GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ BA 11/7/2006

 TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN

 

?  Thực Hiện Ngày Họp Thế Giới Các Gia Đình ở Tây Ban Nha 8-9/7/2006: Bài 21.- Con Người Vào Đời

?  Thế Giới Hồi Giáo với Hiện Tượng Khủng Bố Hiện Đại và Nỗ Lực Đối Thoại của Giáo Hội Công Giáo - Bài 11: ĐTC Biển Đức XVI với Những Liên Hệ Giữa Công Giáo và Hồi Giáo

?  Giáo Hoàng Biển Đức XVI - Giáo Huấn Sống Chân Lý và Đức Tin: Bài 7 - Ngoại Giao trong Sự Thật

 

 

? Thực Hiện Ngày Họp Thế Giới Các Gia Đình ở Tây Ban Nha 8-9/7/2006: Bài 21.- Con Người Vào Đời

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

Vào Đời: Chủ Trương Của Khổng Giáo 

 

T

rước hết, “vào đời” đây không phải là ra đời, một biến cố chào đời hay sinh vào trần gian, một biến cố hoàn toàn trái với ý nghĩa “qua đời” hay “lìa đời”, một biến cố chết đi hay ra khỏi trần gian. Bởi thế, con người “vào đời” đây là con người sau khi đã được giáo dục để thành nhân bắt đầu xuống núi hành hiệp, bắt đầu bước vào đời, bắt đầu lập thân xây dựng sự nghiệp, bắt đầu dấn thân gánh vác trách nhiệm làm người trong xã hội, những trách nhiệm chính yếu đối với gia đình thân thuộc, đối với quốc gia dân tộc, cũng như đối với nhân gian đồng loại. Đó là lý do Khổng Giáo chủ trương con người vào đời cần phải trải qua tiến trình bốn giai đoạn là “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

 

Thật vậy, theo chủ trương của Khổng Giáo, một tôn giáo, đúng hơn, một triết thuyết thiên về xã hội, một triết thuyết sau khi nhấn mạnh đến chiều kích giáo dục con người “nhân chi sơ tính bản thiện” thành một con người chính nhân quân tử, thì tiến đến chiều kích xây dựng xã hội. Thế nhưng, để có thể xây dựng xã hội, xây dựng thực sự và có công hiệu, con người trước hết cần phải tu thân, bằng không, họ sẽ không có đủ tư cách và khả năng để “tề gia”, lại càng không thể “trị quốc”, nhất là “bình thiên hạ”. Như thế, vấn đề “tu thân” của Khổng Giáo ở đây cũng chính là vấn đề giáo dục, vấn đề phải làm sao để con người có thể trở thành một chính nhân quân tử. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, giáo dục là vấn đề cả một đời người chứ không phải cho đến khi con người lên tới 18 hay 21 tuổi là xong, là tự nhiên thành nhân, là thành chính nhân quân tử. Đó là lý do, vấn đề “tu thân” của Khổng Giáo ở đây còn áp dụng cho tất cả mọi con người đã thành nhân về thể lý nhưng chưa trọn về “minh đức”.

 

Thế nhưng, thực tế còn cho thấy con người ta dù “nhân chi sơ tính bản thiện” nhưng cũng chỉ là những con người “nhân vô thập toàn”. Bởi đó, không ai dám vỗ ngực tự cho mình là chính nhân quân tử, là thánh nhân thánh hiền. Cùng lắm, vì tư cách đặc biệt và nổi bật, một số con người rất hiếm hoi nào đó, như các vị sáng lập đạo giáo hay như một Mẹ Têrêsa Calcutta chẳng hạn, ngay khi còn sống, đã được thiên hạ mộ mến tôn sùng như những bậc thánh hiền thánh sống, đã được nhiều người đi theo làm môn đệ. Như thế, vấn đề được đặt ra ở đây là, nếu xã hội chỉ có một ít rất hiếm chính nhân quân tử, thỉnh thoảng mới xuất hiện một thánh nhân thánh hiền, những vị đáng được gọi là “anh hùng tạo thời thế” này, thì vấn đề “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” phải chăng chỉ là một thứ mộng tưởng cao vời, hay cùng lắm chỉ là một cái gì thuần lý thuyết lý tưởng, không bao giờ có thể hiện thực hay rất hiếm người có thể thực hiện được.

