáo Hội tiếp tục “cuộc lữ hành của mình giữa những bách hại của thế gian và những niềm an ủi của Thiên Chúa”, để loan truyền cuộc tử nạn của Chúa cho tới khi Người đến (x Ánh Sáng Muôn Dân, 8).
Những ai mong rằng với thái độ “chiều” theo kỷ nguyên tân tiến này thì tất cả mọi căng thẳng sẽ được loại trừ và thái độ “cởi mở với thế giới” nhờ đó có được sẽ biến đổi mọi sự thành trạng thái hoàn toàn ăn khớp với nhau, thì họ đã coi nhẹ những căng thẳng nội tại cũng như những tương khắc vốn có nơi thời đại tân tiến này rồi vậy.
Họ đã coi thường cái mỏng manh nguy hiểm của bản tính loài người đã từng là mối đe dọa cho sự tiến bộ của con người nơi tất cả mọi giai đoạn của lịch sử cũng như nơi hết mọi thắng lợi sáng lạn của lịch sử. Những nguy hiểm này, với những triển vọng mới cùng với quyền năng mới của con người trên vật chất cũng như trên chính bản thân con người, vẫn không mất đi, trái lại, còn có những chiều kích mới nữa: cứ nhìn vào lịch sử hiện nay sẽ thấy rõ điều ấy.
Cả trong thời điểm của chúng ta nữa, Giáo Hội vẫn là một “dấu hiệu bị chống đối” (Lk 2:34) – không phải là vô lý mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi còn là Hồng Y đã lấy đầu đề này làm chủ đề tuần Tĩnh Tâm năm 1976 cho Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Giáo Triều Rôma. Công Đồng không thể nào lại có chủ ý loại trừ đi cái phản nghịch của Phúc Âm với những thứ hiểm nguy và lầm lỗi của con người. Trái lại, chắc chắn là Công Đồng muốn thắng vượt những tương phản lầm lẫn hay dư thừa này để tỏ cho thế giới của chúng ta thấy được những đòi hỏi hoàn toàn cao cả và tinh tuyền của Phúc Âm.
(còn tiếp)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2005/december/documents/hf_ben_xvi_spe_20051222_roman-curia_en.html
Những Bí Mật quanh nhân vật ám sát Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
|
Hôm 12/1/2006, nhân vật đã ám sát Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ở Quảng Trường Thánh Phêrô ngày 13/5/1981, đã được thả ra khỏi nhà tù ở Istanbul, nơi anh ta bị giam giữ, (sau 19 năm tù ở Ý), vì những tội ác khác anh ta đã phạm trước khi ám sát Đức Gioan Phaolô II, như tội giết chết phóng viên báo chí Thổ Nhĩ Kỳ Abdi Ipekci. Vì tội sát nhân người phóng viên ấy, anh ta đã lãnh án 10 năm tù nhưng vì có những hành vị cử chỉ tốt, nên mới sau 5 năm (từ năm 2000) anh ta đã được thả ra. Anh ta bị gọi nhập ngũ quân đội Thổ Nhĩ Kỳ ngay sau đó.
Đức Gioan Phaolô II đã công khai tha thứ cho anh ta ngay khi ngài được mang từ chỗ bị ám sát đến bệnh viện và thậm chí đến thăm anh ta ở trong ngục ngày 23/12/1983.
Vị Giám Đốc của văn phòng báo chí Tòa Thánh là Joaquín Navarro Valls, hôm Chúa Nhật 8/1/2006, trong một lời phát biểu sau khi nhận được tin này cho biết:
“Tòa Thánh mới nhận được tin từ các cơ quán tín vụ rằng Ali Agca có thể được thả ra. Trước vấn đề pháp lý này, Tòa Thánh tin tưởng vào quyết định của pháp đình về vấn đề ấy”.
