GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ SÁU 21/4/2006

 BÁT NHẬT PHỤC SINH

 

?  Giáo Hoàng Biển Đức XVI - Sứ Điệp Ngày Cầu Nguyện 7/5/2006 Cho Ơn Thiên Triệu lần 43: Ơn Thiên Triệu Trong Mầu Nhiệm Giáo Hội 

?  Tôi muốn chia sẻ về danh hiệu tôi đã chọn khi trở thành vị giám mục Rôma và vị chủ chiên của Giáo Hội hoàn vũ” - ĐTC Biển Đức XVI trong Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần lần đầu tiên Thứ Tư 27/4/2005

?  Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Năm Giáo Triều Thứ Nhất cảm nhận về Vị Tiền Nhiệm Gioan Phaolô II (tiếp)

 

 

 

?  Giáo Hoàng Biển Đức XVI - Sứ Điệp Ngày Cầu Nguyện 7/5/2006 Cho Ơn Thiên Triệu lần 43: Ơn Thiên Triệu Trong Mầu Nhiệm Giáo Hội 

 

Quí Huynh khả kính trong Hàng Giáo Phẩm

Anh Chị Em rất thân mến,

 

Việc cử hành Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Thiên Triệu cống hiến cho tôi cơ hội để mời toàn thể Dân Chúa để suy niệm về đề tài Ơn Thiên Triệu trong mầu nhiệm của Giáo Hội. Tông Đồ Phaolô viết rằng: ‘Chúc tụng Thiên Chúa và là Cha của Chúa Giêsu Kitô của chúng ta… vì thậm chí Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi thế giới được tạo dựng … Ngài đã yêu thương chọn lựa chúng ta làm con cái của Ngài nơi Đức Giêsu Kitô’ (Eph 1:3-5). Trước khi thế giới được tạo thành, trước khi chúng ta được hiện hữu, Cha trên trời đã chọn riêng chúng ta, kêu gọi chúng ta đến với mối liên hệ con cái với Ngài, nhờ Đức Giêsu, Lời Nhập Thể, dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh. Khi chết đi cho chúng ta, Chúa Giêsu đã mang chúng ta vào mầu nhiệm yêu thương của Chúa Cha, một tình yêu hoàn toàn ôm ấp Con của Ngài và là tình yêu Ngài cống hiến cho tất cả chúng ta. Nhờ đó, hiệp với Chúa Kitô là Thủ Lãnh chúng ta làm nên một thân thể duy nhất là Giáo Hội.

 

Gánh nặng của hai ngàn năm lịch sử làm cho khó lòng để nắm được cái mới mẻ của mầu nhiệm nghĩa tử thần linh tuyệt vời này, một mầu nhiệm nghĩa tử thần linh là tâm điểm của giáo huấn Thánh Phaolô. Chúa Cha, như vị Tông Đồ này nhắc nhở chúng ta, ‘đã tỏ cho chúng ta thấy mầu nhiệm ý định của Ngài…., như là dự án hiệp nhất tất cả mọi sự trong Người’ (Eph 1:9-10). Rồi ngài hăng say nói thêm là: ‘Trong hết mọi sự, Thiên Chúa thực hiện sự lành cho những ai yêu mến Ngài, những ai được Ngài kêu gọi theo ý định của Ngài. Vì những ai Ngài biết trước thì Ngài cũng tiền định cho nên giống hình ảnh Con Ngài, để Người là trưởng tử của đàn em đông đúc’ (Rm 8:28-29).

 

Quan niệm này thật là tuyệt vời, ở chỗ, chúng ta được kêu gọi để sống như anh chị em của Chúa Giêsu, để cảm thấy rằng chúng ta là những người con trai con gái của cùng một Cha. Đây là một tặng ân làm đảo ngược hết mọi ý nghĩ và dự liệu của con người. Việc tuyên xưng đức tin chân thực mở rộng tâm tưởng của chúng ta trước mầu nhiệm Thiên Chúa khôn lường, một mầu nhiệm thấm nhập cuộc sống nhân loại. Bởi thế, chúng ta phải nói sao về khuynh hướng ngày nay rất mạnh mẽ trong việc cảm thấy rằng chúng ta là người sung mãn đển độ chúng ta khép mình lại trước dự án nhiệm mầu của Thiên Chúa đối với chúng ta hay sao? Chính tình yêu thương của Chúa Cha, một tình yêu được tỏ ra nơi bản thân Chúa Kitô là những gì đặt vấn đề này với chúng ta.