 

Vào Đời: Chủ Trương Của Kitô Giáo

 

Phần Kitô Giáo, như bài lần trước về “con người thành nhân” đã đề cập tới, con người được kêu gọi nên thánh chứ không phải chỉ nên người, chỉ thành nhân, mà là được kêu gọi nên thánh trong một tình trạng bất toàn và tội lỗi, trong một trạng thái con người còn mang trong mình đầy những mầm mống tội lỗi, lúc nào cũng có thể sa ngã, lúc nào cũng có thể trở thành một tội nhân, trở thành một con người “tiểu nhân”, thậm chí trở thành một con người “bần nhân” hay “tiện nhân” trước mắt thiên hạ. Chính vì thế, cuộc sống nên thánh của Kitô hữu mới là cuộc sống vượt qua sự chết mà vào sự sống, mới là cuộc sống đi từ tối tăm tiến ra ánh sáng lạ lùng, mới là cuộc sống về nguồn, tức trở về với nguồn mạch chân, thiện, mỹ nguyên thủy của mình là thực tại mà họ đã mù quáng bị lạc xa ngay từ ban đầu. Và môi trường để con người có thể nên thánh, có thể về nguồn, đó là bản thân con người, là gia đình thân thuộc, là quốc gia dân tộc, là nhân gian đồng loại, những môi trường được Khổng Giáo gọi là “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

 

Tức là, Kitô Giáo không chủ trương con người phải là chính nhân quân tử, là thánh nhân thánh hiền đã rồi mới làm gì thì làm, như làm linh mục, làm tu sĩ v.v. trái lại, cứ làm rồi sẽ nên thánh hay nhờ làm mà trở thành thánh nhân thánh hiền; bằng không, ai dám cho mình là thánh nhân, là toàn hảo, để có thể đóng vai giáo hoàng hay giám mục trong việc chăn dắt con chiên bổn đạo, đóng vai thày cô dạy bảo học sinh hay cha mẹ giáo dục con cái, đóng vai tổng thống dẫn dắt dân chúng hay thẩm phán phân xử tội phạm v.v. Đó là lý do Đấng Sáng Lập Kitô Giáo đã dạy những người Do Thái đang tính xử tử một người phụ nữ bị họ bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, một tội mà theo luật của họ sẽ bị ném đá chết, là “ai trong quí vị không có tội thì hãy ném đá chị ta trước đi” (xem Gioan 8:9).

 

Phải, chính vì thực sự cảm nhận được thân phận bất toàn của mình, một cảm nhận mà con người thành nhân nào cũng phải có, bằng không họ chưa thực sự thành nhân, chưa thực sự biết mình, tức còn tỏ ra những hành động mộng du ngông cuồng trái với nhân cách làm người, con người vào đời mới có thể tiến tới chỗ nhận biết tất cả những gì tốt lành nơi mình, về khả năng cũng như về phẩm chất, đều là tặng ân họ nhận được từ trên cao. Bởi thế, chân lý thứ hai con người thành nhân vào đời thâm tín được và không thể nào sống ngược lại, đó là chân lý lưỡng diện về vai trò phổ quát của con người sau đây: đối với Trời, với Đấng đã ban cho họ những gì họ có nơi thân phận làm người, họ chỉ đóng vai trò của một người quản lý trong việc phân phát những gì họ có cho anh chị em đồng loại của mình, và khi thi hành phận sự phân phát như thế, nghĩa là họ không sống cho mình mà là cho người, thì đối với tha nhân, họ chỉ đóng vai trò của một người tôi tớ phục vụ không hơn không kém.