Đức Tổng Giám Mục Stanislaw Dziwisz ở TGP Krakow, Balan, vị đã từng làm bí thư của Đức Gioan Phaolô II vào lúc ngài bị ám sát, cũng là vị đã ôm lấy ngài khi ngài té xuống bởi trúng đạn, đã chấp nhận quyết định của pháp tòa Thổ Nhĩ Kỳ, như vị tổng giám mục này đã cho biết qua vị phát ngôn viên của mình là Cha Robert Necek vào chính hôm nhân vật ấy được thả ra như sau:
“Đức Gioan Phaolô II đã tha cho Ali Agca lâu lắm rồi. Giờ đây ngài đang nguyện cầu cho anh ta ở trên trời và tôi cũng cầu nguyện cho anh ta nữa. Tôi nhớ một câu nói của vị Giáo Hoàng này đại khái là: ‘Làm sao chúng ta có thể ra trước nhan Chúa mà chúng ta lại không thứ tha cho nhau chứ?’”.
Vị thư ký riêng của ĐTC GPII là ĐTGM Stanislaw Dziwisz trước đây cũng đã cho cơ quan tin tức Balan PAP biết là ĐTC GPII đã viết một bức thư cho Ali Agca nhưng không bao giờ gửi.
Theo tờ nhật báo Rzeczpospolita thì trong bức thư ấy, được viết vào khoảng Tháng 5/1981 và 12/1983, ĐTC đã đặt vấn đề với Agca là tại sao người Thổ Nhĩ Kỳ này muốn sát hại ngài: “Tại sao anh lại giết tôi, nếu cả hai chúng ta tin vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất?”
Bức thư này sẽ được trao cho Đức Ông Slawomir Oder, cáo thỉnh viên của tiến trình tôn phong chân phước của ngài.
Tờ L’Osservatore Romano đã tường trình là ở Cuba đã diễn ta một cuộc khánh thành một bức tượng để tôn kính đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại thành phố Holguin. Các vị giám mục ở quốc gia này đã đến tham dự vào ngày Chúa Nhật 26/6/2005, cũng là ngày kỷ niệm 50 thụ phong linh mục của Giám Mục Héctor Luis Pena giáo phận Holguin.
Cũng vào hôm Thứ Năm 12/1/2006, qua những lời phát biểu cho tờ nhật báo La Repubblica, Vị Hồng Y Quốc Vụ Khanh của Tòa Thánh là Angelo Sodano đã nói rằng Tòa Thánh biết được việc cấp tốc thả Ali Agca ra qua tin tức truyền thông mà thôi. Ngài nói rằng:
“Không ai đã từng bàn hỏi với chúng tôi trước đó. Chúng tôi không muốn đi sâu vào chi tiết trong lúc này. Chúng tôi tùy theo các tòa án có thẩm quyền”.
Vị nguyên tổng thư ký Tòa Thánh đặc trách văn phòng liên hệ chư quốc là ĐHY achille Silvestrini đã nói với tờ II Messaggero rằng “hình ảnh về Ali Agca là những gì mâu thuẫn”: “Anh ta bắt đầu nói tới cái dính dáng của nước Bulgaria, rồi sau đó lại chối bỏ hết mọi sự”.
Vị hồng y này còn nói thêm rằng Ali Agca không lên tiếng “công khai xin lỗi. Chúng tôi không biết anh ta có làm điều này khi nói chuyện riêng với Đức Gioan Phaolô II ở nhà tù Rebibbia hay chăng. Anh ta thực sự là không bày tỏ lòng hối hận bằng những lời phát biểu sau đó”.
Vị hồng y này còn xác nhận rằng Tòa Thánh quả có hồ nghi về sự liên hệ giữa cuộc ám sát này với Cộng Sản Âu Châu thời bấy giờ.
“Vấn đề được cho rằng bắt nguồn từ Đông Âu. Ali Agca đưa nước Bulgaria lên bản đồ này. Họ đã muốn sử dụng một người Thổ Nhĩ Kỳ, một tay đã từng là tên sát thủ, như đã được thực hiện trong Thời Trung Cổ qua các tay sát thủ được thuê mướn. Hiển nhiên là họ không muốn trao việc này cho một Kitô hữu thực hiện”.