 

Để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa và để bắt đầu cuộc hành trình của chúng ta thì không cần gì phải hoàn hảo đã. Chúng ta biết rằng việc nhận thức về tội lỗi của mình đã làm cho người con hoang đàng bắt đầu cuộc hành trình trở về của mình, nhờ đó cảm thấy được niềm vui hòa giải với Cha. Những yếu hèn và các giới hạn của con người không phải là những chướng vật, miễn là chúng giúp cho chúng ta ý thức hơn về sự kiện chúng ta cần đến ơn cứu chuộc của Chúa Kitô. Đó là cảm nghiệm của Thánh Phaolô, vị đã thú nhận rằng: ‘Tôi càng hãnh diện hơn về những nỗi yếu hèn của mình, để quyền năng của Chúa Kitô được tỏ hiện nơi tôi’ (2Cor 12:9). Trong mầu nhiệm Giáo Hội, Nhiệm Thể của Chúa Kitô, quyền lực yêu thương thần linh biến đổi tâm can con người, làm cho họ có thể thông đạt tình yêu của Thiên Chúa cho an hem mình. Qua các thế kỷ, nhiều con người nam nữ, được tình yêu thần linh biến đổi, đã tận hiến đời mình cho Nước Trời.

 

Ngay trên bờ Biển Galilêa, nhiều người đã được Chúa Giêsu chiếm đoạt, ở chỗ, họ đã tìm kiếm việc chữa lành cho thân thể hay tinh thần, và họ đã được quyền lực ân sủng của Người chạm tới. Những người khác được Người tuyển chọn riêng tư và đã trở thành các tông đồ của Người. Chúng ta cũng thấy có những con người, như Maria Mai Đệ Liên cùng những người nữ khác, thành phần tự ý theo Người, chỉ vì yêu mến. Như môn đệ Gioan, họ cũng thấy được chỗ của họ nơi lòng của Người. Những con người nam nữ này, thành phần, nhờ Chúa Giêsu, đã biết được mầu nhiệm tình yêu của Chúa Cha, tiêu biểu cho các thứ ơn gọi khác nhau luôn hiện hữu trong Giáo Hội. Mô phạm của con người được chọn để làm nhân chứng đặc biệt cho tình yêu Thiên Chúa đó là Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, vị mà trong cuộc hành trình đức tin của mình, trực tiếp liên kết với mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc.

 

Nơi Chúa Kitô, Đầu Lãnh của Giáo Hội là Thân Thể của Người, tất cả mọi Kitô hữu làm nên ‘một chủng tộc được tuyển chọn, một hàng tư tế vương giả, một dân tộc thánh đức, dân riêng của Thiên Chúa, để anh em có thể loan báo những công việc kỳ diệu của Ngài’ (1Pt 2:9). Chúa Hội thánh thiện, cho dù các phần tử của Giáo Hội cần phải được thanh tẩy, để thánh thiện là tặng ân Thiên Chúa ban có thể hoàn toàn rạng ngời chiếu tỏa nơi họ. Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhấn mạnh đến ơn gọi nên thánh phổ quát khi khẳng định rằng: ‘Thành phần theo Chúa Kitô được Thiên Chúa kêu gọi, không phải vì các việc làm của họ, mà theo mục đích và ân sủng của Ngài. Họ được công chính hóa trong Chúa Giêsu Kitô, vì nơi Phép Rửa của đức tin, họ thực sự trở nên những người con cái của Thiên Chúa và là thành phần tham dự vào bản tính thần linh. Nhờ đó họ thực sự được thánh hóa’ (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn dân, 40).

 

Trong chiều hướng của ơn gọi phổ quát này, Chúa Kitô, Linh Mục Thượng Phẩm, trong mối quan tâm của mình đối với Giáo Hội, bởi vậy mới kêu gọi nơi mỗi thế hệ những con người để chăm sóc cho dân của Người; đặc biệt là Người kêu gọi lên hàng linh mục thừa tác những nam nhân thi hành vai trò thân phụ là vai trò được bắt nguồn từ chính vai trò thân phụ của Thiên Chúa (x Eph 3:14). Sứ vụ của vị linh mục trong Giáo Hội là những gì không thể nào thay thế được. Thế nên, cho dù ở một số miền thiếu hàng giáo sĩ cũng không bao giờ được ngờ vực việc Chúa Kitô tiếp tục tuyển chọn thành phần nam giới, như các vị Tông Đồ, bỏ lại tất cả mọi việc khác, hoàn toàn dấn thân cho việc cử hành các mầu nhiệm thánh, cho việc rao giảng Phúc Âm và cho việc thừa tác mục vụ.