 

Vào Đời: Một Hiện Trường Thế Giới

 

Chân lý lưỡng diện liên quan đến vai trò phổ quát này của con người vào đời vô cùng quan trọng, bởi vì, tất cả vận mệnh của loài người và tương lai của thế giới này đều lệ thuộc vào chân lý ấy, đúng hơn, lệ thuộc vào việc con người có nhận ra chân lý này và sống chân lý này hay chăng.

 

Lịch sử cho thấy, bao lâu con người còn chủ trương “pro choice” trong tất cả mọi sự, tức cho mình có toàn quyền, trên tất cả những gì mình có, như tử cung nơi thai mẫu hay sự sống nơi thai nhi hoặc sự sống nơi bệnh nhân nan trị, chứ không chịu đóng vai trò quản lý viên cho Hóa Công và tôi tớ phục vụ tha nhân, thì con người đang ra tay tàn phá tất cả những gì mình có, thậm chí đang đi đến chỗ tự diệt, như tình hình con người văn minh tân tiến ngất ngưởng ngày nay song chỉ biết quay cuồng với khuynh hướng thụ hưởng - consumerism theo cá nhân chủ nghĩa - individualism đang hiển nhiên cho thấy.

 

Đặc biệt về phương diện chính trị, một con người chỉ ham danh và tham quyền cố vị thì thử hỏi họ có thực sự phục vụ thành phần nhân dân đã bầu họ lên hay chăng, một thành phần đã căn cứ vào những hứa hẹn ban đầu đủ thứ của họ có vẻ vuốt ve mị dân để đạt được đích điểm tham vọng quyền uy thế lực của họ. Có thể nói, hay phải công nhận rằng, tất cả mọi sự lộn xộn về vấn đề cai trị đều do thành phần lãnh đạo chính trị không biết sống tinh thần Đức Kitô đã dạy các môn đệ của Ngài, đó là tinh thần “ai muốn làm đầu phải làm đầy tớ phục vụ mọi người” (xem Mathêu 20:26).

 

Lịch sử cũng cho thấy, chính vì thâm tín được chân lý về nhân loại học siêu nhiên liên quan đến vai trò của mình là quản lý của Thiên Chúa và là đầy tớ của nhau như thế mà, trong số các đạo giáo lớn trên thế giới, chỉ có Kitô Giáo, theo gương Vị Sáng Lập của mình, Đấng tuyên bố “đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ” (xem Mathêu 20:28), và đã làm gương qùi xuống rửa chân cho các môn đệ của mình (xem Phúc Âm Gioan 13:5), mới lập lên những cơ sở phục vụ nhân quần xã hội ở đủ mọi lãnh vực, để cố gắng đáp ứng đủ mọi nhu cầu thiết yếu của anh chị em đồng loại của mình, nhất là thành phần bất hạnh nhất trên đời, thành phần được Vị Sáng Lập gọi là “anh em hèn mọn nhất của Ta” và tuyên bố là làm ơn cho họ chính là làm ơn cho Ngài (xem Mathêu 25:40).

 

Ngày 6/11/2002, tại Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh Vatican, Đức Tổng Giám Mục Javier Lozano Barragan, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Về Mục Vụ Chăm Lo Sức Khoẻ, đã cho biết về hội nghị quốc tế lần thứ 17 do hội đồng này tổ chức. Đề tài của hội nghị lần này là “Căn Tính của các Tổ Chức Công Giáo Về Việc Chăm Lo Sức Khỏe”. Hội nghị với 700 tham dự viên này đã kéo dài 3 ngày, từ 7-9/11/2002, tại Sảnh Đường Tân Synod ở Vatican. ĐTGM chủ tịch cho biết Giáo Hội Công Giáo đang điều hành khắp thế giới 6.038 bệnh viện, 17.189 cấp cứu viện, 799 trại cùi, 13.238 trung tâm cho người già, yếu liệt và tật nguyền, 8.711 viện mồ côi, 10.368 trung tâm giữ trẻ, 10.565 trung tâm cố vấn gia đình, 18.789 trung tâm giáo huấn hay cải huấn xã hội, và 25.257 trung tâm thừa tác vụ chăm sóc sức khoẻ. Tổng cộng tất cả các tổ chức chăm sóc sức khoẻ của Công Giáo trên thế giới là 110.954.