Hôm Thứ Ba 5/4/2005, Agca đã đệ đơn xin tạm
ân dung một thời gian ngắn là những gì vốn được luật pháp Thổ Nhĩ Kỳ cho phép
một số phạm nhân thường để cho họ dự lễ án táng của thân nhân trong gia đình.
Agca đã viết “một bức thư ngỏ gửi cho thế giới”, trong đó, anh lập lại rằng anh
ta là “vị thiên sai thứ hai”. Anh ta viết về cái chết của ĐTC GPII như sau: “Tôi
đã mất đi một người anh tinh thần. Tôi chia sẻ nỗi thương tiếc với thành phần
Kitô hữu Công giáo của tôi”.
Luật sư của anh ta cho biết thêm rằng gia đình của anh ta vẫn có thể tham dự lễ
an táng này hôm Thứ Sáu. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tiếp người anh và bà
mẹ của anh ta ở Vatican nhiều năm trước đây.
Agca đã bắn vị giáo hoàng này vào bụng trong buổi triều kiến chung ở Quảng
Trường Thánh Phêrô vào ngày kỷ niệm hiện ra của mẹ Chúa Giêsu, Đức Trinh Nữ
Maria, ở gần Fatima Bồ Đào Nha.
Vị giáo hoàng này nói rằng ngài tin là Đức Trinh Nữ đã nhúng tay vào cứu mạng
của ngài. Qua nhiều năm tháng, Agca đã nhấn mạnh rằng điều này đã biến anh ta
thành một công cụ của dự án thần linh, điều đã bị tòa thánh Vatican phủ nhận.
Trong bức thư ngỏ cùng thế giới, anh ta còn viết: “Dự án thần linh đã đạt được
mục đích của mình. Bởi thế chúng ta đang ở vào ngày cùng tận của thế giới”. Anh
ta còn cho biết anh ta đang viết lại Thánh Kinh và sẽ sớm tiết lộ “Bí mật
Fatima”.
Qua nhiều năm tháng, Agca đã đưa ra những lý
do xung khắc nhau về việc anh ta cố sát Đức Gioan Phaolô II, bao gồm cả những
điều tố giác về một cuộc âm mưu với mật vụ cộng sản nước Bulgaria và tình báo
KGB Nga.
Agca thuộc về đảng chiến quân thiên hữu ở Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối thập niên 1970 và
đã bị tù về tội sát hại một viên chủ bút nhật báo cấp tiến năm 1979.
Trước năm sang Rôma, anh ta đã thoát ngục nhờ sự giúp đỡ của những tay an ninh
Thổ Nhĩ Kỳ có cảm tình với đảng phái của anh ta. Chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ luôn phủ
nhận có bất cứ liên hệ nào với Agca và phủ nhận việc hắn bị bệnh loạn trí.
Cho đến nay người ta vẫn cố gắng điều tra vụ ám sát ĐTC GPII, nhất là sau ngày ra mắt tác phẩm thứ 5 của ĐTC hôm 22/2/2005, ngày lễ ngai tòa thánh Phêrô, tác phẩm mang tựa đề “Hồi Niệm và Căn Tính”, trong đó, ở phần cuối, ĐTC có đề cập đến biến cố ngài bị ám sát.
Trong cuốn “Hồi Niệm và Căn Tính”, tác phẩm cuối cùng của mình, một tác phẩm về triết học luân lý là những gì đã được thai nghén từ năm 1993, một tác phẩm xuất bản 2 tháng trước khi tác giả của nó là Đức Gioan Phaolô II vĩnh viễn nằm xuống, ở phần phụ trương cuối cùng, phần nói tới cuộc ám sát của mình, Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thuật lại cảm nhận của bản thân ngài cũng như của kẻ ám sát ngài như sau.
