GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ SÁU 23/6/2006 TUẦN MÌNH MÁU CHÚA |
? Hướng Về Ngày Họp Thế Giới Các Gia Đình ở Tây Ban Nha 8-9/7/2006: Bài 4.- Tình Nghĩa Phu Thê
? Tháng Sáu Kính Thánh Tâm Chúa với Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu: Bài 4 - "Sức mạnh của Cha và quyền năng của Cha ở nơi lòng từ ái của Cha".
? 'Mặt Trời Khổ Ải' - Đức Gioan Phaolô II; 'Vinh Quang Oliu' - Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Bài 4 - 'Thiên Chúa và tình yêu thương của chúng ta là điều kiện cho mối hiệp nhất của Kitô hữu'.
Hướng Về Ngày Họp Thế Giới Các Gia Đình ở Tây Ban Nha 8-9/7/2006: Bài 4.- Tình Nghĩa Phu Thê
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Tình Nghĩa: Khác Biệt
T |
rước hết, ở đây chúng ta không cố ý sử dụng thành ngữ Tình Yêu Phu Phụ mà là Tình Nghĩa Phu Thê là vì ngày nay người ta có khuynh hướng chỉ chú trọng đến tình yêu mà không lưu ý đến tình nghĩa mấy nữa. Không phải hay sao, vì chú trọng đến tình yêu hơn tình nghĩa, do đó, một khi hết yêu nhau là người ta liền bỏ nhau, là người ta ly dị nhau theo kiểu Tây Phương, là người ta không còn tình nghĩa gì với nhau nữa, theo luân lý Đông Phương nói chung và Á Đông nói riêng.
Trái lại, chính vì tình nghĩa mà cho dù có lấy nhau theo tục cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy đi chăng nữa, hai con người vợ chồng thuộc văn hóa Á Đông vẫn có thể trọn đời sống với nhau, vì những đụng chạm xác thịt hết sức linh thiêng giữa họ với nhau, những giao chạm linh thiêng đã làm cho họ sinh ra những con người cao quí, những con người không thể chỉ vì hạnh phúc riêng của thành phần làm bố làm mẹ mà bắt chúng phải chịu sống cảnh mồ côi bất đắc dĩ như ở xã hội Âu Mỹ hiện nay. Vậy phải chăng tình nghĩa sâu xa hơn tình yêu? Và vợ chồng muốn sống trọn đời với nhau phải sống bằng tình nghĩa hơn tình yêu?
Thật vậy, thực tế cho chúng ta thấy tình nghĩa hoàn toàn khác với tình yêu và không phải là tình yêu. Tại sao? Bởi vì, có những trường hợp hai vợ chồng sống với nhau không phải vì tình mà chỉ vì nghĩa, nghĩa vợ chồng, nghĩa phụ tử hay mẫu tử. Nếu “tình” đây được hiểu là những gì tự phát và chủ động tìm đến với nhau theo khuynh hướng và thúc động tình cảm phái tính, thì “nghĩa” đây có thể nói là nghĩa vụ, những gì ràng buộc và khó dứt trên căn bản luân lý làm người.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy nếu không có “tình” thì cũng không có “nghĩa”. Ở chỗ, người ta cho rằng dù sao mình cũng có duyên nợ với nhau, bằng không làm sao lại có thể nên vợ thành chồng. Ngoài ra, nếu hoàn cảnh cho phép, họ vẫn có thể bỏ nhau, như một số cặp hôn nhân tiền chiến ở Việt Nam cũng đã không bền tại đất nước văn minh Âu Mỹ này.