 

Chưa hết, cũng chính vì ý thức được chân lý làm người thực sự chỉ đóng vai trò là quản lý của Thiên Chúa, ban phát tất cả những gì nhận được từ Ngài cho anh em đồng loại của mình theo phận sự của một người tôi tớ phục vụ như thế, mà Giáo Hội Công Giáo đã mạnh mẽ lên tiếng phản đối, cho dù có bị chống đối, bất cứ thành phần nào vì không sống đúng với chân lý làm người này đã tác hại cho công ích.

 

Đó là lý do những vị thẩm quyền của Giáo Hội Công Giáo đã ban hành những văn kiện hiện đại khi thấy có những hiện tượng, biến chuyển hay trào lưu phi nhân bản, phản luân thường đạo lý.

 

Điển hình nhất là ba bức Thông Điệp lừng danh sau đây: Bức Thông Điệp thứ nhất là Thông Điệp “Tân Sự” Rerum Novarum của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, ban hành ngày 15/5/1891 chẳng những lên án nạn bất công xã hội về phía tư bản mà còn cả nạn cộng sản về phía xã hội chủ nghĩa nữa; Bức Thông Điệp thứ hai là Thông Điệp “Sự Sống Con Người” Humanae Vitae của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, ban hành ngày 25/7/1968, để lên án hành động ngừa thai nhân tạo phản mục đích thực sự của hôn nhân chính đáng và đề nghị theo phương pháp ngừa thai tự nhiên; và Bức Thông Điệp Thứ Ba là Thông Điệp “Phúc Âm Sự Sống” Evangelium Vitae của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ban hành ngày 25/3/1995, để lên án văn hóa sự chết, như phá thai và trợ an tử, và phát động văn hóa sự sống.

 

Riêng vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trước Hội Nghị Về Dân Số ở Cairô Ai Cập năm 1994, còn gửi thư cho Vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc bấy giờ, cũng như cho từng vị Quốc Trưởng trên thế giới về bản dự thảo của Liên Hiệp Quốc muốn kiểm soát dân số bằng việc hệ thống hóa vấn đề phá thai khắp thế giới là những gì sai lầm và vô cùng nguy hiểm. Cuối cùng, trước tinh thần chiến đấu cương quyết và dũng mãnh cho chân lý của phái đoàn đại biểu Công Giáo, vấn đề này đã đành phải tạm xẹp xuống.

 

Vào Đời: Nhân Loại Học Siêu Nhiên

 

Tóm lại, một con người vào đời là một con người nhập cuộc với xã hội để phục vụ, để sống cho đời, chứ không phải chỉ để hưởng thụ, để sống cho mình. Bởi vì, trước hết, họ đã ý thức được thân phận tạo vật hữu hạn đầy bất toàn của mình, sau nữa, từ đó, họ đã cảm nhận được vai trò quản lý của mình đối với những gì họ có, cũng như vai trò tôi tớ phục vụ của họ trong việc chia sẻ những cái họ có đó, và sau hết, họ còn tỏ ra bênh vực những gì sai trái làm hại đến công ích xã hội nữa. Như thế, bốn luân đức trụ đã được bàn đến trong bài “con người thành nhân”, là khôn ngoan, công bằng, tiết độ và can đảm, bốn đức hạnh chứng tỏ con người thành nhân, khi vào đời, con người đã thực sự sống và thực thi chúng.