Tại Quảng Trường Thánh Phêrô, vào lúc 5 giờ chiều ngày 13/5/1981, ngay trước buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần, đã đột nhiên vang tiếng súng……, thật ra là mấy tiếng súng chứ không phải một, những tiếng súng vang lên chỉ cách chiếc giáo hoàng xa của Đức Gioan Phaolô II có 20 bộ (hay 6 thước), khi ngài ở trên chiếc xe đang chạy chung quanh quảng trường này theo thường lệ để chào tín hữu đang qui tụ chờ ngài bấy giờ. Hậu quả là viên đạn phát ra từ nòng súng lục tự động 9 ly ấy đã xuyên vào thân thể của vị Giáo Hoàng này, trúng bao tử của ngài, cùi trỏ bên cánh tay phải của ngài và ngón tay trỏ bên trái của ngài. Ngài đã được cấp tốc đưa vào bệnh viện, và chỉ khi tới bệnh viện ngài mới hoàn toàn bất tỉnh nhân sự. Cuộc giải phẫu cứu mạng ngài đã kéo dài 5 tiếng 20 phút, và thân thể ở vào tuổi gần 61 của ngài bấy giờ đã bị mất đi tới 60% lượng máu loang chảy trong mình. Tuy nhiên, kể từ biến cố bị ám sát hụt ấy, sức khỏe của con người vốn yêu chuộng thể thao này đã trở nên suy kém, cho tới ngày ngài qua đời 24 năm sau bởi một cơn kịch bệnh cuối cùng, kết thúc cuộc đời gần 85 tuổi đời của ngài (18/5/1920-2/4/2005).
Đức Gioan Phaolô II đã cho biết những gì xẩy ra sau đó, sau tiếng súng nổ và sau khi ngài được đưa vào bệnh viện thế này: “Tôi đã không tỉnh dạy cho đến ngày hôm sau, vào khoảng buổi trưa” (ấn bản Anh ngữ trang 161). Cũng trong phần phụ trương này, (ở trang 163-164), ngài còn cho biết thêm về con người ra tay ám sát ngài như sau:
· “Vào khoảng Giáng Sinh năm 1983, tôi đã thăm kẻ tấn công tôi đang bị nhốt trong tù. Chúng tôi nói chuyện lâu giờ. Alì Agca, ai cũng đều biết, là một tay sát thủ chuyên nghiệp. Tức là cuộc tấn công này không phải bởi sáng kiến riêng tư của anh ta, mà là từ ý nghĩ của một người khác; một người nào đó đã sai khiến anh ta thực hiện điều này. Trong cuộc nói chuyện của chúng tôi, Alì Agca vẫn còn tỏ ra lấy làm ngạc nhiên không hiểu tại sao một cuộc cố tình ám sát như vậy mà lại có thể bất thành cho được. Anh ta đã rất ư là thận trọng xếp đặt mọi sự, chú ý tới từng chi tiết nhỏ một. Thế mà nạn nhân được nhắm tới của anh ta lại thoát chết. Làm sao có thể xấây ra như thế được cơ chứ? Cái hay là ở chỗ tình trạng bối rối của anh ta đã dẫn anh ta tới vấn đề về đạo giáo. Anh ta muốn biết về bí mật Fatima, và bí mật này thực sự là gì. Đó là mối quan tâm chính của anh ta; anh ta muốn biết điều này hơn bất cứ một cái gì khác. Có lẽ những vấn nạn dai dẳng đã cho thấy rằng anh ta đã nắm được một điều gì đó thực sự là hệ trọng. Alì Agca có lẽ đã cảm thấy được rằng có một quyền lực cao cả, vượt trên cả quyền lực của anh ta, trên cả khả năng bắn giết nữa. Bởi vậy anh ta đã bắt đầu tìm kiếm quyền lực cao cả này. Tôi hy vọng và cầu xin cho anh ta tìm thấy quyền lực cao cả ấy”.
Vị giám đốc văn phòng báo chí tòa thánh còn nói: “Đức Giáo Hoàng tin rằng Ali
Agca không hành động một cách tình cờ”. Theo vị giám đốc này thì ở lời kết, “tư
ụkhi ở trong tù được nói chuyện với Đức Giáo Hoàng, người ta thấy Ali Agca đã
hoàn toàn bị ám ảnh ra sao với mầu nhiệm Fatima. Ở chỗ, anh ta không thể nào
hiểu được có một cái gì đó đáng lẽ anh ta phải làm chủ về phương diện kỹ thuật
trong cuộc tấn công Giáo Hoàng lại không xẩy ra như dự định. Ali Agca chỉ quan
tâm tới những vấn đề về kỹ thuật mà thôi chứ không phải những vấn đề về luân lý”.