Vậy nếu trong hoàn cảnh thuận tiện để có thể ly dị bỏ nhau mà những cặp vợ chồng thời “Lạnh Lùng” và “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh vẫn gắn bó với nhau, thì không phải là họ chẳng những sống với nhau vì nghĩa mà còn vì tình nữa hay sao, một tình yêu phát xuất từ thiên duyên tiền định hơn là vì tự do luyến ái? Hơn nữa, cũng không thiếu những trường hợp, lúc đầu lấy nhau chỉ vì nghĩa, vì nghĩa làm con phải trả hiếu cha mẹ, vì nghĩa làm con phải lập gia đình để nối dõi tông đường cho gia tộc, vì nghĩa làm con phải làm cho cha mẹ nở mày nở mặt theo môn đăng hộ đối v.v., nhưng khi về chung sống với nhau rồi, hai con người sống theo tình nghĩa này và vốn có tình nghĩa gia đình rất căn bản để làm người này, lại cảm thấy hạnh phúc, lại nẩy sinh yêu thương.
Tình Nghĩa: Hội Ngộ
Nếu “tình” là tình yêu, theo tình cảm phái tính, và “nghĩa” là nghĩa vụ, theo việc phải làm, như trách nhiệm luân lý đòi buộc, thì không phải đã yêu là con người được hoàn toàn tự do, không cần hay không dính dáng gì đến “nghĩa”. Trái lại, khi bắt đầu yêu nhau là người ta đã phải có “nghĩa” với nhau rồi, ở chỗ, họ phải có nghĩa vụ tôn trọng nhau, chứ không phải có quyền chiếm đoạt nhau, sử dụng nhau và lạm dụng nhau, bằng không, không có “nghĩa” cũng chẳng có “tình”.
Như thực tế cho thấy những cuộc tình của thời đại này, những cuộc tình tưng bừng và vội vã khai trương với giây phút “big moment” của “dating” hẹn hò, để rồi cũng mau chóng dẹp tiệm đóng cửa. Bởi vậy, nếu “tình” phải hướng đến “nghĩa”, nên mới gọi là “tình nghĩa”, “tình sâu nghĩa nặng” hay “tình nồng nghĩa thiết”, và mới là tình yêu chân chính, vững bền, thì trong “nghĩa” đã có sẵn “tình”, nên mới gọi là “nặng nghĩa ân tình” hay “trọn nghĩa ân tình”. Kinh nghiệm cho thấy, cặp vợ chồng nào có “nghĩa” hay nặng “nghĩa” với nhau sẽ trung thành với nhau hơn là những đôi uyên ương chỉ biết say mê nhau vì “tình”, tình cảm, tình dục.
Tình nghĩa chẳng những khiến vợ chồng tôn trọng lẫn nhau, chu toàn phận sự đối với nhau, mà còn quí trọng cả con cái do họ sinh ra nữa, bằng việc chu toàn nhiệm vụ làm cha làm mẹ đối với chúng, chứ không vì vợ chồng lục đục với nhau mà để cho chúng phải chịu thiệt thòi cách nào. Như trào lưu ly dị pro choice trong hôn nhân ngày nay, coi hôn nhân như một trò chơi và con cái như đồ chơi. Chính vì sống đời vợ chồng với nhau vì nghĩa hơn là vì tình mà con cái do họ sinh ra lại càng là những gì ràng buộc vợ chồng lại với nhau không thể tách rời được nữa.
Cũng chính vì nghĩa, vì coi trọng nghĩa vợ chồng với nhau cũng như coi nặng nghĩa với con cái như vậy mà họ coi tác động vợ chồng là những gì linh thiêng cao quí, chứ không phải chỉ là những giây phút cực lạc của tận cùng khoái cảm để thỏa mãn nhu cầu sinh lý bản năng. Đối với họ, một đời đã trao thân là trọn đời thuộc về nhau. Đối với những cặp vợ chồng sống với nhau “trọn nghĩa ân tình” này, đời sống hôn nhân vợ chồng của họ mới thực sự “nên một thân thể” theo ý nghĩa hôn nhân Do Thái Giáo và Kitô Giáo.