 

Trong tông huấn ‘Pastores Dabo Vobis’, vị Tiền Nhiệm Gioan Phaolô II đáng kính của tôi đã viết về vấn đề này như sau: ‘Mối liên hệ của vị linh mục với Chúa Giêsu Kitô, và trong Người với Giáo Hội của Người, được thấy nơi chính con người của vị linh mục nhờ việc thánh hiến hay xức dầu bí tích cũng như nơi hoạt động của ngài, tức là nơi sứ vụ hay thừa tác vụ của ngài. Đặc biệt là vị thừa tác viên linh mục là tôi tớ của Chúa Kitô hiện diện trong Giáo Hội như mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ. Nhờ việc ngài tham dự vào việc xức dầu và sứ vụ của Chúa Kitô mà vị linh mục có thể tiếp tục lời nguyện cầu của Chúa Kitô, lời nói, hiến tế và tác động cứu độ của Người trong Giáo Hội. Như thế, vị linh mục cũng là tôi tớ của Giáo Hội như mầu nhiệm, vì ngài phát động những dấu hiệu có tính cách bí tích của Giáo Hội về sự hiện diện của Chúa Kitô phục sinh’ (đoạn 16).

 

Một ơn gọi đặc biệt khác, một ơn gọi chiếm được một vị thế danh dự trong Giáo Hội, đó là ơn gọi sống đời tận hiến. Theo gương của Maria ở Bêthania, người ‘đã ngồi dưới chân Chúa mà lắng nghe giáo huấn của Người’ (Lk 10:39), nhiều con người nam nữ tận hiến bản thân để hoàn toàn trọn vẹn theo Chúa Kitô mà thôi. Mặc dù họ cống hiến các loại phục vụ khác nhau nơi lãnh vực đào luyện về nhân bản và việc chăm sóc cho người nghèo, nơi việc giảng dạy hay nơi việc trợ giúp bệnh nhân, họ không coi những hoạt động ấy như mục đích chính yếu của cuộc đời họ, vì, theo Giáo Luật đã rõ ràng nhấn mạnh rằng: ‘nhiệm vù trước hết và trên hết của tất cả mọi tu sĩ đó là chiêm niệm những sự thần linh và thiết tha hiệp nhất với Thiên Chúa bằng việc nguyện cầu’ (khoản 663.1).

 

Ngoài ra, trong tông huấn ‘Đời Tận Hiến’, Đức Gioan Phaolô II còn nhận định là: ‘Theo truyền thống của Giáo Hội thì lời khấn tu trì được coi là những gì đào sâu một cách đặc biệt và hiệu quả của việc thánh hiến nơi Phép Rửa, vì nó là phương tiện nhờ đó mối hiệp nhất gắn bó với Chúa Kitô đã được bắt đầu nơi Phép Rửa phát triển thành tặng ân của việc nên giống một cách đích thực và hoàn toàn hơn với Người nhờ lời khấn giữ các lời khuyên của Phúc Âm’ (khoản 30).

 

Khi nhớ đến lời khuyên của Chúa Giêsu: ‘Mùa màng thì bề bộn mà thờ gặt lại ít oi; vậy các con hãy xin chủ mùa sai thợ tới làm mùa cho Ngài’ (Mt 9:37), chúng ta nhận thấy nhu cầu quan trọng của việc nguyện cầu cho ơn thiên triệu linh mục và sống đời tận hiến. Không lấy gì làm lạ ở đâu con người thiết tha nguyện cầu thì ở đó ơn gọi phát triển. Sự thánh thiện của Giáo Hội chính yếu lệ thuộc vào mối hiệp nhất với Chúa Kitô cũng như vào việc hướng về mầu nhiệm ân sủng đang tác động nơi tâm can của Kitô hữu.

 

Bởi thế, tôi cần phải mời tất cả mọi tín hữu hãy nuôi dưỡng mối liên hệ thân tình với Chúa Kitô, Vị Sư Phụ và là Vị Mục Tử của dân Người, noi gương bắt chước Mẹ Maria là vị lưu giữ các mầu nhiệm thần linh trong lòng mà trân trọng suy niệm (x Lk 2:19). Cùng với Mẹ, vị chiếm được vị thế chính yếu nơi mầu nhiệm Giáo Hội, chúng ta hãy nguyện cầu rằng:

 

Ôi Cha, xin hãy kêu gọi trong số các Kitô hữu

Nhiều ơn gọi thánh thiện làm linh mục, để giữ đức tin sống còn và canh giữ việc ưu ái tưởng nhớ đến Người Con Giêsu của Cha qua việc rao giảng lời Người và việc ban phát các Bí Tích, nhờ đó Cha tiếp tục canh tân tín hữu của Cha.

 

Xin ban cho chúng con các vị thừa tác viên thánh hảo phục vụ bàn thờ của Cha,

Thành phần là những người cẩn thận và nhiệt tình bảo quản Thánh Thể, bí tích là tặng ân cao cả của Chúa Kitô ban cho phần rỗi thế giới.

 

Xin kêu gọi các vị thừa tác viên của lòng thương xót Cha,

thành phần, qua bí tích Hòa Giải, reo rắc niềm vui được Cha thứ tha.

Ôi Cha, xin cho Giáo Hội biết hân hoan đón nhận nhiều soi động của Thần Linh Con Cha, và dễ dạy với các giáo huấn của Ngài, cho Giáo Hội biết chăm sóc các ơn gọi làm linh mục thừa tác và sống đời tận hiến.

 

Xin Cha hãy bảo trì các Vị Giám Mục, linh mục và phó tế, thành phần nam nữ tận hiến, cùng tất cả mọi người được rửa tội trong Chúa Kitô, để họ biết trung thành hoàn tất sứ vụ của mình là việc phục vụ Phúc Âm.

 

Chúng con xin điều này nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.

 

Hỡi Maria là Nữ Vương Các Tông Đồ, cầu cho chúng con.

 

Tại Vatican ngày 5/3/2006

Biển Đức XVI


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 12/4/2006

 

 

TOP

 

 

 ?  Tôi muốn chia sẻ về danh hiệu tôi đã chọn khi trở thành vị giám mục Rôma và vị chủ chiên của Giáo Hội hoàn vũ” - ĐTC Biển Đức XVI trong Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần lần đầu tiên Thứ Tư 27/4/2005

 

Anh Chị Em thân mến!


Tôi vui mừng đón mừng anh chọ em và thân ái chào tất cả anh chị em hiện diện nơi đây, cũng như những ai đang theo dõi chúng ta qua truyền thanh và truyền hình. Như tôi đã bày tỏ trong lần gặp gỡ đầu tiên của tôi với các Vị Hồng Y, cũng chính vào Thứ Tư tuần trước ở Nguyện Đường Sistine, tôi trải qua những cảm giác đối chọi trong tâm thần của tôi vào những ngày bắt đầu thừa tác vụ thừa kế Thánh Phêrô của tôi này: cảm giác kinh sợ
và tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã làm cho tôi ngỡ ngàng hơn ai hết khi gọi tôi thừa kế Thánh Phêrô, và có một lo âu trong lòng trước công việc lớn lao cùng với những trách nhiệm được trao phó cho tôi. Tuy nhiên, tôi đã an tâm và vui mừng vì tin tưởng vào ơn trợ giúp của Thiên Chúa, sự hỗ trợ của Trinh Nữ Maria Mẹ rất Thánh của Người, cũng như sự hỗ trợ của các thánh quan thày. Tôi cũng cảm thấy được nâng đỡ bởi việc gắn bó thiêng liêng của tất cả dân Chúa là thành phần, như tôi đã lập lại hôm Chúa Nhật vừa rồi, là tôi tiếp tục xin hộ giúp tôi bằng lời nguyện cầu liên lỉ.


Sau cái chết thánh đức của vị tiền nhiệm đáng kính Gioan Phaolô II của mình, những buổi triều kiến chung vào Thứ Tư hằng tuần theo truyền thống được bắt đầu lại hôm nay. Trong buổi gặp gỡ đầu tiên này, trước hết, tôi muốn chia sẻ về danh hiệu tôi đã chọn khi trở thành vị giám mục Rôma và vị chủ chiên của Giáo Hội hoàn vũ. Tôi đã chọn cho mình danh hiệu giáo hoàng Biển Đức XVI thực sự là có liên hệ tới vị Giáo Hoàng đáng kính Biển Đức XV, vị đã hướng dẫn Giáo Hội qua thời biến loạn của Thế Chiến Thứ Nhất. Ngài thực sự là một vị ngôn sứ can trường của hòa bình đã đấu tranh một cách hăng hái và can trường, trước hết là để tránh thảm kịch chiến tranh, sau đó là để hạn chế những hậu quả kinh khiếp của nó. Tôi thực hiện thừa tác vụ của tôi theo bước chân của ngài, trong việc phục vụ cho vấn đề hòa giải và hòa hợp giữa các dân tộc, hết sức tin tưởng rằng sự thiện cao cả hòa bình trước hết là tặng ân Chúa ban, một tặng ân mong manh nhưng quí hóa cần phải được kêu nài, bảo toàn và kiến tạo hằng ngày bằng việc đóng góp của hết mọi người.

 

Danh hiệu Biển Đức ngoài ra còn gợi lên cho thấy một hình ảnh nổi bật về vị đại ‘tổ phụ của đan viện tu tây phương’, đó là Thánh Biển Đức ở Nursia, vị đồng quan thày Âu Châu với thánh Cyrilô và Methôđiô. Việc mau chóng phát triển Dòng Biển Đức được ngài sáng lập đã gây tác dụng lớn lao cho việc truyền bá Kitô giáo khắp lục địa Âu Châu. Đó là lý do Thánh Biển Đức đã được tôn kính rất nhiều ở Đức quốc, nhất là ở Bavaria, miền đất nguyên quán của tôi; ngài thiết lập một cứ điểm nồng cốt cho việc hiệp nhất Âu Châu và một lời kêu gọi mãnh liệt trở về với những cội nguồn Kitô giáo của văn hóa và văn minh Âu Châu.

 

Chúng ta biết lời huấn dụ được Vị Tổ Phụ của đan viện tu Tây Phương này để lại cho thành phần đan sĩ của mình đó là “Tuyêt đối không coi gì hơn Chúa Kitô” (Luật Dòng 72:11; 4:21). Vào lúc mở đầu cho việc tôi phục vụ như vị Thừa Kế Thánh Phêrô, tôi xin Thánh Biển Đức hãy giúp chúng ta biết cương quyết lấy Chúa Kitô làm tâm điểm của đời sống chúng ta. Chớ gì Người bao giờ cũng là những gì trên hết trong tâm tưởng cũng như trong tất cả mọi hoạt động của chúng ta!

 

Tôi cảm mến nghĩ lại vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của mình, vị chúng ta đã mắc nợ một di sản thiêng liêng đặc biệt. Ngài đã viết trong tông thứ “Vào Lúc Mở Màn Cho Một Thiên Niên Kỷ” rằng “Các cộng đồng Kitô hữu chúng ta cần phải trở thành một ‘học đường’ cầu nguyện, nơi cuộc gặp gỡ Chúa Kitô được thể hiện chẳng những ở chỗ nài xin ơn giúp đỡ mà còn ở chỗ tạ ơn, chúc tụng, tôn thờ, chiêm ngưỡng, lắng nghe và sùng mộ, cho đến khi tâm hồn thực sự ‘say yêu’” (số 33).

 

Chính ngài đã tìm cách thực hiện những ý định đó này bằng cách cống hiến các buổi giáo lý Thứ Tư vào thời gian cuối cùng để dẫn giải về các bài Thánh Vịnh cho giờ kinh phụng vụ ban mai và chiều tối. Như ngài đã làm khi mở màn cho giáo triều của ngài, lúc ngài muốn tiếp tục những bài chia sẻ được khởi xướng bởi vị Tiền Nhiệm của ngài về các nhân đức Kitô giáo (x “Insegnamenti di Giovanni Paolo II”, I [1978], tr. 60-63), tôi cũng có ý thực hiện vào các buổi triều kiến hằng tuần tới đây việc dẫn giải đã được Đức Gioan Phaolô II dọn cho phần thứ hai của các Bài Thánh Vịnh và Ca Vịnh thuộc Giờ Kinh Phụng Vụ Chiều Tối. Từ Thứ Tư tuần tới, tôi sẽ bắt đầu vào chính bài giáo lý của ngài đã bị gián đoạn sau buổi triều kiến chung 26/1/2005.

 

Các bạn thân mến, một lần nữa cám ơn các bạn đã đến viếng thăm; cám ơn các bạn về lòng cảm mến các bạn giành cho tôi. Chúng là những thứ cảm mến tôi xin thân ái đáp trả các bằng phép lành đặc biệt tôi ban cho anh chị em có mặt nơi đây, cho gia đình của anh chị em cũng như cho tất cả mọi người thân yêu của anh chị em.

 

(ĐTC đã tóm tắt bài diễn từ của ngài như sau:)

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Thật là hết sức vui mừng được đón tiếp anh chị em và cũng chào những ai theo dõi buổi triều kiến này qua truyền thanh và truyền hình. Sau cái chết thánh đức của vị tiền nhiệm thân yêu là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tôi đến với anh chị em hôm nay cho buổi triều kiến chung lần đầu tiên của tôi.

 

Đầy cảm giác kinh sợ và tạ ơn, tôi muốn nói về lý do tại sao tôi đã chọn danh hiệu Biển Đức. Trước hết, tôi muốn nhớ đến Giáo Hoàng Biển Đức XV, vị ngôn sứ hòa bình can trường, vị đã dẫn dắt Giáo Hội qua những thời chiên tranh tao loạn. Theo chân ngài, tôi muốn thực hiện thừa tác vụ của mình để đem lại hòa giải và hòa thuận giữa các dân tộc.

 

Ngoài ra, tôi nhắc lại Thánh Biển Đức thành Nursia, vị đồng quan thày Âu Châu, vị có đời sống khơi dậy những cội nguồn Kitô giáo của Âu Châu. Tôi xin ngài giúp đỡ tất cả chúng ta biết cương quyết lấy Chúa Kitô làm tâm điểm cho đời sống Kitô hữu của chúng ta: Chớ gì Chúa Kitô luôn chiếm chỗ nhất trong tâm tưởng và hành động của chúng ta!

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 27/4/2005

 

 

TOP

 

 

?   Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Năm Giáo Triều Thứ Nhất cảm nhận về Vị Tiền Nhiệm Gioan Phaolô II

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp và tuyển dịch

 

(tiếp 13 Thứ Năm, 14 Thứ Sáu, 15 Thứ Bảy, 16 Chúa Nhật, 17 Thứ Hai, 18 Thứ Ba, 19 Thứ Tư, 20 Thứ Năm)

 

Nhận Định về Vị Tiền Nhiệm

Về Linh Đạo Của Vị Tiền Nhiệm

Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 16/10/2005 về Ngày Kỷ Niệm Được Bầu Làm Giáo Hoàng của Đức Gioan Phaolô II 

Anh Chị Em thân mến: 

Hai mươi bảy năm trước đây, vào một ngày như hôm nay đây, Chúa đã kêu gọi Hồng Y Karol Wojtyla, TGM Krakow, để kế vị Đức Gioan Phaolô đệ nhất qua đời ngắn ngủi sau một tháng được tuyển bầu. Với Đức Gioan Phaolô II, một trong những giáo triều dài nhất lịch sử Giáo Hội được mở màn, một giáo triều có vị Giáo Hoàng, “người đến từ một xứ sở xa xôi”, được nhìn nhận là một thẩm quyền về luân lý, kể cả nhiều người không phải Kitô hữu và vô tín ngưỡng, như được chứng tỏ qua các cuộc biểu lộ cảm tình trước cơn bệnh của ngài và niềm thương cảm xót xa sau cái chết của ngài.  

Trước ngôi mộ của ngài trong hầm mộ Vatican, nhiều tín hữu vẫn không ngừng tiếp tục tuốn đến kính viếng, và điều này cho thấy một dấu hiệu hùng hồn là Đức Gioan Phaolô II yêu dấu của chúng ta đã đi vào lòng người như thế nào, trước hết, là vì chứng từ yêu thương của ngài và việc ngài sẵn sàng chấp nhận khổ đau. Nơi ngài, chúng ta có thể ca tụng sức mạnh của đức tin và lời nguyện cầu của ngài, và cách ngài hoàn toàn phó thác bản thân ngài cho Đức Maria Rất Thánh, vị luôn đồng hành với ngài và bảo vệ chở che ngài, nhất là trong những lúc khốn khó nhất và bi thảm nhất trong cuộc đời của ngài.   

Chúng ta có thể diễn tả Đức Gioan Phaolô II như là vị Giáo Hoàng hoàn toàn hiến thân cho Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria, như khẩu hiệu của ngài tỏ tường cho thấy: “Totus tuus”. Ngài đã được tuyển chọn vào giữa tháng mân côi, và chuỗi mân côi, thường được ngài cầm trong tay, trở thành một trong những biểu hiệu cho giáo triều của ngài, một giáo triều được Đức Trinh Nữ trông nom săn sóc bằng mối quan tâm từ mẫu. Qua truyền thanh và truyền hình, tín hữu trên thế giới đã có thể liên kết với ngài vào một số dịp cầu loại kinh Thánh Mẫu ấy, và nhờ gương sáng cùng các giáo huấn của ngài, họ tái nhận thức được ý nghĩa đích thực của kinh nguyện này, một ý nghĩa chiêm niệm và Kitô học (xem tông thư “Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria”, các khoản 9-17).  

Thật vậy, kinh mân côi không nghịch lại với việc suy niệm Lời Chúa và kinh nguyện phụng vụ; trái lại, kinh nguyện này còn là một thứ bổ túc một cách tự nhiên và tuyệt vời, nhất là để sửa soạn và tạ ơn trong việc cử hành Thánh Thể. Chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Kitô là Đấng chúng ta gặp gỡ trong Phúc Âm và nơi các bí tích, ở vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời của Người, qua các mầu nhiệm mân côi vui, sáng, thương và mừng.  

Nơi học đường Maria, chúng ta nhờ đó học biết liên kết bản thân mình với Người Con thần linh của Mẹ và loan báo Người bằng chính cuộc sống của chúng ta. Nếu Thánh Thể, đối với Kitô hữu, là trọng tâm của ngày sống, thì kinh mân côi góp phần một cách đặc biệt vào việc hiệp thông kéo dài với Chúa Kitrô, và kinh này dạy chúng ta sống bằng ánh mắt tâm can gắn chắt vào Người để chiếu tỏa cho mọi người và mọi sự tình yêu nhân hậu của Người. 

Chiêm niệm và truyền giáo: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II yêu dấu của chúng ta là như thế. Ngài là thế nhờ mối hiệp nhất sâu xa của ngài với Thiên Chúa, một mối hiệp nhất hằng ngày được nuôi dưỡng bởi Thánh Thể và những giây phút nguyện cầu lâu giờ.  

Vào giây phút nguyện Kinh Truyền Tin này đây, một giây phút ngài rất yêu chuộng, chúng ta cần phải hân hoan và có nhiệm vụ tưởng nhớ đến ngài nhân dịp mừng kỷ niệm này, lập lại việc chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã ban cho Giáo Hội và thế giới một vị thừa kế rất xứng đáng của Tông Đồ Phêrô. Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta biết trân quí di sản châu báu của ngài.    

Bài Giảng Thánh Lễ Đồng Tế Với Tân 15 Hồng Y Thứ Bảy ngày 25/3/2006

 

Chư huynh thân mến, thật là một ân huệ cao cả biết bao khi thực hiện việc cử hành ý nghĩa này vào Lễ Trọng Truyền Tin đây! Chúng ta có thể nhận được dồi dào ánh sáng biết bao từ mầu nhiệm này cho đời sống chúng ta làm thừa tác viên của Giáo Hội đây! Nhất là các vị tân hồng y thân mến, chư huynh có thể lãnh nhận nhiều bổ dưỡng là chừng nào cho sứ vụ làm ‘Nghị Viên’ cao cả của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô! Cơ hội thích đáng này giúp chúng ta coi biến cố hôm nay đây, một biến cố nhấn mạnh đến nguyên tố Phêrô của Giáo Hội, theo chiều hướng của một nguyên tố khác, đó là nguyên tố Thánh Mẫu, một nguyên tố thậm chí còn quan trọng hơn nữa. Tầm vóc quan trọng của nguyên tố Thánh Mẫu trong Giáo Hội, sau công đồng chung Vaticanô II, được đề cao một cách đặc biệt bởi Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiền nhiệm yêu dấu của tôi, hợp với khẩu hiệu của ngài ‘Totus tuus’.

 

Trong linh đạo của ngài, cũng như trong thừa tác vụ liên lỉ của ngài, sự hiện diện của Mẹ Maria như là Người Mẹ và là Nữ Vương của Giáo Hội đã trở thành hiển nhiên trước mắt mọi người. Nhất là ngài đã quảng bá sự hiện diện từ mẫu của Mẹ nơi vụ ám sát ngày 13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô. Để tưởng nhớ biến cố bi thương này, ngài đã đặt một bức ảnh Đức Trinh Nữ bằng vi thạch ghép trên cao Tông Dinh Giáo Hoàng, nhìn xuống Quảng Trường Thánh Phêrô, để hỗ trợ những giây phút chính yếu và diễn tiến hằng ngày cho giáo triều dài lâu của ngài. Đúng một năm từ khi giáo triều của ngài đi vào giai đoạn cuối cùng, giai đoạn vượt qua đầy khổ đau nhưng thực sự là vinh thắng. Tấm hình Truyền Tin, hơn bất cứ tấm hình nào khác, giúp chúng ta thấy rõ lý do tại sao hết mọi sự trong Giáo Hội trở về với mầu nhiệm Mẹ Maria chấp nhận Lời thần linh, nhờ đó, qua tác động của Thánh Linh, giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại mới được hoàn toàn niêm ấn. 

Bài Giảng Thánh Lễ Giỗ đầy năm băng hà của vị Tiền  Nhiệm Chiều Tối Thứ Hai 3/4/2006 tại Quảng Trường Thánh Phêrô 

“Đoạn Phúc Âm vừa được công bố giúp chúng ta hiểu được một khía cạnh khác nơi nhân cách về nhân bản và đạo nghĩa của ngài. Chúng ta có thể nói rằng ngài, Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, đã hết sức noi gương bắt chước Gioan là ‘người môn đệ yêu dấu’ trong các Tông Đồ, vị tông đồ đã đứng dưới chân Thập Giá với Mẹ Maria vao giây phút Đấng Cứu Chuộc cảm thấy bị bỏ rơi và bị tử nạn.

 

“Vị thánh ký này đã thuật lại rằng Chúa Giêsu, khi thấy họ đừng gần kề thì đã trao phó người này cho người kia: ‘Hỡi Bà, này là con của bà!’… ‘Đó là mẹ của con!’ (Jn 19:26-27). Những lời của Chúa Kitô hấp hối ấy đặc biệt được Đức Gioan Phaolô II yêu thích. Như vị Tông Đồ và Thánh Ký này, ngài cũng muốn mang Mẹ Maria về nhà của ngài: ‘et ex illa hora accepit eam discipulus in sua’ (Jn 19:27).

 

“Câu phát biểu ‘accepit eam in sua’ là lời chất chứa một ý nghĩa đặc biệt. Nó có ý nói đến việc tông đồ Gioan quyết định để Mẹ Maria thông phần vào cuộc đời của mình, như thế mới cảm nghiệm được rằng ai mở lòng mình ra cho Mẹ Maria thì thực sự được Mẹ chấp nhận và trở thành con riêng của Mẹ. Câu khẩu hiệu ‘Totus tuus’ được tiêu biểu nơi huy hiệu giáo triều của Đức Gioan Phaolô II cũng gói ghém cảm nghiệm linh thiêng và huyền nhiệm này nơi một cuộc sống hoàn toàn nhờ Mẹ Maria hướng về Chúa Kitô: ‘ad Iesum per Mariam – nhờ Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu’.”

 

(Biệt chú: trong bức thư đề ngày 8/12/2003 gửi Chư Gia Đình Hội Dòng Montfort nhân dịp kỷ niệm 160 năm [1843-2003] xuất bản tác phẩm ‘Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Đức Trinh Nữ’ của vị sáng lập là Thánh Long Mộng Phố [Louis Montfort], chính Đức Gioan Phaolô II đã xác nhận nhận định của vị thừa nhiệm Biển Đức XVI của mình trên đây):

 

Từ khi được hạ sinh, nhất là vào những lúc khó khăn nhất của mình, Giáo Hội đã thiết tha chiêm ngưỡng biến cố Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô được Thánh Gioan đề cập tới, đó là: ‘Đứng kề Thánh Giá Chúa Giêsu có Mẹ của Người, và chị của Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas, cùng với Maria Mai Đệ Liên. Khi Chúa Giêsu thấy Mẹ của mình và môn đệ Người yêu đứng gần thì Người nói với Mẹ mình rằng: Hỡi Bà, này là con của bà! Đoạn Người nói với người môn đệ rằng: Này là người mẹ của con! Và từ lúc đó người môn đệ ấy mang Người về nhà mình’ [Jn 19:25-27]. Qua giòng lịch sử của mình, Dân Chúa đã cảm nghiệm được tặng ân này của Chúa Giêsu tử giá, đó là tặng ân Mẹ Người. Mẹ Maria Rất Thánh thực sự là Mẹ của chúng ta, vị đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình đức tin, đức cậy và đức mến, tiến tới chỗ càng được hiệp nhất nên một hơn với Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ và là Trung Gian cứu độ duy nhất [x Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, các số 60, 62]. Như đã quá rõ, huy hiệu giáo phẩm của tôi cho thấy một cách tượng trưng câu Phúc Âm được trích dẫn trên đây; câu khẩu hiệu Totus tuus là câu được gợi hứng bởi giáo huấn của Thánh Louis Marie Grignion de Montfort (cf. Gift and Mystery, pp. 42-43; Rosarium Virginis Mariae, n. 15). Hai chữ này diễn tả việc hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu qua Mẹ Maria: ‘Tuus totus ego sum, et omnia mea tua sunt’, Thánh Montfort đã viết như thế và ngài chuyển dịch sang ngôn từ của mình như sau: ‘Tất cả con là của Chúa, và tất cả những gì con có là của Chúa, Ôi Chúa Giêsu rất dấu yêu, nhờ Mẹ Maria, Người Mẹ rất thánh của Chúa’ (Treatise on True Devotion, n. 233). Giáo huấn của vị Thánh này đã gây được một ảnh hưởng sâu xa nơi lòng tôn sùng của nhiều tín hữu và nơi cuộc sống của tôi.”

 

(còn tiếp)

 

 

TOP

 

 

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