Vị giám đốc này tiết lộ cho biết là kẻ ám sát này “không hề xin Đức Giáo Hoàng
thứ tha”.
ĐHY Ratzinger đã cho biết Đức Giáo Hoàng đã nói về Agca như là “nạn nhân của một
thứ lý lẽ lỏng lẻo bất toàn xét về mọi khía cạnh. Anh ta là một người Hồi giáo,
và có lẽ cũng vì thế mà anh ta đã rơi vào một cơn lốc sợ hãi làm cho anh ta
không bao giờ thoát khỏi, vì anh ta tiếp tục tin rằng anh ta là một phần của
điềm báo trong phần bí mật Fatima thứ ba. Thế nhưng, ngoài những suy đoán này ra,
Agca đã không bao giờ tự hỏi mình về những gì anh ta làm, sự kiện rõ ràng về
cuộc ám sát vị Giáo Hoàng này chưa hề làm cho anh ta cảm thấy phiền hà gì hết.
Anh ta chỉ quan tâm có một điều duy nhất thực sự đó là anh ta đã bị hụt mất mục
tiêu”.
Được các ký giả hỏi về việc có nhận được những bức thư của tay ám sát ĐTC hay
chăng, ĐHY Ratzinger cho biết rằng ngài đã nhận được các bức thư của Mehmet Ali
Agca:
“Anh ta cũng đã viết thư cho tôi mà nói rằng: ‘Xin nói cho tôi mầu nhiệm Fatima
này là gì’. Ali Agca tin rằng nơi mầu nhiệm này anh ta sẽ tìm thấy câu giải đáp
về kỹ thuật cho một mầu nhiệm không thể nào hiểu nổi, đó là cái lý do tại sao
cuộc tấn công ĐGH không thành. Thế nhưng, như ai cũng đã quá biết, cái liên hệ
duy nhất giữa Agca với Fatima là ngày 13/5, và những gì anh ta suy nghĩ chỉ hạn
hẹp ở mức độ này thôi”.
Vào ngày 15/2/2005, tức sau khi Nữ Tu Lucia, thụ khải Fatima cuối cùng qua đời 2 ngày,
anh ta đã gửi cho một tờ nhật báo một bản văn mang tựa đề “Bức Thư Ngỏ với
Vatican”. Trong bản văn này, anh ta bày tỏ niềm cảm thông với việc qua đời của
vị nữ tu này, và nhấn mạnh rằng bí mật Fatima có liên quan đến ngày tận thế, và
yêu cầu Vatican vạch mặt tên Phản Kitô (Quỉ Vương).
Vị giám đốc văn phòng báo chí tòa thánh, sau buổi ra mắt tác phẩm của ĐTC, đã
cho các phóng viên truyền hình biết nhận định của mình về anh ta như sau: “Chúng
là những cơn mê sảng, một thứ ám ảnh đã từng đeo đuổi Ali Agca nhiều năm trời”.
Vị giám đốc văn phòng báo chí tòa thánh còn cho biết tay sát nhân này chưa hề
lên tiếng xin lỗi ĐGH, dù có được ngài đến viếng thăm và xin chính phủ Ý ân xá
cho, và yêu cầu của ngài đã được chấp nhận để rồi tay sát thủ này đã được chính
phủ Ý ân xá vào chính Đại Năm Thánh 2000, nhưng anh tạ lại bị chính phủ Thổ Nhĩ
Kỳ giam giữ 19 năm vì hai trọng tội phạm khác.