Tình trạng “nên một thân thể” của họ ở đây không phải theo nghĩa thể lý cho bằng nghĩa tâm lý và luân lý. Theo nghĩa tâm lý, “nên một thân thể” nghĩa là thân thể của vợ là của chồng và thân thể của chồng là của vợ, được thể hiện qua việc trao thân cho nhau, giao hợp với nhau. Theo nghĩa luân lý, “nên một thân thể” nghĩa là thân thể của họ trọn đời là duy của một người chứ không phải của nhiều người, như hiện tượng đa thê đa phu của trào lưu ly dị ngày nay cho phép.
Nếu “nghĩa” giúp con người gắn bó với nhau, không lìa bỏ nhau, trái lại, còn có thể đưa con người vợ chồng đến chỗ thực sự và hoàn toàn “nên một thân thể”, mà “tình” trong tình yêu hôn nhân, cũng có khuynh hướng và là động lực hiệp nhất nên một vợ chồng, thì “tình” và “nghĩa” đều đồng qui tại một điểm, ở chỗ hiệp nhất nên một.
Như thế, vì tất cả bản chất và cốt lõi của hôn nhân là ở chỗ nên một thân thể như thế mà tất cả những gì vợ chồng làm ngược lại với bản chất này đều đưa con người đến chỗ rạn nứt hay đi tới chỗ đổ vỡ đời sống hôn nhân. Điển hình nhất là trường hợp ngoại tình về thể lý và ly dị theo pháp lý.
Vậy, làm thế nào để vợ chồng luôn hiệp nhất nên một thân thể trong đời sống hôn nhân? Nếu không phải họ cần chia cho nhau bằng tinh thần hy sinh và nhân cho nhau bằng tinh thần chịu đựng, chứ không phải cộng với nhau bằng đòi hỏi công bằng hay trừ khử nhau bằng bất đồng chia rẽ.
Tình Nghĩa: Cộng Trừ
Nếu vợ chồng mỗi người là 1 ngôi vị khác nhau, mà sống với nhau như một bài toán cộng thì sẽ thành 2 chứ không nên 1. Vợ chồng sống với nhau như bài toán cộng là ở chỗ mỗi người một account, một trương mục, chồng trả tiền nhà, vợ trả tiền những thứ chi phí khác, miễn là hai bên cân bằng với nhau trong vấn đề trang trải mọi sự trong nhà; nếu cần phải chi phí cho những thứ ngoại lệ theo tình nghĩa, như tới ngày Valentine, Giáng Sinh, Father Day hay Mother Day, Ngày Sinh Nhật của nhau thì lấy tiền của riêng mình mà mua quà tặng nhau, bao nhau ăn uống như bạn bè.
Bởi thế, bởi sống một đời sống vợ chồng với nhau như một bài toán cộng 1 với 1 là 2 như thế, nên khi gặp trường hợp một trong hai người đụng đến quyền lợi của nhau, đụng đến đức công bằng đã được phân chia ranh giới, họ liền bất mãn và tỏ thái độ đòi hỏi công lý, đến độ, họ đi đến chỗ làm toán trừ, 1 trừ 1 thành 0, vợ trừ chồng hay chồng trừ vợ thành ly dị.
Trước công lý, bài toán trừ họ làm chẳng những liên quan đến tình nghĩa “anh đi đường anh, tôi đi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi”, mà còn liên quan cả đến của cải nữa. Ở chỗ, tất cả những gì hai vợ chồng làm được từ ngày lấy nhau, sẽ được chia đồng đều. Nếu trường hợp họ đã có con cái với nhau, dù không còn là vợ chồng với nhau theo pháp lý nữa, họ vẫn phải bất đắc dĩ tiếp tục làm bài toán cộng. Ở chỗ, họ vẫn phải tiếp tục cộng tác với nhau, 1 với 1 là 2, trong việc chu toàn trách nhiệm đối với con cái còn ở trong tuổi vị thành niên, tức họ phải cộng tác với nhau trong việc người thì trực tiếp nuôi con, người phải cung cấp child support cho con. Bằng không, trong hai vợ chồng, nếu không ai có đủ khả năng nuôi con, vì bị tâm thần hay đã từng abuse - bạo hành hay neglect - bỏ bê con cái chẳng hạn, và không ai có thể support cho con, vì thất nghiệp không có việc làm chẳng hạn, thì con của họ liền thuộc về chính phủ, tức chính phủ có quyền custody, có quyền làm bảo hộ coi sóc con cái của họ, những đứa con thường được chính phủ gửi đến một nhà nuôi - foster home.
Như thế, bài
toán trừ ly dị “zero tolerance” nhất định không nhường nhịn trong trường hợp cả
cha lẫn mẹ bất lực này thật là thê thảm, vì cái hậu quả zero giữa họ với nhau,
cái hậu quả gây ra bởi họ chẳng đếm xỉa gì đến tình nghĩa phu thê giữa họ với
nhau, hay ít là còn nghĩ đến tình nghĩa phụ tử hay mẫu tử giữa họ với con cái
của họ, đã khiến cho những đứa con vô tội mất cả cha lẫn mẹ, sống cuộc đời mồ
côi bất đắc dĩ, xa cách cả những người sinh thành dưỡng dục chúng còn sống như
thể đã qua đời.
Tình Nghĩa: Nhân Chia
Bởi thế, để tránh hiện tượng hay thảm trạng vợ chồng sống với nhau như một bài toán cộng, một lối sống dễ đưa họ tới đáp số zero của một bài toán trừ nát tan phá sản về cả tình nghĩa, của cải lẫn con cái như vậy, họ cần phải sống với nhau theo đúng mục đích và bản chất của hôn nhân là hiệp nhất, được thể hiện qua tác động vợ chồng “nên một thân thể” hết sức linh thiêng cao quí. Nghĩa là, hai vợ chồng phải làm sao để chẳng những tránh những lối sống, hành vi, thái độ cộng và trừ giữa vợ chồng với nhau, mà còn phải liên lỉ sống làm sao để vợ chồng chỉ là 1, bằng cách sống theo bài toán nhân 1 x 1 = 1 hay theo bài toán chia, 1 / 1 = 1, những bài toán chứng tỏ họ giải quyết những khác biệt, bất đồng và đụng chạm, không thể tránh trong đời sống vợ chồng, thậm chí cả lầm lỗi phạm đến bản tính của hôn nhân, chỉ bằng tinh thần hy sinh, nhịn nhục và tha thứ cho nhau.
Vợ chồng sống với nhau theo bài toán nhân 1 x 1 = 1 là ở chỗ, họ tác hành và giải quyết tất cả mọi sự trong gia đình bằng cách coi tất cả mọi sự là của chung, hoàn toàn tin tưởng nhau, chứ không phải kiểu làm giấy giữ của trước khi lấy nhau kẻo ly dị phải chia cả những gì mình có trước khi lấy nhau.
Ngoài ra, 1 x 1 = 1 trong đời sống vợ chồng còn ở chỗ tự thích nghi cuộc sống của mình với nhau, chứ không bắt nhau phải thích nghi với mình. Điển hình nhất là việc vợ chồng, một việc rất tinh tế, một việc cần phải mang lại cảm xúc chất ngất yêu thương thực sự cho cả hai thân thể, chứ không phải chỉ cho một đòi hỏi sinh lý nào. Ngoài ra, còn ở chỗ, đối với những gì không phải là tội thật rõ ràng, như những hành động ngoại tình, hay tác hại trông thấy như nghiện hút hay cờ bạc, thì hãy chiều nhau.
Thậm chí 1 x 1 = 1 còn được thể hiện đến tột độ bằng việc tha thứ cho nhau, nếu những điều tưởng là vô tội ấy mang lại những hậu quả không ngờ, như trường hợp thích nhẩy đầm, khiêu vũ, rồi từ từ đi đến chỗ sa ngã, hay ngay cả những trường hợp ngoại tình của nhau, những trường hợp mà sau đó người vợ hay chồng ngoại tình của mình thật lòng ăn năn hối lỗi, xin lỗi và quyết tâm sửa lỗi.
Nếu bài toán nhân 1 x 1 = 1 trong đời sống vợ chồng là tin tưởng nhau, thích ứng với nhau, chiều chuộng nhau và tha thứ cho nhau, để có thể liên lỉ “nên một thân thể” với nhau theo đúng bản chất và mục đích của hôn nhân, thì bài toán chia 1 / 1 = 1 của đời sống hôn nhân sẽ là chia sẻ với nhau và hy sinh cho nhau.
1 / 1 = 1 của đời sống hôn nhân là chia sẻ với nhau ở chỗ, đừng để cho nhau phải chịu khổ vì gánh nặng gia đình, gánh nặng con cái, gánh nặng công ăn việc làm, nhất là gánh nặng chính bản thân với những tính hư nết xấu của người là vợ hay chồng của họ. Mình phải làm sao để cho nhau cảm thấy lúc nào cũng hạnh phúc ở với mình, cũng thích sống với mình, cũng cảm thấy hãnh diện vì mình, cũng cần đến mình.
1 / 1 = 1 của đời sống hôn nhân còn là hy sinh cho nhau ở chỗ, nhiều khi không cần nhau phải tỏ ý mình mới biết để đáp ứng, trái lại, chính tình yêu thương nhau tha thiết sẽ làm cho mình trở thành nhậy cảm và biết đáp ứng tất cả những gì vợ mình hay chồng mình ước mong, thích thú hay cần thiết. Mình luôn phải luôn làm sao để trở thành quà tặng cho nhau, chứ đừng khi nào trở thành gánh nặng cho nhau. Trở thành quà tặng cho nhau ở chỗ, không phải mình cho nhau những gì mình thích mà là cho nhau những gì nhau thích. Thật ra cuộc sống hôn nhân bắt đầu và bền bỉ là ở chỗ lúc nào cũng là quà tặng cho nhau. Bởi thế, một khi con người bắt đầu tỏ thái độ lấy lại, bắt đầu có những hành động ăn thua, tính toán, business trong tình yêu phu phụ là con người bắt đầu giải quyết mọi sự vợ chồng bằng bài toán cộng 1 + 1 = 2, mà hậu quả khó có thể tránh được, hay vẫn thường xẩy ra nơi xã hội văn minh sặc mùi hưởng thụ và cá nhân chủ nghĩa này, đó là “zero tolerance”: ly dị 1 – 1 = 0.
Tuy nhiên, để có thể tránh sống đời vợ chồng theo cách tính toán 1 + 1 = 2 hay 1 – 1 = 0, trái lại, để luôn sống đúng với mục đích và bản chất của hôn nhân là hiệp nhất “nên một thân thể”, ở chỗ, 1 x 1 = 1 và 1 / 1 = 1, con người vợ chồng văn minh cần phải chẳng những có “tình” ngay từ đầu, mà còn phải có “nghĩa” khi chung sống với nhau nữa. “Tình nghĩa phu thê” là thế đó.
(Bài ngày mai: Ngừa Thai Phá Thai)
Tháng Sáu Kính Thánh Tâm Chúa với Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu: Bài 4 - "Sức mạnh của Cha và quyền năng của Cha ở nơi lòng từ ái của Cha".
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Sức mạnh của Cha và quyền năng của Cha ở nơi lòng từ ái của Cha. (10-12-1966)
Thông Điệp không dành cho kẻ cả cứ muốn làm kẻ cả, mà là cho những con chiên nhỏ bé.
Giáo huấn của Thông Điệp sẽ chỉ đánh động những con người có một con tim yêu mến. Chân lý sẽ thắng. Người ta phải chiến đấu, không phải để chống lại Giáo Hội, mà là choèiáo Hội và với Giáo Hội. (16-12-1966)
Chính ân sủng của Cha tạo nên những vò thánh, nâng các vò lên cùng Cha bằng một chuyên chở công phu của lòng sủng ái. (19-12-1966)
Để tìm ẩn náu nôi con tim các con cái của mình, Cha biết làm sao cho mình trở nên nhỏ bé.
Cha đến như một con trẻ nhỏ bé, và đi vào lòng người bằng tầm vóc bé nhỏ của Cha.
Vẻ cao cả của Cha có thể làm cho họ sợ hãi. Thế nhưng, lòng nhân lành của Cha lại lôi kéo họ. (3-1-1967)
Mặt trời sưởi ấm nôi nào tia sáng của nó chiếu rọi tới. Cũng thế, Thông Điệp sẽ sưởi ấm các linh hồn bằng ngọn lửa yêu thưông của nó, các linh hồn mà nó thấm nhập.
Bằng đức tin, những ai đón nhận Thông Điệp sẽ được thấm nhuần tác động của Thông Điệp.
Người ta không thể nào thường xuyên nhắc nhở loài người cho đủ, về tình yêu mà họ mắc nợ với Thiên Chúa của họ cũng như với nhau.
Thế giới chỉ có thể được chế ngự bằng tình yêu mà thôi.
Hãy loại trừ ra khỏi lòng các con, mối thù ghét và những bất hòa bôi nhọ linh hồn của các con, làm cho linh hồn các con khó thấm nhiễm được tác động của ân sủng và ảnh hưởng của tình yêu thần linh.
Những vật cự tuyệt Thiên Chúa của mình đang đợi chờ để bò loại trừ cho khỏi nhan Thiên Chúa.
Cha xin hết tất cả các hồn nhỏ, ở ngoài thế gian hay trong thầm kín của viện tu, hiến dâng cho Cha những hy sinh, dù nhỏ mọn mấy đi nữa, để các tội nhân đáng thưông ăn năn trở lại. Hãy nhớ rằng, Cha không quên một điều gì cả, và Cha luôn luôn trả lại gấp trăm cho những cố gắng nhỏ mọn nhất của các con.
Cổng Thiên Đàng chỉ vừa tầm cho các hồn nhỏ và những ai giống như chúng lọt vào mà thôi. (12-1-1967)
Cha là Tặng Vật của Thiên Chúa.
Cha là Tình Yêu Nhưng Không.
Cha là Đấng phải đến. (18-1-1967)
Mục đích Thông Điệp của Cha là làm cho con người hiểu sâu hôn về tình yêu của Cha đối với họ.
Điều Cha xin là:
hy sinh, cầu nguyện, hãm mình'
gia tăng lòng tôn sùng Mẹ Maria'
phục hồi và phổ biến kinh Mân Côi khắp nôi. (29-1-1967)
Sau khi bão tố qua đi, bầu trời lại càng sáng sủa hôn.
Sự thật luôn luôn chiến thắng.
Lời của Cha chiếm cứ các cói lòng, qui thuận chúng theo luật phép của mình.
Cha đã nói: "Nếu đức tin của các con bằng hạt cải, các con có thể khiến núi non 'Hãy chuyển chỗ này đến chỗ kia', và nó sẽ dời đi' không gì mà các con không làm được".
Bằng lòng tin tưởng nhiều hôn nữa vào tình thưông của Cha, tình yêu sẽ qui tụ những núi non nôi các cói lòng lại, nhờ đó, lật ngược nước cờ của kẻ thù. Những núi non này sẽ vưôn lên đến tận Trời cao, bằng chứng cớ mạnh mẽ của chúng' Cha trên trời, Đấng Tạo Dựng nên mọi sự, sẽ âu yếm yêu thưông đón nhận chúng.
Như thế là các con bật mở các cánh cửa tình thưông của Cha và kiềm chế phép công thẳng của Cha.
Thế nhưng, sở dó Cha tỏ cho các con thấy yếu điểm của Cha là để các con vững tâm hôn mà tấn công Cha.
Nếu Tình Yêu phải chiến thắng thế giới và những mưu đồ của nó, thì tình yêu này, được chiếu rọi từ Thiên Chúa, đồng thời cũng sẽ thắng được chính Thiên Chúa của các con, và chiếm lấy ôn tha thứ và bình an của Người cho hết mọi con cái Người.
Đây là điều mà Cha hiến cho các con, nếu các con muốn nhận lấy...
Cha sẽ quên đi là Cha đã hiến sự sống của Cha vì những việc bất chính của các con, và đã nhận được dửng dưng lạnh nhạt đáp đền cho giá hy sinh của Cha. (31-1-1967)
(còn tiếp cho tới hết Tháng Thánh Tâm)
'Mặt Trời Khổ Ải' - Đức Gioan Phaolô II; 'Vinh Quang Oliu' - Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Bài 4 - 'Thiên Chúa và tình yêu thương của chúng ta là điều kiện cho mối hiệp nhất của Kitô hữu'.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Sự kiện ngài ban hành bức Thông Điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” của mình vào Ngày Kết Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo không phải là một dấu chỉ thời đại cho thấy Kitô hữu cần phải trở về với căn tính đức ái trọn hảo, với “Thiên Chúa Là Tình Yêu” của mình mới có thể hiệp nhất nên một hay sao? Đúng thế, ở những lời kết buổi triều kiến chung hằng tuần Thứ Tư 18/1/2006, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã xác nhận về mối liên hệ giữa bức thông điệp và thời điểm ban hành này như sau:
“Cũng vào ngày kết Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo này, bức thông điệp đầu tiên của tôi cuối cùng sẽ được ban hành, nhan đề như đã được biết đến, đó là ‘Deus Caritas Est - Thiên Chúa Là Tình Yêu’. Đề tài này không trực tiếp liên quan tới vấn đề đại kết, thế nhưng bố cục và bối cảnh lại là vấn đề đại kết, vì Thiên Chúa và tình yêu thương của chúng ta là điều kiện cho mối hiệp nhất của Kitô hữu. Cả hai là điều kiện cho hòa bình trên thế giới”.
Trong bài giảng của mình ở Giờ Kinh Chiều, tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành, vào ngày kết thúc Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo (18-25/1) hằng năm, ngỏ cùng thành phần đại kết, trong đó có phái đoàn 150 vị đại biểu các Giáo Hội và cộng đồng giáo hội Kitô Giáo, Vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta đã liên kết mối hiệp nhất Kitô Giáo với Tình Yêu Thiên Chúa, nội dung bức thông điệp đầu tiên của ngài, một văn kiện vừa được ban hành trước đó mấy tiếng đồng hồ. Ngài đã mời gọi mọi những ai hiện diện bấy giờ hãy nhìn “tất cả con đường đại kết theo chiều hướng của tình yêu Thiên Chúa, của thứ Tình Yêu là Thiên Chúa”, với những ý tưởng tiêu biểu như sau:
“Thiên Chúa là tình yêu. Tất cả đức tin của Giáo Hội được xây dựng trên tảng đá này. Đặc biệt là việc nhẫn nại tìm kiếm mối hiệp thông trọn vẹn nơi tất cả mọi thành phần Kitô hữu được xây dựng trên tảng đá ấy.
“Gắn mắt vào chân lý này, tột đỉnh của mạc khải thần linh, cho dù sự kiện chia sẽ vẫn còn chồng chất đau thương, thì tình trạng chia rẽ này dường như vẫn có thể vượt qua và không làm cho chúng ta nản chí.
“Tình yêu chân chính không loại trừ đi những khác biệt hợp lý, nhưng hòa hợp chúng lại thành một mối hiệp nhất ở mức độ cao hơn, một mối hiệp nhất được áp đặt lên chúng ta từ bên ngoài, đúng hơn, nói cách khác, một mối hiệp nhất của toàn thể được hình thành từ bên trong.
“Nó là mầu nhiệm hiệp thông, như nó liên kết con người nam nữ lại thành một cộng đồng yêu thương và sự sống là hôn nhân thế nào, nó cũng làm cho Giáo Hội thành một cộng đồng yêu thương, cống hiến mối hiệp nhất cho một kho tàng đa dạng về các tặng ân và các truyền thống.
“Trong việc phục vụ cho mối hiệp nhất yêu thương này, Giáo Hội Rôma, theo Thánh Ignatiô Antiôkia diễn tả, ‘chủ sự trong đức ái’.
“Vị Giám Mục Rôma, một lần nữa, đặt trong tay Thiên Chúa thừa tác vụ kế vị Thánh Phêrô của mình, xin Thánh Linh soi sáng và tăng sức cho thừa tác vụ này, nhờ đó ngài luôn nuôi dưỡng mối hiệp nhất huynh đệ nơi tất cả mọi Kitô hữu”.
Trong Sứ Điệp gửi Đức Hồng Y Jean-Louis Tauran về Giáo Hội Chính Thống Giáo Hy Lạp 27/10/2005, ngài còn nhấn mạnh đến vấn đề Đại Kết Kitô Giáo liên quan đến Vận Mệnh Âu Châu nữa, như sau:
“Tôi xin huynh hãy chuyển đến Đức Thượng Phụ Christodoulos là tôi lấy làm vui mừng được tiếp đón ngài ở Rôma để cùng nhau cho thấy một giai đoạn mới đạt được trên con đường hòa giải và hợp tác. Điều này chứng thực cho lòng tôi thành thật muốn phát tiển mối liên hệ mạnh mẽ hơn bao giờ hết niềm tin tưởng và tình huynh đệ giữa chúng ta trong việc cùng nhau hoạt động trong nhiều khó khăn thử thách của việc truyền bá phúc âm hóa: Đặc biệt là chúng ta có thể mạnh mẽ hơn để giúp cho các quốc gia Âu Châu tái xác nhận căn gốc Kitô giáo của họ để một lần nữa họ tìm được nhựa sống dưỡng nuôi và làm phong phú chính tương lai họ cho thiện ích của con người và toàn thể xã hội. Nó sẽ là một đường lối cùng nhau loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô cho thế giới hiện đại là thế giới rất cần đến nó. Nhờ thế, chúng ta mới đáp ứng hơn bao giờ hết niềm thiết tha ước mong của chính Chúa Kitô là: ‘Để họ được nên một’ (x Jn 17:21), cho đến ngày, thời điểm Thiên Chúa muốn và theo hướng dẫn của Thánh Linh, chúng ta có thể cử hành mối hiệp thông được trọn vẹn phục hồi”.
Đó là lý do, như đoạn thứ hai của phần Viễn Ảnh kết thúc tập sách này đã ngưỡng vọng:
“Biết đâu, Thời Điểm Fatima sẽ càng sáng tỏ vào năm 2017, dịp kỷ niệm 100 năm Biến Cố Fatima, cũng là dịp trùng hợp kỷ niệm đúng 500 năm xuất phát Phong Trào Thệ Phản Cải Cách ở Đức, Kitô Giáo sẽ tiến đến chỗ hiệp nhất… cho một Âu Châu Hiệp Nhất, những gì đã được gói ghém nơi danh hiệu Giáo Hoàng Biển Đức XVI, một danh hiệu từ thời Giáo Hoàng Biển Đức XV (1914-1922), mở màn cho Thời Điểm Fatima”.
Chúng ta hãy nguyện cầu và chờ đợi để thấy được những dấu chỉ thời đại hiện lên trên bầu trời lịch sử nhân loại đầy những biến động hết sức kỳ lạ và kỳ quái chưa từng thấy trên trái đất của chúng ta đây.
(còn tiếp nhiều kỳ)