 

Đúng vậy, con người vào đời chính là con người thành nhân, trước hết, ở chỗ họ khôn ngoan sống trong chân lý làm người, biết mình mang thân phận bất toàn để rồi cố gắng đóng đúng vai trò quản lý và tôi tớ của mình.  Khi nỗ lực để cho chân lý làm người này được thể hiện nơi cuộc đời, qua hành vi cử chỉ của mình, là con người đã sống một đời sống công bằng, đúng như lời Vị Sáng Lập Kitô Giáo dạy: “Trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” (xem Mathêu 22:21), một tác động hoàn trả công bằng; thế nhưng, tác động hoàn trả công bằng này không phải là hoàn trả trực tiếp cho Đấng Tạo Hóa Tối Cao Vô Cùng Hoàn Hảo và Phong Phú chẳng cần gì của tạo vật, song hoàn trả một cách gián tiếp cho Ngài qua tha nhân đồng loại, thành phần bất toàn thiếu thốn mọi mặt, thành phần mà Ngài muốn những gì Ngài ban cho mỗi một tạo vật ngôi vị trong họ đều phải được sinh hoa kết trái qua việc chia sẻ và phân phát tặng ân của Ngài cho nhau chung hưởng, nhờ đó tất cả mọi người cũng được hưởng sự phong phú và trọn hảo của Ngài.

 

Để có thể sống trọn chân lý làm người ấy, tức để hoàn toàn và thực sự sống một đời sống khôn ngoan và công bằng như vậy, con người thành nhân vào đời còn chứng tỏ cho thấy là họ chẳng những đã cố gắng sống tiết độ biết làm chủ mình, mà còn hết sức can đảm sống chân lý ấy nữa, nhất là những lần họ bất chấp mọi giá hoạt động và vận động để bảo vệ nó hay bênh vực nó khi nó bị đam mê dục vọng của loài người ngông cuồng lấn át, bóp cổ và sát hại một cách phũ phàng và oan nghiệt!

 

Như thế, một con người vào đời, sống cho đời hơn cho mình, phục vụ hơn hưởng thụ, một cách khôn ngoan, công bằng, tiết độ và can đảm, là con người thực sự đã đạt tới tầm mức thành nhân toàn hảo của mình nhờ đời và trong đời.

 

Nếu thân xác của một thai nhi được hình thành nên hình dạng con người trước khi được ra chào đời thế nào, thì tinh thần của con người cũng được đạt đến tầm vóc thành nhân của mình nhờ đời và trong đời để được tái sinh vào đời với một con người mới như vậy.

 

Bởi thế, nếu con người thành nhân để vào đời thì con người vào đời là để thành nhân, nhờ “thời thế tạo anh hùng”, vì khi vào đời là lúc con người bắt đầu được đời trực tiếp cưu mang và hình thành cho đến khi họ được tái sinh với một con người mới, một con người viên mãn yêu thương, một con người có khả năng và tư cách của một “anh hùng tạo thời thế”, vì tình yêu viên mãn nơi họ là một quyền lực vô địch mạnh hơn tử thần và là một thứ ánh sáng sự sống xua tan tối tăm tội lỗi.

 

 

TOP

 

 

 ? Thế Giới Hồi Giáo với Hiện Tượng Khủng Bố Hiện Đại và Nỗ Lực Đối Thoại của Giáo Hội Công Giáo - Bài 11: ĐTC Biển Đức XVI với Những Liên Hệ Giữa Công Giáo và Hồi Giáo

 

Cha Daniel Madigan, chủ tịch Học Viện Về Văn Hóa Và Chư Giáo của Đại Học Gregorian ở Rôma, vị mới được vị đương kim giáo hoàng bổ nhiệm làm tham vấn viên liên quan tới những mối liên hệ với Hồi hữu của Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách Đối Thoại Liên Tôn, trong một cuộc phỏng vấn với mạng điện toán toàn cầu Zenit, đã cho biết nhận định của mình về thái độ của Đức Thánh Cha Biển Đức đối với cơ hội gặp gỡ nanh chị em Hồi hữu, ở chỗ, ngài chú trọng tới việc đối thoại với con người hơn là với cơ cấu.

 

Vấn:     Phải chăng Đức Thánh Cha Biển Đức XVI theo đường lối của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đối với Hồi hữu, hay là ngài theo một đường lối khác?

 

Đáp:    Quá sớm để tóm tắt đường lối tổng quan của vị tân Giáo Hoàng này đối với Hồi hữu, cũng như để so sánh nó với nhiều năm tháng hoạt động về lãnh vực này của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Đối với tôi, có một số điểm trong bài ngài ngỏ cùng thành phần đại diện Hồi hữu ở Cologne cho thấy một cái gì đó về kiểu cách của ngài.

 

Đức Thánh Cha này đôi lúc gọi thành phần thính giả của mình là “quí bạn Hồi hữu trọng kính thân mến”, và tôi hiểu rằng việc cứ sử dụng những chữ ấy không có trong nguyên bản được trao cho phóng viên ký giả, thế nhưng chúng phản ảnh những ngôn tự tự phát của ngài vào dịp ấy.

 

Đối với tôi, đó là một dấu hiệu quan trọng về cung cách ngài muốn Giáo Hội thực hiện. Nó không phải là cái gì mới mẻ, nhưng cần phải nhấn mạnh trong những năm này là thời điểm nhiều sự đã bị xao động rất nhiều giữa chúng ta.

 

Ngoài ra, ngài tái khẳng định bản văn kiện của Công Đồng Chung Vaticanô II “Nostra Aetate”, cho đó là Đại Hiến Chương cho vấn đề đối thoại. Đó là điều quan trọng ở vào lúc mà một số người đang cố gắng đặt vấn đề về thẩm quyền đối với các chủ trương của công đồng này nơi bản văn kiện ấy.

 

Đức Thánh Cha này chưa bao giờ nói trong bài diễn từ ấy về “Hồi giáo” cả, mặc dù ngài nói hai lần đến đức tin Hồi giáo. Điều này quan trọng vì chúng ta có khuynh hướng nói về Hồi giáo như thể tôn giáo này là điều duy nhất. Chúng ta cảm thấy choáng váng trước tôn giáo này, vì tôn giáo ấy dường như quá lớn.

 

Thế nhưng, Đức Thánh Cha Biển Đức hướng tới đường lối bằng cách nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại (như công đồng đã làm) về việc nói về con người, không nói về giáo thể, nói về Hồi hữu, không nói về Hồi giáo.

 

Người ta đôi khi ngờ vực về khả năng của việc đối thoại; một lý do tối thiểu về mối ngờ vực này đó là họ bị nhầm lẫn về thành phần tín hữu thực sự, về tha nhân và đồng nghiệp của họ, về đồng bào của họ, và họ nghĩ rằng đối thoại là vấn đề liên hệ tới những bản văn cổ cùng với những giáo điều lịch sử. Chỉ có con người mới đối thoại với nhau mà thôi.

 

Cuộc gặp gỡ ở Cologne đã cho thấy một bộ mặt quan trọng khác của cuộc đối thoại này – Đức Thánh Cha này đã không ngần ngại nói một cách thành thực về những quan tâm sâu xa của ngài. Ngài kh6ong tránh né sự thật hiển nhiên về tình trạng suy đồi của thế giới chúng ta đây, hay ngài không chỉ trách móc “những người bạn trọng kính” của ngài.

 

Trái lại, ngài đã nêu lên việc cùng làm việc với họ để tìm lối thoát. Ngài đã trang trọng coi họ là những tín hữu – thật sự ngài đã nhấn mạnh là “tất cả chúng ta, Kitô hữu và Hồi hữu, đều là những tín hữu” – và đã nói với họ một cách thành thật theo niềm tin của ngài và kêu gọi niềm tin của họ.

 

Vấn:     Vị Giáo Hoàng này không bao giờ nói tới việc đụng độ mà là việc gặp gỡ và liên đới văn minh. Thành phần Hồi hữu cha có dịp đối thoại trao đổi có luôn nghĩ như thế hay chăng?

 

Đáp:    Thật đáng chú ý về việc không có nơi bài nói của ngài tất cả những ngôn từ có tính cách đối đầu, chiến đấu, đối chọi, chiến tranh. Không phải vì ngài là một người dễ lạc quan, mà ngài dường như nhận thấy rằng tất cả những thứ nói về cuộc đụng độ văn hóa có thể trở thành một thứ tiên tri tự mãn.

 

“Văn minh” là một tư tưởng khác trong những tư tưởng trừu tượng rộng lớn có khuynh hướng làm lu mờ đi con người thực sự được chúng ta giao tiếp. Con người nói về một nền văn minh Hồi giáo, thế nhưng theo cách thức họ diễn tả về nó, hầu như không có một Hồi hữu nào tôi biết thuộc về thứ văn minh ấy cả. Tôi giao tiếp với nhiều Hồi hữu từ các quốc gia khác nhau và đời sống khác nhau, họ là một nhóm người hết sức khác nhau.

 

Tôi may mắn được giao tiếp hằng ngày trong 5 năm qua với một nhóm sinh viên Hồi hữu tuyệt vời, thành phần đến Rôma để học hỏi về Kitô giáo hầu phát động việc đối thoại và hiểu biết. Họ thật sự là không mất niềm hy vọng vào việc đối thoại.

 

Một điểm quan trọng nơi kinh nghiệm của họ nữa đó là họ vượt ra ngoài tất cả những thứ nói năng về “Tây phương” và “Kitô giáo”, và sống động cùng hoạt động bên những Kitô hữu thực sự – một lần nữa, chính con người mới là then chốt, chứ không phải cơ cấu.
 
Vấn:     Cha là một chuyên viên về Hồi giáo chẳng những biết được rất rõ về các văn liệu mà còn biết được rất nhiều người nữa. Cha thấy những cơ hội quan trọng nhất cho vấn đề đối thoại là ở chỗ nào và những điểm bất đồng trầm trọng nhất là ở chỗ nào?

 

Đáp:    Tôi rất thích việc đối thoại về thần học chúng tôi có được ở nơi viện đại học này. Tuy nhiên, tôi không tin rằng những điểm khác nhau giữa chúng ta thực sự về thần học. Nhẫn nại và chuyên chăm, chúng ta có thể tiến đến chỗ hiểu biết rõ ràng hơn những đường lối khác của nhau nơi việc tin tưởng vào một vị Thiên Chúa duy nhất.

 

Tuy nhiên, càng trở nên khó khăn hơn nữa khi đi sâu vào căn gốc của mối hận ức, của niềm bất mãn và của cảm quan bị loại trừ là những gì rất nhiều Hồi hữu (và không chỉ Hồi hữu thôi) cảm thấy, những gì càng ngày càng được khai thác để trở thành những phản ứng bạo động từ một số ít.

 

Rất nhiều yếu tố góp lại khiến cho thế giới của chúng ta trở nên như hiện này, đó là chính trị, kinh tế, chủ nghĩa quốc gia, vấn đề toàn cầu hóa, nợ nần, chủ nghĩa bộ tộc, chỉ cần liệt kê ít điều như thế. Tất cả những yếu tố ấy cần phải hiểu được biết nếu chúng ta hy vọng thay đổi thế giới của mình.

 

Tôi thấy cơ hội hay nhất cho việc đối thoại là ở chỗ kinh nghiệm về con người, chỗ chúng ta thấy được nỗi ước mong cho một thế giới tốt đẹp hơn. Đó là nơi chúng ta thực sự gặp gỡ nhau: ở đó, ở lòng mong ước thấy được một thế giới chân chính hơn và một đời sống viên trọn hơn cho tất cả mọi người này vang vọng thần linh của Thiên Chúa là Đấng tìm cách “canh tân bộ mặt trái đất”.

 

Điều này có vẻ qú ứ cao cả và có lẽ là ảo tưởng, thế nhưng chúng ta biết rằng, theo những dụ ngôn của Chúa Giêsu thì vương quốc của Thiên Chúa giống như một hạt giống nhỏ bé hay là một chồi mềm yếu, chứ không phải là một cơ cấu rải rác khắp thế giới.

 

Chính nơi những cuộc gặp gỡ nhỏ bé ấy mà đường lối của Thiên Chúa lộ diện, qua một nu cười, nơi việc chào hỏi, bằng bàn tay giúp đáp, bằng nói năng tử tế, bằng việc phục vụ nhỏ bé. Đó là những điều chung cho tất cả chúng ta mà tất cả chúng ta đều có trách nhiệm trong vấn đề đối thoại vậy.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 16/9/2005

 

 

TOP

 

 

?   Giáo Hoàng Biển Đức XVI - Giáo Huấn Sống Chân Lý và Đức Tin: Bài 7 - Ngoại Giao trong Sự Thật

(Huấn Từ cho Văn Phòng Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và Thành Phần Đại Diện Tòa Thánh Ở Các Tổ Chức Quốc Tế hôm Thứ Bảy 19/3/2006)

Những mối liên hệ giữa các quốc gia và trong quốc gia là những gì chân chính nếu chúng biết tôn trọng chân lý. Tuy nhiên, một khi sự thật bị coi thường thì hòa bình bị đe dọa, luật lệ gặp nguy khốn, kéo theo một hậu quả hợp tình hợp lý nữa đó là tình trạng bất công và tháo thứ. Đó là những lằn biên giới phân chia các quốc gia một cách còn sâu xa hơn cả những giới hạn được phác vẽ trên bản đồ địa dư, và thường chẳng những là những biên cương bờ cõi ngoại tại mà còn là nội tại đối với các quốc gia nữa.

 

Những thứ bất chính ấy cũng có những bộ mặt mới. Chẳng hạn, bộ mặt của tính cách thờ ơ lãnh đạm và hỗn loạn xẩy ra gây hại cho cơ cấu gia đình là tế bào căn bản của xã hội. Hay bộ mặt của chủ nghĩa độc đoán hay của tính cách ngạo mạn là những gì có thể được hợp pháp, làm câm nín đi những ai không có tiếng nói hay sức mạnh để được lắng nghe, như xẩy ra trong trường hợp bất công mà có lẽ ngày nay trường hợp bất công nhất là việc loại trừ đi sự sống con người vừa mới được phôi thai.

 

‘Thiên Chúa đã chọn thành phần yếu kém trên thế gian này để làm cho thành phần mạnh mẽ phải hổ ngươi’ (1Cor 1:27). Chớ gì tiêu chuẩn của tác động thần linh vẫn còn mạnh mẽ ngày nay ấy giúp cho quí vị không lấy làm ngỡ ngàng ngạc nhiên, lại càng không bị thất đảm nản lòng, trước những khó khăn và hiểu lầm. Thật vậy, quí vị biết rằng, nhờ chúng, quí vị tham dự một cách có thế lực vào trách nhiệm ngôn sứ của Giáo Hội, Một Giáo Hội nỗ lực để tiếp tục lên tiếng bênh vực con người, cho dù chính trị quốc gia hay đa số quần chúng có đi ngược chiều chăng nữa. Đúng vậy, sức mạnh của sự thật được chất chứa trong chính sự thật, chứ không phải ở con số ưng thuận nó nhận được.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ văn khố điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