Trong lời kết của cuốn sách, ĐGH đã nhận định về giây phút bị ám sát như sau:
“Tất cả đều là những gì chứng tỏ cho thấy ân sủng thần linh: Agca đã biết bắn ra
sao và chắc chắn anh ta bắn là phải chết. Dường như có ai đã làm lệch đi viên
đạn được bắn tới. Tôi có cảm giác rằng tôi sẽ sống sót: Tôi cảm thấy đớn đau,
tôi đã có lý để lo sợ, nhưng tôi đã có cảm giác tin tưởng lạ lùng này. Tôi nói
với Don Stanislaw là thư ký riêng của tôi rằng tôi tha thứ cho kẻ tấn công tôi”.
Cũng trong phần cuối sách này ĐTC cũng đề cập tới việc ngài viếng thăm Ali Agca
trong tù vào dịp Giáng Sinh 1983, ngài viết: “Ali Agca, như mọi người nói, là
một tay sát thủ lành nghề. Điều này có nghĩa là cuộc tấn công không phải do anh
ta khởi xướng mà là một ai đó âm mưu, một ai đó truyền khiến. Trong suốt cuộc
gặp gỡ này rõ ràng là Ali Agca cứ tiếp tục ngẫm nghĩ tại sao cuộc tấn công lại
có thể bất thành được chứ. Có lẽ Ali Agca trực giác thấy rằng, ngoài quyền lực
của mình, ngoài khả năng bắn hạ, còn có một quyền lực cao tay hơn thế nữa. Để
rồi anh ta bắt đầu tìm kiếm quyền năng này. Tôi hy vọng rằng anh ta đã tìm thấy
quyền năng ấy”.
Căn cứ vào những chi tiết mới nhất từ tác phẩm “Hồi Niệm và Căn Tính” của ĐTC
GPII về vụ ngài bị ám sát, một ủy ban của quốc hội Ý đã quyết định mở lại hồ sơ
vụ này. Vị chủ tịch của Ủy Ban Điều Tra của Quốc Hội này là ông Paolo Guoffanti
đã cho các cơ quan Ý biết hôm Thứ Tư 23/2/2004 là “Chúng tôi sẽ lập tức mở lại
vụ tấn công Đức Giáo Hoàng này”.
Ông này nói thêm là cuộc tái điều tra ấy sẽ được bắt đầu bằng “việc thu tích hồ
sơ theo thủ tục liên quan đến tội ác ghê tởm ấy, bằng cách mở lại những gì liên
quan tới Nga Sô, cả KGB lẫn GRU” là cơ quan tình báo quân sự của Nga. Vị chủ
tịch này khẳng định là quyết định tái điều tra vụ này được thực hiện “sau những
điều được chính Đức Giáo Hoàng chứng thực về nguồn gốc ý hệ của tội ác này”.
Mới đây, tờ nhật
báo Corriere della Sera xuất bản ở Ý vào ngày 30/3/2005 đã cho biết người ta đã
tìm phá thấy hồ sơ về vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II năm 1981, và căn
cứ theo sở mật vụ của cộng sản Đông Đức ngày xưa thì hồ sơ cho thấy mật vụ KGB
của cộng sản Nga đã ra lệnh lệnh cho nhân viên tình báo của Bulgaria thi hành âm
mưu ám sát ĐGH.
Thế nhưng, dù loài người có chủ mưu và âm mưu sát hại người của Thiên Chúa, vẫn
không ra khỏi việc quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan và toàn năng của Ngài,
như việc Ngài đã dùng cộng sản để đưa ngài vào hàng giáo phẩm trước đây. Nếu vụ
ám sát ĐTC GPII liên quan đến Bí Mật Fatima, như chính ĐTC đã thấy hình ảnh của
mình nơi vị giám mục áo trắng bị sát hại trong phần thứ ba Bí Mật Fatima, thì
nguyên do ngài bị ám sát là vì Thiên Chúa muốn làm cho Mẹ được nhận biết và yêu
mến, qua việc ngài bị ám sát không chết vào chính ngày kỷ niệm biến cố Fatima,
nhờ đó, ngài đã nhận ra được dấu chỉ thời đại và mới dứt khoát đáp ứng điều trời
cao chính thức yêu cầu từ ngày 13/6/1929 song vẫn chưa được thực hiện, đó là
việc hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, việc hiến dâng của
ngài đã thực sự làm cho Nước Nga trở lại!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL